Mục từ này cần được bình duyệt
Mặt trăng
Phiên bản vào lúc 07:47, ngày 19 tháng 12 năm 2020 của Thanhbinh04 (Thảo luận | đóng góp)

Mặt trăngvệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái đất,[1][↓ 1] và đã được con người quan sát từ thời thượng cổ,[2] vì sự xuất hiện nổi bật trên bầu trời, với độ sáng cao thứ hai sau Mặt trời.[↓ 2] Là một thiên thể gần hình cầu,[3][4] kích thước khoảng 27% Trái đất,[5] với khối lượng cỡ hành tinh,[↓ 3] khoảng 1,23% khối lượng Trái đất,[5] Mặt trăng chứa nhiều đất đá silicat[6] và không có khí quyển,[5] thủy quyển[6] hay từ quyển[7] đáng kể.

Một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi cho rằng Mặt trăng hình thành cách đây hơn 4,5 tỷ năm,[8] không lâu sau khi Trái đất hình thành,[9] từ vật chất văng ra sau một vụ va chạm lớn giữa Trái đất và một thiên thể giả định mang tên Theia có kích thước cỡ Sao hỏa.[10][11]

Mặt trăng ở trong quỹ đạo đồng bộ với Trái đất, tức là chu kỳ tự quay của Mặt trăng bằng với chu kỳ quay quanh Trái đất, khoảng 27,3 ngày, do đó nó luôn quay một mặt về phía Trái đất, là nửa gần.[12] Do hiện tượng bình động nên quan sát từ Trái đất qua nhiều thời điểm, với mỗi thời điểm ở góc nhìn hơi khác, sẽ thấy tổng cộng nhiều hơn một nửa diện tích Mặt trăng (59%).[3][13] Các pha Mặt trăng, từ trăng tròn đến trăng non, tuần hoàn theo chu kỳ giao hội 29,5 ngày,[12] và tạo thành cơ sở cho lịch Mặt trăng (âm lịch).[14] Đường kính góc của Mặt trăng trên bầu trời tương đương với Mặt trời, khoảng hơn nửa độ, do đó Mặt trăng che kín Mặt trời trong nhật thực toàn phần.[15] Lực hấp dẫn của Mặt trăng gây ra thủy triều trên đại dương ở Trái đất, đồng thời gây ra hiệu ứng tương tự cho phần vỏ và lõi đất đá của Trái đất,[16] và làm cho một ngày ở Trái đất bị dài hơn một chút.[17] Khoảng cách trung bình từ Mặt trăng đến Trái đất là khoảng 384000 km,[18] tương đương 1,28 giây ánh sáng, hay khoảng 30 lần đường kính Trái đất.[3] Trong tương lai xa, khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất sẽ tăng dần, do hiệu ứng thủy triều, và Mặt trăng sẽ xuất hiện nhỏ dần.[17]

Trong Hệ Mặt trời, Mặt trăng là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm.[19] Nếu xét về tỷ lệ kích thước so với hành tinh mà nó quay quanh thì Mặt trăng đạt tỷ lệ này cao nhất trong Hệ Mặt trời.[↓ 4] Bề mặt Mặt trăng có các biển Mặt trăng là các vùng vật chất màu tối, để lại bởi hoạt động núi lửa cũ, nằm chủ yếu ở nửa gần, giữa các vùng vỏ cũ cao sáng màu có nhiều hố va chạm.[20] Các hố va chạm trên Mặt trăng được bảo quản tốt và cung cấp nhiều thông tin về quá khứ của Hệ Mặt trời.[21] Trọng trường ở bề mặt Mặt trăng bằng khoảng 1/6 so với Trái đất.[22] Nhiệt độ thay đổi mạnh theo điều kiện nhận ánh sáng Mặt trời, trung bình từ khoảng 100K vào ban đêm đến trên 100°C vào ban ngày.[23] Ở đáy những hố va chạm vĩnh viễn không nhận được ánh nắng tại các cực, tồn tại hàng trăm tỷ tấn nước đá.[24]

Chương trình Luna của Liên Xô đã đưa được vật thể nhân tạo đầu tiên lên Mặt trăng là tàu không người lái Luna 2, một tàu vũ trụ được chủ đích cho đâm xuống bề mặt Mặt trăng vào tháng 9 năm 1959.[25] Sau đó vào năm 1966, tàu Luna 9 đã hạ cánh an toàn lên Mặt trăng.[26] Chương trình Apollo của Hoa Kỳ những năm tiếp theo đã mang được con người lên Mặt trăng, với Apollo 8 năm 1968 lần đầu đưa người bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng, rồi Apollo 11 vào tháng 7 năm 1969 cùng 5 chuyến bay khác sau đó đã hạ cánh với con người và thiết bị lên thiên thể này.[26] Các chuyến thám hiểm này đã mang về Trái đất đá Mặt trăng được dùng để nghiên cứu và phát triển các hiểu biết về địa lý Mặt trăng, nguồn gốc hình thành Mặt trăngcấu trúc lõi Mặt trăng.[26] Từ sau chuyến bay Apollo 17 năm 1972 đến hiện tại, chỉ có các tàu không người lái đến thám hiểm Mặt trăng.[26]

Sự hiện diện của Mặt trăng trên bầu trời, theo chu kỳ pha Mặt trăng, đã để lại dấu ấn trong xã hội và văn hóa của loài người.[27] Ảnh hưởng trong văn hóa xã hội thể hiện ở ngôn ngữ,[28] hệ thống âm lịch,[14] nghệ thuật,[29]thần thoại.[30]


Minh họa cận cảnh giả thuyết va chạm lớn

Trước hội nghị năm 1984, có các lực lượng ủng hộ ba giả thuyết "truyền thống", cộng với vài người bắt đầu nghiêm túc xem xét lý thuyết va chạm lớn, và rất nhiều người khác không có quan điểm rõ ràng và cho rằng cuộc tranh luận sẽ không bao giờ kết thúc. Sau hội nghị, cơ bản chỉ còn có hai nhóm: phe va chạm lớn và phe bất khả tri.[31]

Giản đồ giả thuyết va chạm lớn

Nguồn gốc hình thành

Mặt trăng hình thành khoảng hơn 4,5 tỷ năm trước.[8] Nghiên cứu về hafniwolfram ở vỏ Mặt trăng gợi ý thiên thể này được tạo ra vào khoảng 50 triệu năm sau khi Hệ Mặt trời hình thành.[32]

Đã có nhiều giả thuyết từ sớm về nguồn gốc hình thành Mặt trăng,[33] đa số thuộc về một trong ba nhóm.[34] Nhóm thứ nhất cho rằng vật chất văng ra từ Trái đất trong thời kỳ đang hình thành bởi lực ly tâm, sau đó tập hợp lại thành Mặt trăng.[35]. Tuy nhiên giả thuyết này đòi hỏi Trái đất phải quay nhanh đến mức phi thực tế.[36] Nhóm thứ hai giả định trường hấp dẫn của Trái đất đã thu hút thiên thể Mặt trăng đến từ nơi khác,[37] nhưng giả thuyết này đòi hỏi một khí quyển Trái đất quá lớn để hấp thụ động năng của Mặt trăng khi nó bay tới Trái đất.[36] Nhóm thứ ba đề xuất sự hình thành cùng lúc của Trái đất và Mặt trăng từ đĩa bồi tụ khi Hệ Mặt trời đang hình thành.[36] Giả thuyết này không giải thích được tại sao Mặt trăng lại có ít kim loại hơn hẳn so với Trái đất.[36] Các giả thuyết này cũng không tiên đoán được mômen động lượng khá lớn của hệ Trái đất - Mặt trăng.[38]

Giả thuyết được nhiều tác giả chấp nhận hiện nay là hệ Trái đất - Mặt trăng được hình thành sau một vụ va chạm lớn giữa một thiên thể có kích thước vào cỡ Sao hỏa, tên là Theia, với thiên thể tiền Trái đất. Vụ va chạm đã làm văng nhiều vật liệu vào quỹ đạo của Trái đất và các vật liệu này bồi tụ lại dần dần, hình thành nên Mặt trăng.[10][11] Giả thuyết này, tuy còn những điểm chưa hoàn hảo, có khả năng giải thích tốt nhất các bằng chứng thực nghiệm. 18 tháng trước khi diễn ra một hội nghị khoa học về nguồn gốc Mặt trăng tổ chức vào tháng 10 năm 1984, Bill Hartmann, Roger Phillips, và Jeff Taylor thách thức những người đồng nghiệp cùng nghiên cứu về Mặt trăng: "Các bạn có 18 tháng. Hãy xem lại dữ liệu thu được từ các chuyến thám hiểm của Apollo, dùng máy tính của các bạn, làm mọi thứ các bạn có thể làm, nhưng các bạn cần ra được kết quả. Đừng đến dự hội nghị nếu các bạn chưa có gì để nói về nguồn gốc Mặt trăng." Vào hội nghị năm 1984 ở Kona, Hawaii, giả thuyết vụ va chạm lớn bắt đầu được đa số tán thành là hợp lý nhất.

Các vụ va chạm lớn được cho là xảy ra thường xuyên trong thời kỳ hình thành của Hệ Mặt trời. Các mô phỏng trên máy tính của vụ va chạm lớn đã cho ra các kết quả phù hợp với quan sát về khối lượng của lõi Mặt trăng và mômen động lượng của hệ Trái đất – Mặt trăng. Các mô phỏng này cũng cho thấy phần lớn Mặt trăng được hình thành từ vật liệu của Theia, chứ không phải từ thiên thể tiền Trái đất.[39] Tuy nhiên, các mô phỏng mới nhất gợi ý tỷ lệ vật liệu đến từ tiền Trái đất cao hơn các mô phỏng trước đây.[40][41] Các thiên thể khác ở vòng trong Hệ Mặt trời, như Sao hỏa và Vesta có thành phần đồng vị oxy và wolfram rất khác so với Trái đất, dựa trên đo đạc các mẫu vẫn thạch từ các thiên thể đó. Tuy nhiên, Trái đất và Mặt trăng có các thành phần đồng vị gần như giống hệt nhau.[42] Điều này có thể được giải thích bằng sự hòa trộn vật liệu bốc hơi sau sự kiện va chạm lớn, để thành nguyên liệu hình thành cho cả hai,[43] mặc dù giả định này vẫn còn gây tranh cãi.[44] Cũng có giả thuyết về việc Theia có thành phần hóa học gần giống thiên thể tiền Trái đất.[42]

Vụ va chạm giải phóng rất nhiều năng lượng và sau đó vật chất văng ra được bồi tụ lại thành hệ Trái đất - Mặt trăng. Năng lượng này đủ để làm nóng chảy lớp vỏ Trái đất, và tạo nên đại dương dung nham.[45][46] Tương tự, Mặt trăng mới hình thành cũng có đại dương dung nham của nó; với độ sâu vào cỡ 500 km đến 1737 km.[45]

Tuy giả thuyết va chạm lớn có thể giải thích được nhiều kết quả quan sát, vẫn còn những câu hỏi chưa được giải đáp, đa số liên quan đến thành phần của Mặt trăng.[47] Năm 2001, một nhóm nghiên cứu ở Viện Carnegie tại Washington báo cáo kết quả đo đạc chính xác cao của đặc trưng đồng vị trong đá Mặt trăng.[48] Đá Mặt trăng, thu được sau chương trình Apollo, có đặc trưng đồng vị giống với đá trên Trái đất, và khác biệt với hầu hết các thiên thể khác trong Hệ Mặt trời. Kết quả này đã gây bất ngờ, vì phần lớn vật liệu hình thành Mặt trăng được cho là đến từ Theia và đã từng có báo cáo năm 2007 rằng có ít hơn 1% khả năng là Theia và Trái đất có cùng đặc trưng đồng vị.[43] Các mẫu vật chất Mặt trăng khác từ chương trình Apollo được nghiên cứu vào năm 2012 cũng có thành phần đồng vị titani giống với Trái đất,[49] một kết quả mâu thuẫn với giả thuyết cho rằng Mặt trăng được hình thành ở xa và độc lập với Trái đất, hoặc chủ yếu từ Theia. Các kết quả này vẫn có thể được giải thích bởi các lý thuyết cải tiến từ giả thuyết va chạm lớn.[cần dẫn nguồn]

Một lý thuyết cải tiến cho rằng vật liệu văng ra từ vụ va chạm lớn ban đầu hình thành nên hai thiên thể vệ tinh của Trái đất. Sau đó, chúng nhập lại thành Mặt trăng trong một va chạm ở tốc độ thấp. Giả thuyết này giải thích được tại sao nửa xa của Mặt trăng có vỏ dày hơn so với nửa gần.[50]


Đặc tính vật lý

Mặt trăng có hình dạng hơi ellipsoid lệch do tác động của lực thủy triều, với trục lớn của nó lệch khoảng 30° so với phương nối đến Trái đất gây ra bởi các bất thường trong trường hấp dẫn ở các bồn địa để lại bởi các vụ va chạm. Hình dạng của nó hơi méo hơn so với mức gây ra bởi lực thủy triều hiện tại. Hóa thạch hình dạng này gợi ý về lịch sử của Mặt trăng. Mặt trăng đã nguội và đông cứng khi lực thủy triều còn mạnh, khi nó ở khoảng cách đến Trái đất bằng khoảng nửa so với giá trị hiện nay. Ngày nay, nó đã quá lạnh và cứng đến mức không thể điều chỉnh hình dạng lại cho phù hợp với lực thủy triều yếu hơn ở quỹ đạo hiện tại.[4]

Với mật độ khối lượng trung bình 3,3 g/cm3, bằng 1/5 tỷ trọng Trái đất,[22] Mặt trăng dường như chứa chủ yếu đất đá silicat.[24] So với Trái đất, Mặt trăng chứa ít sắt và kim loại hơn, và hầu hết Mặt trăng có thành phần gần giống vỏ silicat của Trái đất.[24] Tuy có mật độ khối lượng trung bình nhẹ so với Trái đất, trong số các vệ tinh tự nhiên của Hệ Mặt trời, Mặt trăng có mật độ khối lượng đứng thứ nhì, chỉ sau Io.[51]

Cấu trúc bên trong

Cấu trúc bên trong của Mặt trăng được phân tách thành ba thành phần khác biệt về mặt hóa địa chấtlớp vỏ, lớp phủlõi.

Lõi của Mặt trăng gồm có phần lõi trong ở trạng thái rắn chứa nhiều sắt, bán kính có thể vào cỡ 240 km, và phần lõi ngoài lỏng chủ yếu gồm sắt nóng chảy với bán kính vào cỡ 300 km. Phần lõi chỉ chiếm 20% bán kính Mặt trăng.[52] Thành phần hóa học chính xác của lõi vẫn chưa được xác định rõ, có thể gồm hợp kim sắt với một lượng nhỏ lưu huỳnh và nickel. Phân tích về sự tự quay có biến thiên theo thời gian của Mặt trăng cho thấy lõi có thể có một phần nóng chảy.[53]

Bao quanh lõi là phần trong của lớp phủ có bán kính khoảng 500 km, một phần cũng bị nóng chảy.[54] Cấu trúc này được cho là đã hình thành theo cơ chế kết tinh phân đoạn từ một đại dương dung nham tồn tại ngay sau khi Mặt trăng hình thành vào khoảng 4,5 tỷ năm trước.[8] Việc kết tinh đại dương dung nham đã tạo ra lớp phủ mafic do các khoáng chất olivin, clinopyroxeneorthopyroxene chìm xuống và kết tủa. Sau khi khoảng ba phần tư đại dương dung nham đã tinh thể hóa, các khoáng chất plagioclase nhẹ hơn bắt đầu hình thành và nổi lên trên tạo thành lớp vỏ.[55] Những phần chất lỏng cuối cùng hóa rắn nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, chứa nhiều các thành phần tỏa nhiệt và không tương thích nhau về mặt hóa địa chất.[52]

Quá trình hình thành nêu trên tiên đoán ra lớp vỏ anorthosite, một kết quả phù hợp với các bản đồ đo đạc hóa địa chất, từ các phép đo của các thiết bị bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng.[56] Lớp vỏ dày khoảng 50 km.[52] Các mẫu đá Mặt trăng lấy từ các phần dung nham hóa rắn, vốn từng phun trào ra bề mặt từ vùng lớp phủ nóng chảy một phần, cũng xác nhận thành phần lớp phủ mafic chứa nhiều sắt hơn so với Trái đất.[52] Các mẫu đá Mặt trăng đều có tuổi từ 3,3 đến 4,4 tỷ năm, già hơn so với hầu hết đá Trái đất.[57]

Thành phần hóa học bề mặt[58]
Hợp chất Công thức Thành phần
Biển Vùng cao
Silic dioxide SiO2 45,4% 45,5%
Nhôm oxit Al2O3 14,9% 15,9%
Calci oxit CaO 11,8% 15,9%
Sắt(II) oxit FeO 14,1% 5,9%
Magnesi oxit MgO 9,2% 7,5%
Titani dioxide TiO2 3,9% 0,6%
Natri oxit Na2O 0,6% 0,6%
  99,9% 100,0%
Giản đồ cấu trúc bên trong Mặt trăng


Các đặc trưng địa chất trên bề mặt Mặt trăng. Bên trái là nửa gần với cực bắc ở phía trên. Hình phải là nửa xa, với cực nam ở phía dưới. Những vùng màu sắc khác nhau ứng với phân loại địa hình và địa chất khác nhau.
Niên đại địa chất Mặt trăng

Bề mặt

Địa hình Mặt trăng đã được đo bằng laserxử lý ảnh stereo.[59] Một đặc trưng địa hình nổi bật là bồn địa Nam cực - Aitken, ở nửa xa Mặt trăng, đường kính khoảng 2240 km, là hố va chạm lớn nhất của Mặt trăng và lớn nhì trong số các hố va chạm đã được xác nhận ở hệ Mặt trời.[60][61] Bồn địa này cũng chứa điểm có độ sâu lớn nhất của Mặt trăng, sâu khoảng 13 km.[60][62] Điểm cao nhất của Mặt trăng cũng nằm ngay rìa phía đông bắc của bồn địa này, có thể được nâng cao lên do va chạm nghiêng của vụ va chạm hình thành nên bồn địa Nam Cực - Aitken.[63] Các bồn địa nổi bật khác, hình thành bởi các vụ va chạm, gồm có Mưa, Trong Sáng, Khủng Hoảng,[64] SmythĐông Phương - chúng đều có các vùng trung tâm với độ sâu lớn và phần rìa có độ cao lớn.[60] Nửa xa Mặt trăng có độ cao trung bình lớn hơn so với nửa gần cỡ 1,9 km.[52]

Liên đoàn Thiên văn Quốc tế đề xuất kinh tuyến gốc, của hệ tọa độ địa lý Mặt trăng, đi qua điểm trung tâm của nửa gần Mặt trăng.[65][66] Trong hệ tọa độ này, điểm được dùng để đối chiếu chính xác là hố va chạm nhỏ bé mang tên Mösting A, được định nghĩa là có tọa độ 3° 12' 43.2" Nam, 5° 12' 39.6" Tây.

Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng năm 2010 đã phát hiện ra các vách đứt gãy dốc đứng trên bề mặt Mặt trăng, cho thấy rằng Mặt trăng có thể đã co ngót lại, trong hàng tỷ năm qua, với kích thước giảm khoảng 90 mét.[67] Các dấu hiệu co ngót tương tự cũng đã được quan sát thấy trên Sao thủy. Một nghiên cứu thực hiện với 12000 bức ảnh chụp được từ tàu quỹ đạo cho thấy biển Lạnh ở gần cực bắc, một bồn địa lớn vốn được cho là đã ngừng tiến hóa về mặt địa chất, đang nứt và dịch chuyển. Trên Mặt trăng không có các mảng kiến tạo, cho nên hoạt động địa chất ở đây chỉ là sự hình thành các vết nứt trong quá trình Mặt trăng thoát dần nhiệt ra không gian và nguội dần đi.[68]

Biển và vùng cao

Các vùng trên bề mặt Mặt trăng có màu sẫm và tương đối bằng phẳng, như những đồng bằng, có ít các hố va chạm hơn, đủ lớn để có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ Trái đất, được gọi là các biển Mặt trăng, vì trước đây đã có giả định rằng những vùng này có nước.[69] Giả thuyết được chấp nhận hiện tại cho rằng các vùng này vốn là các hồ chứa dung nham bazan cổ, nay đã đông cứng. Bazan trên Mặt trăng tương tự như bazan ở Trái đất, gần giống phần vỏ dưới đại dương Trái đất hoặc dung nham phun trào từ núi lửa Trái đất,[70] nhưng có nhiều sắt hơn và không có các khoáng chất bị biến đổi bởi sự có mặt của nước.[71] Phần lớn các dung nham này đã phun trào ra bề mặt và chảy đến các vùng trũng ở các hố va chạm lớn thời kỳ đầu hình thành Mặt trăng.[70]nửa gần Mặt trăng, có các khu vực có chứa những núi lửa hình khiên và các vòm núi lửa.[72]

Hầu hết biển Mặt trăng nằm ở nửa gần Mặt trăng, chiếm đến 31% diện tích của nửa này.[73] Trong khi đó, biển Mặt trăng chỉ chiếm 2% diện tích ở nửa xa Mặt trăng.[74] Bản đồ hóa địa chất Mặt trăng, đo bởi phổ kế gamma của vệ tinh Lunar Prospector, cho thấy nửa gần Mặt trăng có nồng độ cao hơn các nguyên tố hóa học có khả năng sinh nhiệt nằm bên dưới lớp vỏ, gợi ý về khả năng vùng nằm dưới lớp vỏ này đã từng nóng hơn và dễ phun trào dung nham hơn để hình thành các biển Mặt trăng.[55][75][76] Đa số bazan hình thành nên các biển Mặt trăng đã phun trào trong kỷ Mưa, 3,0–3,5 tỷ năm trước, tuy vẫn có một số mẫu với tuổi đo được bởi phương pháp phóng xạ lên đến 4,2 tỷ năm.[77] Vụ phun trào gần đây nhất vào khoảng 1,2 tỷ năm trước, được xác định tuổi theo phương pháp đếm hố va chạm.[78] Năm 2006, một nghiên cứu về hố va chạm Ina nhỏ bé trong biển Hồ Hạnh Phúc đã tìm thấy các địa điểm lởm chởm có tuổi chỉ khoảng 2 triệu năm và chưa tích lũy nhiều cát bụi sinh ra từ các va chạm bởi các mảnh vụn vũ trụ rơi vào.[79] Các trận động đất Mặt trăng và các vụ rò rỉ khí ga ra bề mặt cho thấy một số hoạt động địa chất của Mặt trăng vẫn tiếp tục.[79] Năm 2014, NASA công "nhiều bằng chứng về các hoạt động núi lửa mới trên Mặt trăng" tại 70 vùng có hình dạng bất thường ghi nhận bởi Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng, một số có tuổi ít hơn 50 triệu năm. Có khả năng lớp phủ của Mặt trăng nóng hơn so với các số liệu đã được chấp nhận trước đây, ít nhất là ở nửa gần, tại những nơi có hàm lượng cao hơn các chất phóng xạ sinh nhiệt bên dưới lớp vỏ.[80][81][82][83] Ngay trước khi có kết quả này, đã có bằng chứng về hoạt động núi lửa bazan bên trong hố va chạm Lowell trẻ hơn so với đo đạc trước đó tới 2 đến 10 triệu năm.[84][85] Hố Lowell nằm ở vùng chuyển tiếp giữa nửa gần và nửa xa của Mặt trăng, trong bồn địa Đông Phương. Lớp phủ nóng hơn và / hoặc hàm lượng cao hơn các chất sinh nhiệt trong lớp phủ nằm dưới nửa xa của bồn địa Đông Phương cũng có thể đã kéo dài hoạt động địa chất tại đây.[86][87]

Các khu vực có màu sáng hơn trên Mặt trăng được gọi là các vùng cao, bởi vì chúng có cao độ lớn hơn hầu hết các biển Mặt trăng. Phương pháp đo tuổi bằng phóng xạ đã xác định các vùng cao hình thành vào khoảng 4,4 tỷ năm trước, có thể cấu tạo gồm các đá plagioclase tích lũy từ đại dương dung nham cổ của Mặt trăng.[77][78] Khác với Trái đất, không có ngọn núi lớn nào trên Mặt trăng được cho là hình thành bởi sự dịch chuyển của các mảng kiến tạo.[88] Tổng diện tích các vùng cao chiếm 83% bề mặt Mặt trăng.[57] Các mẫu đá anorthosite ở vùng cao, do nhẹ hơn nên nổi lên cao trong quá trình hình thành Mặt trăng, hình thành từ rất sớm, 4,1 đến 4,4 tỷ năm trước.[57] Tuổi đời cổ đại này của vùng cao phù hợp với quan sát về mật độ rất nhiều các hố va chạm ở đây, ứng với hàng tỷ năm hứng chịu các đợt va chạm của các mảnh vụn vũ trụ.[57]

Sự xuất hiện nhiều biển tại nửa gần dường như phản ánh lớp vỏ dày hơn ở các vùng cao tại nửa xa, có thể được hình thành sau một vụ va chạm ở tốc độ thấp với một vệ tinh tự nhiên thứ hai của Trái đất chừng vài chục triệu năm sau khi hệ Trái đất và Mặt trăng hình thành.[50][89]


Các hố va chạm

Khi những tiểu hành tinhsao chổi va chạm với bề mặt Mặt trăng, các hố va chạm hình thành và gây ra tác động đáng kể đến bề mặt Mặt trăng.[90] Theo ước tính chỉ riêng nửa gần của Mặt trăng đã có khoảng 300.000 hố rộng hơn 1 km.[91] Niên đại địa chất Mặt trăng căn cứ vào những sự kiện va chạm nổi bật nhất bao gồm Mật Hoa, MưaĐông Phương. Đây là những cấu trúc gồm nhiều vòng tròn hình thành từ vật chất bị bắn ra trong vụ va chạm. Các vòng tròn này có đường kính khoảng hàng trăm đến hàng ngàn kilomét, tạo thành một thềm địa tầng khu vực chứa trầm tích của vật chất bị xới lên sau vụ va chạm.[92] Việc không có khí quyển, thời tiết và những quá trình địa chất gần đây đã giúp cho đa số các hố giữ nguyên trạng từ lúc được hình thành. Chỉ có ít bồn địa đa vòng được định tuổi chính xác, nhưng chúng hữu ích cho việc định tuổi tương đối cho các khu vực còn lại. Nếu giả định rằng các hố va chạm xuất hiện dần theo thời gian với tốc độ nhất định, việc đếm số hố trên mỗi đơn vị diện tích có thể giúp ước tính tuổi bề mặt.[92]

Các hố va chạm trên Mặt trăng đều có hình tròn, không có hố lớn nào hình elip, do tốc độ cao của các mảnh vụn vũ trụ khi va chạm sẽ tạo ra hiệu ứng giống các vụ nổ, tác động đều ra mọi hướng xung quanh.[93] Khi mảnh va chạm lao xuống bề mặt, nó thâm nhập tới độ sâu khoảng 2 đến 3 lần đường kính mảnh va chạm, tạo ra sóng xung kích và nhiệt, làm nứt tầng đá nền bên dưới, và bốc hơi lớp silicat bề mặt.[94] Lớp đất bị bốc hơi giãn nở nhanh, tạo ra vụ nổ như bom hạt nhân, khoét một hố trên bề mặt có đường kính khoảng 10 đến 15 lần đường kính mảnh va chạm, và đẩy vật liệu ra rìa, tạo nên vành tròn ngoài dâng cao.[94] Sóng xung kích trong lớp vỏ phản hồi lại làm dâng đất đá điền vào hố, làm hố phẳng lại ở đáy, và đôi khi có phần nhô lên ở tâm.[94] Các vụ lở đất ở gần vành tạo nên các địa tầng.[94] Các mảnh vật liệu bị văng lên cao do vụ nổ sau đó rơi xuống, phủ lên vùng với đường kính cỡ gấp đôi đường kính hố va chạm.[94] Các mảnh lớn và tốc độ cao khi rơi xuống có thể tạo ra các hố va chạm nhỏ.[94]

Phủ bên trên bề mặt Mặt trăng là lớp đất mặt, gồm các vật liệu tán vụn, hình thành bởi các quá trình va chạm. Theo thời gian chúng tiếp tục bị vỡ vụn thành những mảnh ngày càng nhỏ hơn. Những lớp đất Mặt trăng mịn hơn là cát thủy tinh silic dioxide có kết cấu giống tuyết và mùi giống thuốc súng đã qua sử dụng.[95] Lớp đất mặt của những bề mặt cổ hơn nhìn chung dày hơn lớp đất mặt của những bề mặt trẻ hơn. Chúng có độ dày dao động trong khoảng 10-20 km ở vùng cao và 3–5 km ở biển.[96] Bên dưới lớp đất mặt tán mịn là lớp đá móng nứt gãy dày từ vài đến vài chục kilomet.[97]

Tốc độ sản sinh các hố va chạm, trong khoảng 3 tỷ năm trở lại, là vào khoảng một hố đường kính 1km cho mỗi 200 nghìn năm, một hố đường kính 10km trong mỗi vài triệu năm, và khoảng một đến hai hố đường kính 100km trong mỗi tỷ năm.[98] Từ khoảng gần 4 tỷ năm về trước, tốc độ sản sinh các hố va chạm cao hơn gấp nhiều lần.[98] Tuổi đo bằng phóng xạ của đá nóng chảy do va chạm, thu thập từ các hố va chạm trong chương trình Apollo, đa số nằm trong khoảng 3,8 đến 4,1 tỉ năm. Kết quả này là cơ sở cho giả thuyết về sự kiện biến cố mặt trăng, là sự kiện diễn ra khoảng 3,8 đến 4,1 tỉ năm trước, với sự xuất hiện nhiều bất thường các tiểu hành tinh va chạm với các thiên thể ở vòng trong của Hệ mặt trời.[99]

Việc so sánh những hình ảnh độ phân giải cao do Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng chụp cho thấy tốc độ sản sinh hố hiện tại nhanh hơn đáng kể ước tính trước đây, đặc biệt là với các hố va chạm nhỏ có kích cỡ vài chục mét.[100] Khi mỗi vụ va chạm xảy ra, những mảnh đá lớn văng ra ngoại biên và chính chúng lại rơi xuống bề mặt tạo nên những hố va chạm nhỏ hơn.[100] Cơ chế tạo hố thứ hai này được cho là đã khuấy động hai centimet lớp đất mặt trên cùng nhanh hơn những mô hình gợi ý trước đó tới trên một trăm lần, và trung bình sau mỗi 81.000 năm lại xảy một vụ va chạm nhỏ.[101]

Các vụ va chạm lớn và nhỏ đều làm bào mòn dần bề mặt Mặt trăng, khiến cho các núi non trên Mặt trăng có bề mặt nhẵn trơn, chứ không có các đỉnh nhọn lởm chởm như một số núi trẻ trên Trái đất.[102]

Các xoáy Mặt trăng

Các xoáy Mặt trăng là các vùng có đặc điểm địa lý bí hiểm nằm rải rác khắp bề mặt của Mặt trăng. Chúng có suất phản chiếu cao hơn, có đặc điểm quang học của bề mặt mới hình thành gần đây và thường có hình dáng uốn lượn. Hình dạng của các xoáy Mặt trăng cũng hay có những nét chấm phá, là các vùng tối nằm xen kẽ giữa các vùng hình xoáy sáng màu.

Các hố va chạm ở bồn địa Dirichlet-Jackson
Tốc độ sinh hố va chạm ở Mặt trăng theo thời gian.[34]
Xoáy Mặt trăng ở Reiner Gamma


Video thể hiện các vùng tối vĩnh cửu trên Mặt trăng, xây dựng dựa trên các ảnh chụp của Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng. Thực tế các bóng tối có thể biến đổi một chút theo thời gian.
Phân bổ nước đá ở các cực Mặt trăng. Bên trái là cực nam, bên phải là cực bắc.

Hiện diện của nước

Nước lỏng không tồn tại trên bề mặt Mặt trăng. Khi bức xạ Mặt trời chiếu vào, nước lỏng sẽ bị phân ly quang học thành các chất khí. Ở nhiệt độ bề mặt của Mặt trăng và dưới tác động của gió mặt trời, các chất khí thoát khỏi trường hấp dẫn yếu của thiên thể này để đi vào khoảng không vũ trụ. Tuy nhiên, từ những năm 1960, đã có giả thuyết về sự tồn tại của nước đá, có thể mang đến Mặt trăng bởi các sao chổi, hoặc được sinh ra từ phản ứng hóa học giữa đá Mặt trăng chứa nhiều oxy với hydro đến từ gió Mặt trời. Lượng nhỏ nước đá sinh ra từ các quá trình trên có thể tồn tại ở các hố va chạm lạnh lẽo và luôn bị khuất trong bóng tối ở hai cực.[103][104] Các mô phỏng trên máy tính gợi ý có khoảng 14.000 kilomét vuông diện tích Mặt trăng có thể nằm trong bóng tối vĩnh cửu.[105] Việc có được lượng nước đáng kể trên Mặt trăng ảnh hưởng quan trọng đến các kế hoạch định cư trên Mặt trăng của con người, do việc vận chuyển nước từ Trái đất lên Mặt trăng sẽ có thể quá tốn kém.[106]

Dấu hiệu về sự tồn tại của nước đá trên bề mặt Mặt trăng xuất hiện dần qua các quan sát.[107] Năm 1994, thí nghiệm radar song tĩnh trên tàu vũ trụ Clementine đã cho thấy các khu vực nhỏ có nước đá ở gần bề mặt Mặt trăng. Tuy nhiên các quan sát radar sau này của Đài thiên văn Arecibo cho thấy kết quả của tàu Clementine có thể là tín hiệu từ tảng đá bị văng ra bởi các vụ va chạm gần đây.[108] Năm 1998, phổ kế neutron trên tàu vũ trụ Lunar Prospector cho thấy mật độ hydro cao trong khoảng một mét trên cùng của lớp đất mặt gần các vùng cực.[109] Các hạt dung nham núi lửa, do Apollo 15 mang về, cũng đã cho thấy lượng nước nhỏ ở bên trong.[110] Tồn tại nước ở dạng liên kết hóa học trong đá Mặt trăng.[24]

Tàu vũ trụ Chandrayaan-1 năm 2008 đã xác nhận sự tồn tại của nước đá bề mặt, bằng phổ kế mang tên Máy vẽ Bản đồ Khoáng vật học Mặt trăng (M3). Phổ kế này đo đạc các vạch hấp thụ của hydroxyl, trong ánh sáng phản xạ từ ánh sáng Mặt trời, đã cung cấp bằng chứng về lượng nước đá lớn trên bề mặt Mặt trăng. Kết quả đo cho thấy mật độ nước có thể lên đến 1.000 ppm.[111] Năm 2009, LCROSS đã đưa một vật nặng 2300 kg đâm xuống một hố va chạm nằm trong bóng tối vĩnh cửu ở cực, và đã phát hiện ít nhất 100 kg nước ở trong luồng khói bụi bốc lên từ vụ va chạm.[112][113] Một phân tích khác của dữ liệu LCROSS đã xác định lượng nước này nằm trong khoảng 155 ± 12 kg.[114]

Tháng 5 năm 2011, 615 đến 1410 ppm nước trong bao thể nóng chảy của mẫu đá Mặt trăng số 74220 đã được tìm thấy.[115] Mẫu đá này có nguồn gốc từ hoạt động núi lửa, có hình dạng "đất thủy tinh màu da cam" chứa nhiều titani được thu thập bởi Apollo 17 năm 1972. Các bao thể đã hình thành trong thời kỳ có nhiều vụ phun trào núi lửa trên Mặt trăng khoảng 3,7 tỷ năm trước. Mật độ nước này tương đương với số liệu của dung nham trong lớp phủ trên của Trái đất. Sự tồn tại của lượng nước này có ý nghĩa khoa học, nhưng không dễ dàng khai thác cho hoạt động định cư. Các mẫu đá loại này thường tồn tại ở sâu hàng kilomét dưới bề mặt, và các bao thể rất khó tìm. Phải mất 39 năm sau khi mẫu đá được thu thập để tìm thấy bao thể chứa nước trong nó bằng đầu dò ion tân tiến nhất.

Việc phân tích lại dữ liệu của máy đo M3 vào tháng 8 năm 2018 đã khẳng định chắc chắn sự tồn tại của nước đá trên bề mặt Mặt trăng.[116][117] Sử dụng phổ phản xạ của máy đo, việc chiếu sáng gián tiếp các khu vực trong bóng tối cho thấy nước nằm trong vòng vĩ độ 20° ở cả hai cực vào năm 2018.[118] Dữ liệu cho thấy ánh sáng phản xạ đặc trưng của nước đá, khác hẳn so với ánh sáng từ cát bụi và các bề mặt phản xạ khác.[119] Nước đá có ở cả hai cực, tuy nhiên có nhiều hơn ở cực Nam, bên trong các hố va chạm và các khe nứt nằm ở bóng tối vĩnh cửu, tránh được sự phân hủy của ánh sáng Mặt trời.[116][119] Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng xác nhận sự tồn tại của các hố tối vĩnh cửu rất lạnh này, với các ảnh chụp nhờ ánh sáng của các sao.[24] Tổng lượng nước ở các hố này vào khoảng hàng trăm tỷ tấn.[24]

Tháng 10 năm 2020, các nhà thiên văn phát hiện phân tử nước ở phần bề mặt được chiếu sáng của Mặt trăng bằng một số thiết bị quan sát độc lập, bao gồm SOFIA.[120][121][122][123]


Trường hấp dẫn

Trường hấp dẫn của Mặt trăng được đo bởi hiệu ứng Doppler mà trường này gây ra cho sóng radio phát từ các tàu không gian quỹ đạo. Gia tốc trọng trường của Mặt trăng có những vùng cực đại địa phương ở gần các bồn địa va chạm khổng lồ, một phần gây ra bởi mật độ khối lượng lớn của các dòng dung nham bazan biển lấp đầy những bồn địa đó.[124][125] Sự dị thường này ảnh hưởng lớn đến quỹ đạo của tàu không gian quanh Mặt trăng. Vẫn còn đó một số câu hỏi: chỉ riêng dòng dung nham không thể giải thích tất cả dấu hiệu trọng lực và một số điểm tập trung trọng trường không nằm gần khu vực có hoạt động núi lửa biển Mặt trăng.[126]

Gia tốc trọng trường trung bình trên bề mặt Mặt trăng là 1,62 m/s2, khoảng một phần sáu so với gia tốc trọng trường Trái đất.[22] Một người đeo ba lô thiết bị nặng 90 kg tại đây sẽ chỉ cảm thấy sức nặng giống như đeo khoảng 15 kg trên Trái đất. Tốc độ thoát khỏi Mặt trăng (tốc độ vũ trụ cấp 2) chỉ là 2,38 km/s so với 11,2 km/s ở Trái đất.[22]

Từ trường

Mặt trăng có một từ trường ngoài với cường độ hầu hết dưới 0,2 nanotesla,[7] chưa bằng một phần một trăm ngàn từ trường Trái đất. Hiện tại Mặt trăng không có từ trường lưỡng cực toàn cầu mà chỉ có lớp vỏ đã từ hóa, có thể là hệ quả của thời kỳ lịch sử khi vẫn còn tồn tại một dynamo hoạt động ở quy mô toàn cầu.[127][128] Bốn tỉ năm trước từ trường Mặt trăng có khả năng mạnh gần bằng từ trường Trái đất ngày nay.[7] Trường dynamo thời đầu này có thể đã chấm dứt cách đây khoảng một tỉ năm sau khi lõi Mặt trăng kết tinh hoàn toàn.[7] Trên lý thuyết, một số vùng từ hóa còn sót lại có thể được gây ra bởi từ trường thoáng qua của những đám mây plasma giãn nở trong những vụ va chạm lớn. Khi những đám mây này xuất hiện ở các vụ va chạm lớn, Mặt trăng vẫn đang có một nền từ trường đáng kể. Giả thuyết này được hỗ trợ bởi vị trí từ hóa mạnh nhất trên vỏ nằm gần điểm đối chân của những bồn địa va chạm lớn.[129]

Khí quyển

Mặt trăng có khí quyển rất loãng đến gần như chân không với tổng khối lượng chưa đến 10 tấn (9,8 tấn dài, 11 tấn ngắn).[130] Khí áp bề mặt là khoảng 3 × 10−15 atm (0,3 nPa) và thay đổi theo ngày âm lịch. Khí quyển bao gồm các chất khí thoát ra từ đất đá và khí sinh ra từ hoạt động phún xạ do ion gió mặt trời bắn phá thổ nhưỡng Mặt trăng.[56][131] Các nguyên tố được phát hiện có natrikali sinh ra do phún xạ (cũng có trong khí quyển Sao thủy và Io); helium-4neon[132] từ gió mặt trời; và argon-40, radon-222, poloni-210, thoát ra sau khi hình thành bởi phân rã phóng xạ trong lớp vỏ và lớp phủ.[133][134] Chưa rõ tại sao khí quyển thiếu vắng những phân tử hay nguyên tử trung hòa như oxy, nitơ, cacbon, hydro, magie mà có ở lớp đất mặt.[133] Chandrayaan-1 đã phát hiện hơi nước và nó thay đổi theo vĩ độ, nhiều nhất tại ~60–70 độ. Hơi nước có thể được sinh ra từ sự thăng hoa nước đá ở lớp đất mặt.[135] Những khí này quay lại lớp đất mặt do trọng lực của Mặt Trăng hoặc biến mất vào không gian do áp lực bức xạ mặt trời hoặc nếu chúng bị ion hóa thì bị thổi bay bởi từ trường gió mặt trời.[133]

Cát bụi

Có một đám mây bụi bất đối xứng bao quanh Mặt trăng, được tạo ra do hoạt động của các hạt bụi sao chổi. Ước chừng khoảng 5 tấn bụi sao chổi bay vào bề mặt của Mặt trăng mỗi 24 tiếng đồng hồ. Các hạt này va đập lên bề mặt và làm bụi ở bề mặt Mặt trăng bắn lên. Các hạt bụi Mặt trăng sẽ bay lơ lửng trong khoảng 10 phút, với 5 phút để bay lên và 5 phút để rơi xuống. Trung bình, lớp bụi bay lơ lửng trên bề mặt Mặt trăng có tổng khối lượng khoảng 120 kilogam, dày tới 100 kilomét. Các phép đo bụi đã được thực hiện bởi Thí nghiệm Bụi Mặt trăng (LDEX) của LADEE, ở độ cao từ 20 đến 100 kilomét, trong sáu tháng. LDEX đo được trung bình có một hạt bụi cỡ 0,3 micromét trong mỗi phút. Số lượng hạt bụi tăng lên vào các đợt có mưa sao băng Geminid, Quadrantid, TauridOmicron Centaurid, khi Trái đất và Mặt trăng đi ngang qua những đám tàn tích sao chổi. Đám mây bụi của Mặt trăng bất đối xứng, có mật độ cao hơn ở đường biên giữa nửa ban ngày và nửa ban đêm của Mặt trăng.[136][137]

Khí quyển dày hơn trong quá khứ

Tháng 10 năm 2017, các nhà khoa học tại Trung tâm Du hành Vũ trụ MarshallViện Mặt trăng và Hành tinhHouston công bố kết quả nghiên cứu dựa trên các mẫu dung nham Mặt trăng thu thập bởi chương trình Apollo cho thấy một khí quyển khá dày của Mặt trăng trong khoảng thời gian dài cỡ 70 triệu năm, giữa 3 và 4 tỷ năm trước. Khí quyển này chứa các khí sinh ra bởi các vụ phun trào núi lửa Mặt trăng và dày khoảng gấp đôi so với khí quyển Sao hỏa ngày nay. Bầu khí quyển cổ đại này đã bị cuốn bay dần vào không gian bởi gió mặt trời.[138]

Mùa

Độ nghiêng trục quay của Mặt trăng so với hoàng đạo chỉ là 1,5424°,[139] nhỏ hơn nhiều so với 23,44° của Trái đất. Do đó bức xạ Mặt trời lên Mặt trăng cũng ít thay đổi theo mùa hơn nhiều, và các yếu tố địa hình có vai trò quyết định trong các hiệu ứng theo mùa.[140] Từ các ảnh chụp bởi tàu vũ trụ Clementine năm 1994, có vẻ như bốn khu vực nhiều núi non ở vành hố va chạm Peary tại cực bắc có thể được chiếu sáng trong toàn bộ cả ngày Mặt trăng, tạo ra những đỉnh núi sáng vĩnh cửu. Không có vùng nào như vậy ở cực nam Mặt trăng. Tương tự, có những khu vực nằm mãi mãi trong bóng tối ở đáy của những hố va chạm gần cực,[105] và các "hố tối vĩnh cửu" này cực lạnh. Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng đã đo được nhiệt độ thấp nhất vào mùa hè ở các hố va chạm gần cực nam là 35 K[141] và nhiệt độ thấp tới 26 K vào sát ngày đông chí ở hố va chạm Hermite gần cực bắc. Đây là nhiệt độ thấp nhất trong Hệ mặt trời mà một tàu vũ trụ đã từng đo được, lạnh hơn cả bề mặt Pluto.[140] Tuy có thể tính được nhiệt độ trung bình bề mặt của Mặt trăng, nhưng nhiệt độ thực tế ở từng địa điểm có thể khác xa mức trung bình, tùy theo nó nằm ngoài ánh sáng hay khuất trong bóng tối.[142]

Do thiếu khí quyển hay thủy quyển để ổn nhiệt, nhiệt độ bề mặt thay đổi mạnh trong ngày của Mặt trăng.[23] Vào giữa trưa, nhiệt độ của đất đá màu sẫm có thể lên trên 100°C; còn trong ban đêm (kéo dài khoảng hai tuần, tương đương với thời lượng ban ngày của Mặt trăng), nhiệt độ đất xốp giảm xuống khoảng 100 K.[23]

Bản đồ trọng lực Mặt trăng của GRAIL
Tổng cường độ từ trường ở bề mặt Mặt trăng, theo kết quả thí nghiệm phản xạ kế điện tử Lunar Prospector.
Vào hoàng hôn hay bình minh, trong khí quyển Mặt trăng có quầng sáng và các tia sáng tỏa ra ở đường chân trời.[143]. Hiện tượng này đã được các nhà du hành vũ trụ đã đặt chân lên Mặt trăng trong chương trình Appolo ghi chép lại trong bản nháp trên ảnh chụp.


Hệ Trái đất - Mặt trăng

Mô hình thu nhỏ của Hệ Trái đất - Mặt trăng: kích thước và khoảng cách trung bình theo đúng tỷ lệ.

Mô hình thu nhỏ của Hệ Trái đất - Mặt trăng: kích thước và khoảng cách trung bình theo đúng tỷ lệ.

Khoảng cách và kích thước góc Mặt trăng thay đổi từ cận điểm sang viễn điểm quỹ đạo.

Khoảng cách và kích thước góc Mặt trăng thay đổi từ cận điểm sang viễn điểm quỹ đạo.

Quỹ đạo

So với nền các ngôi sao ở xa, Mặt trăng quay hết đúng một vòng quanh Trái đất theo chu kỳ quỹ đạo (hay "tháng vũ trụ", "tháng sao") là 27,3 ngày[↓ 5].[3] Tuy nhiên, do Trái đất chuyển động trên quỹ đạo quanh Mặt trời, để Mặt trăng quay trở lại cùng một pha theo quan sát từ Trái đất, cần khoảng thời gian lâu hơn là chu kỳ giao hội (hay "tuần trăng") 29,5 ngày[↓ 6].[3][73] Nếu nhìn từ cực bắc, Mặt trăng quay quanh Trái đất theo chiều ngược kim đồng hồ, trùng chiều quay trên quỹ đạo của các hành tinh và vệ tinh tự nhiên khác trong Hệ Mặt trời.[3] Không giống với hầu hết các vệ tinh tự nhiên khác, mặt phẳng quỹ đạo của Mặt trăng (còn gọi là mặt phẳng bạch đạo[15]) nằm gần với mặt phẳng hoàng đạo hơn là mặt phẳng xích đạo của hành tinh mà nó quay quanh. Quỹ đạo của Mặt trăng bị gây nhiễu bởi Mặt trời và Trái đất theo nhiều kiểu nhiễu nhỏ nhưng phức tạp và mang tính tương tác. Ví dụ, mặt phẳng quỹ đạo của Mặt trăng tiến động theo chu kỳ 18,61 năm,[144] và ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của chuyển động, thể hiện ở các công thức toán học trong các định luật Cassini.[145]

Các pha của Mặt trăng.

Các pha Mặt trăng: trăng tròn (rằm) ở giữa, khi Mặt trăng ở đối diện Mặt trời qua Trái đất; trăng non, ở ngoài cùng hai bên, khi Mặt trăng ở cùng phía Mặt trời; trạng thái trung gian là trăng khuyết. Diện tích chiếu sáng của Mặt trăng, quan sát từ Trái đất, xấp xỉ bằng sin2(e/2), với e là góc giữa Mặt trăng và Mặt trời. Do Trái đất chuyển động quanh Mặt trời, từ trái qua phải trên hình, để Mặt trăng quay trở lại cùng một pha, cần khoảng thời gian là chu kỳ giao hội, lâu hơn so với chu kỳ quỹ đạo; với chênh lệch thể hiện bằng cung màu xanh nõn chuối ở vị trí ngoài cùng bên phải của Trái đất và Mặt trăng trên hình.

Tương quan kích thước

Xét tương quan với Trái đất, Mặt trăng là một vệ tinh tự nhiên lớn lạ thường: nó có đường kính bằng hơn một phần tư và khối lượng bằng 1/81 Trái đất.[73] Mặt trăng là vệ tinh lớn nhất trong Hệ Mặt trời nếu so tương quan với kích cỡ hành tinh của chúng, dù vậy Charon có khối lượng bằng 1/9 khối lượng hành tinh lùn Pluto.[146] Khối tâm của Mặt trăng và Trái đất hay tâm khối lượng chung nằm dưới bề mặt Trái đất 1.700 km (khoảng một phần tư bán kính Trái đất). Trái đất quay quanh khối tâm Trái đất-Mặt trăng một lần một tháng thiên văn với tốc độ bằng 1/81 Mặt trăng hay khoảng 12,5 m/s. Chuyển động này chồng lên chuyển động quay của Trái đất quanh Mặt trời với tốc độ lớn hơn nhiều khoảng 30 km/s.


Diện mạo nhìn từ Trái đất

Mặt trăng chuyển động đồng bộ khi quay quanh Trái đất, thời gian nó quay quanh trục gần tương đương thời gian quay quanh Trái đất. Điều này dẫn đến việc Mặt trăng luôn luôn duy trì gần như một mặt hướng về Trái đất. Tuy nhiên bởi hiệu ứng bình động, từ Trái đất thực tế có thể quan sát khoảng 59% bề mặt Mặt trăng. Nửa đối diện Trái đất được gọi là nửa gần còn nửa kia là nửa xa. Nửa xa thường bị gọi không chính xác là "mặt tối" nhưng thực tế nó được soi sáng thường xuyên như nửa gần cứ 29,5 ngày Trái đất một lần. Nửa gần tối vào kỳ trăng non.[147]

Mặt trăng từng tự quay quanh trục của nó với tốc độ nhanh hơn nhưng vào thời đầu lịch sử tốc độ này chậm dần lại và Mặt trăng trở nên bị khóa thủy triều để hướng một mặt về Trái đất. Nguyên nhân là do lực thủy triều mà Trái đất gây ra làm biến dạng Mặt trăng liên tục nếu nó vẫn còn quay so với phương nối đến Trái đất và tạo ra hiệu ứng ma sát gây tiêu hao năng lượng tự quay của Mặt trăng.[148] Qua thời gian, năng lượng quay của Mặt trăng quanh trục của nó biến mất để chuyển hóa thành nhiệt năng cho đến khi không còn chuyển động quay của Mặt trăng so với phương nối đến Trái đất. Vào năm 2016, các nhà khoa học hành tinh sử dụng dữ liệu thu thập bởi vệ tinh Lunar Prospector từ năm 1998 và phát hiện hai vùng giàu hydro (khả năng năng cao từng là các vùng có nước đá) trên hai mặt đối diện của Mặt trăng. Có thể hai mảng này là hai cực của Mặt trăng cách đây hàng tỉ năm trước khi nó bị khóa thủy triều với Trái đất.[149]

Mặt trăng có suất phản chiếu thấp khác thường, chỉ phản xạ khuếch tán mạnh hơn nhựa đường mòn một chút. Mặc dù vậy Mặt trăng là vật thể sáng thứ hai trên bầu trời sau Mặt trời,[73] điều này một phần do sự tăng cường độ sáng của hiệu ứng xung đối. Mặt trăng tại pha phần tư chỉ sáng bằng một phần mười trăng tròn chứ không phải một nửa.[150] Ngoài ra, sự bất biến màu trong hệ thống thị giác hiệu chỉnh quan hệ giữa màu sắc của một vật thể và môi trường xung quanh nó, và bởi bầu trời xung quanh tương đối tối nên mắt người cảm nhận Mặt trăng là vật thể sáng khi nó được Mặt trời chiếu rọi. Phần ngoài rìa trăng tròn có vẻ sáng như phần ở gần tâm, không có hiệu ứng rìa tối, bởi vì đất Mặt trăng hồi phản ánh sáng về phía Mặt trời nhiều hơn những hướng khác. Mặt trăng trông lớn hơn khi gần đường chân trời nhưng đây hoàn toàn là hiệu ứng tâm lý gọi là ảo ảnh mặt trăng được mô tả lần đầu vào thế kỷ 7 trước CN.[151] Trăng tròn trên bầu trời có đường kính góc trung bình khoảng 0,52° và kích cỡ biểu kiến gần tương đương Mặt trời.

Độ cao lớn nhất của Mặt trăng tại trung thiên thay đổi theo pha và thời gian trong năm. Trăng tròn cao nhất trên bầu trời vào mùa đông đối với cả hai bán cầu. Sự định hướng của hình ảnh Mặt trăng nói chung, thể hiện rõ hơn với trăng lưỡi liềm, còn phụ thuộc vào vĩ độ của địa điểm quan sát. Người ở bán cầu nam nhìn hình Mặt trăng lộn ngược so với người ở bán cầu bắc của Trái đất. Một người quan sát ở miền nhiệt đới có thể thấy trăng lưỡi liềm hình mặt cười.[152] Tại hai cực Bắc và Nam, Mặt trăng mọc trên bầu trời liên tục trong gần hai tuần, rồi biến mất liên tục trong gần hai tuần, rồi lặp lại như vậy, theo chu kỳ 27,3 ngày. Động vật phù duvùng Bắc Cực sử dụng ánh sáng Mặt trăng trong những tháng mà Mặt trời nằm phía dưới đường chân trời.[153]

Khoảng cách giữa Mặt trăng và Trái đất thay đổi từ khoảng 356.400 km tại cận điểm đến 406.700 km tại viễn điểm. Vào ngày 14 tháng 11 năm 2016, Mặt trăng tại pha trăng tròn ở gần Trái đất nhất kể từ năm 1948, 14% gần hơn vị trí xa nhất của nó ở viễn điểm.[154] Mặt trăng dịp này, gọi là siêu trăng, vừa ở gần Trái đất nhất và vừa trùng với một giờ trăng tròn, và nó sáng hơn 30% so với khi ở khoảng cách xa nhất do đường kính góc lớn hơn 14% và 1,142 ≈ 1,30.[155][156][157] Mắt người cảm nhận thay đổi độ sáng ít hơn so với mức thay đổi cường độ sáng thực tế, theo công thức dưới đây:[158][159]

Ở đây, RH là mức thay đổi độ sáng cảm nhận bởi mắt người, còn RR là thay đổi cường độ sáng thực tế. Khi cường độ thực tế thay đổi 130%, độ sáng cảm nhận thay đổi 114%. Như vậy, Mặt trăng ở một pha tại cận điểm sẽ được cảm nhận sáng hơn tối đa 14% so với Mặt trăng ở cùng pha đó tại viễn điểm.[160]

Tồn tại tranh cãi từ trước về việc liệu các đặc điểm trên bề mặt Mặt trăng có thay đổi qua thời gian hay không. Ngày nay, nhiều khẳng định như vậy bị cho là hão huyền và là kết quả từ việc quan sát dưới những điều kiện ánh sáng khác nhau, tầm nhìn thiên văn kém, hay những bản vẽ không phù hợp. Tuy nhiên, sự thoát khí thi thoảng diễn ra và có thể là nguyên nhân của một tỉ lệ nhỏ hiện tượng thoáng qua được báo cáo. Gần đây, có gợi ý rằng một vùng bề mặt Mặt trăng đường kính khoảng 3 km bị điều chỉnh bởi một sự kiện giải phóng khí cách đây khoảng một triệu năm.[161][162]

Cũng như Mặt trời, hình dạng Mặt trăng có thể bị ảnh hưởng bởi khí quyển Trái đất. Hiệu ứng quang học phổ biến là hào quang 22° hình thành khi ánh sáng Mặt trăng khúc xạ qua những tinh thể băng trong những đám mây ti tầng cao và quầng sáng nhỏ hơn khi Mặt trăng được quan sát qua mây mỏng.[163]

Nhìn từ bán cầu bắc, cực bắc Mặt trăng ở phía trên. Nhìn từ bán cầu nam, Mặt trăng sẽ lộn ngược với cực bắc ở quay xuống dưới.
So sánh kích thước biểu kiến của Mặt trăng và Mặt trời ở cận điểm và viễn điểm. Bên trái là Mặt trời, bên phải là Mặt trăng. Bên dưới là ở cận điểm, bên trên là ở viễn điểm. Mặt trăng ở cận điểm trông lớn hơn 14% so với ở viễn điểm và lớn hơn Mặt trời.


Tổng hợp các lực hấp dẫn của Mặt trăng và lực ly tâm trong hệ quy chiếu gắn với Trái đất tạo nên các lực thủy triều được minh họa như trên hình.
Hiện tượng bình động của Mặt trăng gây ra chênh lệch lực hấp dẫn từ Trái Đất, tạo hiệu ứng thủy triều bởi Trái đất cho Mặt trăng.

Thủy triều

Theo định luật vạn vật hấp dẫn, lực hấp dẫn giữa hai vật thể giảm dần theo bình phương khoảng cách giữa chúng. Do vậy, phần bề mặt Trái đất nằm gần Mặt trăng hơn chịu lực hút từ Mặt trăng mạnh hơn một chút so với phần nằm xa Mặt trăng. Chênh lệch lực hút này tạo ra lực thủy triều. Lực thủy triều tác động lên cả đại dương và lớp vỏ đất đá của Trái đất.

Lực thủy triều có hiệu ứng rõ rệt nhất là làm đại dương có hình ellipsoid với hai "bướu", một bướu nằm gần Mặt trăng, và bướu kia nằm đối diện. Khi Trái đất tự quay trong đại dương hình ellipsoid này, đại dương sẽ dâng lên và hạ xuống so với một điểm trên bề mặt đất đá của Trái đất, tạo ra hiện tượng thủy triều đại dương.[164] Trong vòng khoảng 24 giờ, có hai lần thủy triều dâng cao và hai lần thủy triều hạ thấp.[164] Chính xác hơn, thủy triều dâng cao sau mỗi 12 tiếng 25 phút, với 25 phút cộng thêm vào là do Mặt trăng, và do đó các bướu đại dương, cũng quay cùng chiều với Trái đất ở tốc độ chậm hơn. Mặt trời cũng gây ra hiện tượng thủy triều trên Trái đất, nhưng lực thủy triều của Mặt trời chỉ bằng 40% so với Mặt trăng. Tổng hợp tác động của lực thủy triều Mặt trăng và Mặt trời làm thay đổi phạm vi thủy triều với chu kỳ tuần hoàn khoảng hai tuần.[164] Nếu Trái đất không có lục địa, chỉ toàn đại dương, thủy triều sẽ dễ tiên đoán, với phạm vi thủy triều khoảng một mét. Tuy nhiên, trên thực tế, phạm vi thủy triều phụ thuộc nhiều yếu tố: lực ma sát giữa đại dương với đáy biển, quán tính của khối đại dương, địa hình các bồn trũng đại dương nông dần ở gần bờ, và sự luân chuyển các khối nước biển giữa các bồn trũng đại dương.[165]

Lực thủy triều cũng gây ra các "bướu" ở phần lõi và vỏ đất đá của Trái đất. Tuy nhiên, khác với đại dương, nơi mà lực thủy triều gây ra chuyển động của các khối chất lỏng, chuyển động của phần lõi và vỏ đất đá của Trái đất dưới tác động của lực thủy triều mang tính chất đàn hồi và dẻo. Tương tác đàn hồi này tạo ra mô men lực chống lại chuyển động tự quay của Trái đất. Mô men lực này làm giảm dần mô men động lượngđộng năng quay của Trái đất, làm chậm dần chuyển động tự quay của Trái đất.[164][166] Do bảo toàn mô men động lượng trong hệ Trái đất - Mặt trăng, phần mô men động lượng mất đi ở chuyển động tự quay của Trái đất được chuyển hóa sang mô men động lượng của Mặt trăng, làm quỹ đạo Mặt trăng tăng dần độ cao với tốc độ quỹ đạo giảm dần. Hiệu ứng này mang tên gia tốc thủy triều, làm tăng dần khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trăng.[166] Thí nghiệm đo khoảng cách Mặt trăng bằng cách chiếu laser lên các tấm hồi phản được chương trình Appolo lắp đặt trên bề mặt Mặt trăng cho thấy khoảng cách tới Mặt trăng tăng với tốc độ 38 mm mỗi năm[167] (cỡ tốc độ mọc của móng tay người).[168] Các đồng hồ nguyên tử cũng cho thấy ngày Trái đất dài hơn với tốc độ 15 micro giây mỗi năm,[169] làm tăng dần tần suất UTC phải điều chỉnh bằng giây nhuận.

Nếu quá trình này tiếp tục diễn ra, chu kỳ tự quay của Trái đất sẽ dài ra đến khi bằng với chu kỳ quỹ đạo của chuyển động quay quanh nhau của hệ Trái đất - Mặt trăng, tạo ra khóa thủy triều ở cả hai thiên thể. Khi đó Mặt trăng sẽ đứng yên tại một kinh tuyến, như một vệ tinh địa tĩnh, giống như trường hợp của Pluto và Charon hiện nay. Tuy nhiên, trong tương lai, Mặt trời sẽ trở thành một sao đỏ khổng lồ và sẽ nuốt chửng hệ Trái đất - Mặt trăng trước khi hiện tượng khóa thủy triều ở cả hai thiên thể này xảy ra.[170][171]

Mặt trăng cũng chịu tác động của lực thủy triều gây ra bởi Trái đất và Mặt trời. Phạm vi thủy triều trên Mặt trăng là 10 cm và biến đổi theo chu kỳ 27 ngày, với hai thành phần: thành phần theo phương cố định gây bởi Trái đất, vì Mặt trăng đã bị khóa thủy triều trong quỹ đạo đồng bộ, và thành phần theo phương biến đổi gây bởi Mặt trời.[166] Thành phần gây bởi Trái đất là do sự bình động của Mặt trăng, vì quỹ đạo của Mặt trăng có độ lệch tâm. Nếu quỹ đạo của Mặt trăng tròn hoàn hảo thì chỉ có thành phần lực thủy triều gây ra bởi Mặt trời.[166] Ứng suất tích lũy từ các lực thủy triều gây ra các đợt động đất Mặt trăng. Động đất Mặt trăng ít xảy ra hơn và có cường độ yếu hơn so với động đất trên Trái đất. Tuy vậy động đất Mặt trăng có thể diễn ra lâu hơn đáng kể so với trên Trái đất, kéo dài tới gần một giờ đồng hồ, do không có khối nước lỏng làm tiêu hao và dập tắt các dao động địa chấn. Khám phá ra động đất Mặt trăng, bởi các địa chấn kếchương trình Apollo đặt trên Mặt trăng từ những năm 1969 đến 1972, đã từng gây ngạc nhiên cho giới khoa học.[172]


Thiên thực

Thiên thực chỉ xảy ra khi Mặt trời, Trái đất, Mặt trăng đều nằm trên một đường thẳng (gọi là sóc vọng). Nhật thực diễn ra vào trăng non khi Mặt trăng nằm giữa Mặt trời và Trái đất. Trái ngược nguyệt thực diễn ra vào trăng tròn khi Trái đất nằm giữa Mặt trời và Mặt trăng. Kích cỡ biểu kiến của Mặt trăng gần bằng Mặt trời và đều vào cỡ hơn nửa độ. Mặt trời lớn hơn Mặt trăng nhiều nhưng do ở cách xa Trái đất hơn hẳn nên nó có kích cỡ biểu kiến tương đồng với Mặt trăng ở gần và bé hơn nhiều. Sự thay đổi trong kích cỡ biểu kiến do quỹ đạo không tròn, xảy ra trong những chu kỳ khác nhau, dẫn đến hai dạng nhật thực là toàn phần (Mặt trăng trông to hơn Mặt trời) và hình khuyên (Mặt trăng trông nhỏ hơn Mặt trời).[173] Trong nhật thực toàn phần, Mặt trăng che phủ hoàn toàn đĩa Mặt trời và quầng mặt trời trở nên có thể quan sát bằng mắt thường. Vì khoảng cách giữa Mặt trăng và Trái đất gia tăng rất chậm qua thời gian,[164] đường kính góc của Mặt trăng đang giảm. Thêm nữa, do đang trong quá trình tiến hóa thành sao khổng lồ đỏ, kích cỡ và đường kính biểu kiến của Mặt trời trên bầu trời đang tăng chậm. Sự kết hợp của hai thay đổi này đồng nghĩa rằng hàng trăm triệu năm trước, Mặt trăng luôn luôn che phủ hoàn toàn Mặt trời trong nhật thực và không có nhật thực hình khuyên. Tương tự như thế, hàng trăm triệu năm sau, Mặt trăng sẽ không còn có thể che phủ hoàn toàn Mặt trời được nữa và nhật thực toàn phần cũng không còn.[174]

Vì quỹ đạo Mặt trăng quanh Trái đất (bạch đạo) nghiêng khoảng 5,145° (5° 9') so với quỹ đạo của Trái đất quanh Mặt trời (hoàng đạo) nên nhật thực không xảy ra tại mọi dịp trăng non và trăng tròn.[15] Để nhật thực diễn ra thì Mặt trăng phải ở gần giao cắt của hai mặt phẳng quỹ đạo.[175] Sự tái lặp của nhật thực và nguyệt thực được mô tả bằng saros, với chu kỳ xấp xỉ 18 năm một lần.[176]

Vì Mặt trăng liên tục chắn khung cảnh bầu trời một diện tích tròn rộng nửa độ,[177] hiện tượng che khuất xảy ra khi một hành tinh hay ngôi sao sáng đi qua phía sau Mặt trăng và bị che mất. Chiếu theo khái niệm này thì nhật thực là sự che khuất Mặt trời. Vì Mặt trăng ở khá gần Trái đất, mỗi vùng trên Trái đất có thể quan sát sự che khuất của các sao ở các thời điểm khác nhau và theo cách khác nhau, tương tự như khác biệt giữa các vùng đất trong quan sát nhật thực. Việc quỹ đạo Mặt trăng tiến động cũng khiến các ngôi sao bị che khuất mỗi năm một khác.[178]

Nhìn từ Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời tỏ ra cùng kích cỡ trong nhật thực toàn phần năm 1999


Bản vẽ Mặt trăng của Galileo Galilei trong cuốn sách Sidereus Nuncius (1609)
Bản đồ Mặt trăng trong cuốn Selenographia (1647) vẽ bởi Johannes Hevelius. Đây là một trong những bản đồ đầu tiên có thể hiện các vùng lộ ra bởi hiện tượng bình động.

Khám phá

Trước thời kỳ du hành vũ trụ

Một trong các hình vẽ cổ của con người về Mặt trăng có thể là hình khắc trên đá vào 5000 năm trước mang tên Orthostat 47Knowth, Ireland.[2]

Tìm hiểu về các chu kỳ liên quan đến Mặt trăng là một phần của hoạt động thiên văn học thời kỳ đầu. Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, các nhà thiên văn Babylon đã ghi chép chu kỳ saros khoảng 18 năm của nguyệt thực,[179]các nhà thiên văn Ấn Độ đã mô tả cự giác hàng tháng của Mặt trăng.[180] Nhà thiên văn học Trung Quốc Thạch Thân, vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, đã hướng dẫn cách tiên đoán nhật thực và nguyệt thực.[181](tr.411) Tiếp theo đó là việc hình thành các hiểu biết về hình dạng của Mặt trăng và cơ chế tạo nên ánh sáng Mặt trăng. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Anaxagoras (428 trước CN) cho rằng cả Mặt trời và Mặt trăng đều là những tảng đá hình cầu lớn, và Mặt trăng phản chiếu lại ánh sáng từ Mặt trời.[182][181](tr.227) Người Trung Quốc vào thời nhà Hán đã tin rằng Mặt trăng có nguồn năng lượng gọi là khí, nhưng họ cũng có lý thuyết cho rằng ánh sáng của Mặt trăng chỉ là phản xạ từ Mặt trời, và Kinh Phong (78–37 TCN) đã ghi nhận hình dạng cầu của Mặt trăng.[181](tr.413–414) Năm 499, nhà thiên văn Ấn Độ Aryabhata ghi chép trong cuốn sách Aryabhatiya của ông rằng nguồn gốc tạo nên ánh trăng là sự phản chiếu ánh sáng Mặt trời.[183] Nhà thiên văn học và vật lý học Alhazen (965–1039) phát hiện ra rằng Mặt trăng không phản xạ giống như một cái gương, mà phản xạ khuếch tán về mọi hướng.[184] Trầm Quát (1031–1095) vào đời nhà Tống đã ẩn dụ về các pha trăng rằm và trăng non, so sánh chúng với hình tượng quả cầu bạc có một nửa sơn bột trắng, sẽ có hình lưỡi liềm nếu nhìn từ bên cạnh.[181](tr.415–416)

Trong tác phẩm Về Vũ trụ của Aristoteles (384–322 TCN), Mặt trăng đánh dấu biên giới giữa các quả cầu của các nguyên tố biến đổi (đất, nước, khí và lửa), và các sao bất tử của ê te, theo lý thuyết vật lý Aristoteles.[185] Tuy nhiên, trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, Sélefkos Seleukos đã nhận định thủy triều gây ra bởi sức hút của Mặt trăng, và độ cao của thủy triều phụ thuộc vào vị trí Mặt trăng so với Mặt trời.[186] Trong cùng thời gian này, Arístarkhos xứ Sámios đã tính ra kích thước Mặt trăng và khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất vào cỡ 20 lần bán kính Trái đất. Các kết quả đo này đã được cải thiện độ chính xác lên nhiều bởi Claudius Ptolemaeus (90–168): khoảng cách đến Mặt trăng vào cỡ 59 lần bán kính Trái đất và đường kính Mặt trăng vào cỡ 0,292 đường kính Trái đất, rất sát với các con số đã biết hiện nay, là 60 và 0,273.[187] Arkhimídis (287–212 TCN) đã thiết kế một mô hình vũ trụ có thể tính toán chuyển động của Mặt trăng và các vật thể khác trong Hệ Mặt trời.[188]

Trong Thời kỳ Trung cổ, trước khi có kính viễn vọng, Mặt trăng ngày càng được chấp nhận là có hình dạng hình cầu, mặc dù nhiều người tin rằng hình cầu này "nhẵn hoàn hảo".[189]

Năm 1609, Galileo Galilei đã vẽ những bức vẽ đầu tiên về hình ảnh Mặt trăng quan sát qua kính viễn vọng, trong quyển sách Sidereus Nuncius của ông, và ghi chép rằng thiên thể này không nhẵn mà có các núi non và các hố. Thomas Harriot cũng đã vẽ những bức vẽ tương tự sớm hơn vài tháng, nhưng không xuất bản các bức vẽ này. Việc vẽ bản đồ Mặt trăng được phát triển tiếp trong thế kỷ 17, dựa vào quan sát từ kính viễn vọng. Các nỗ lực của Giovanni Battista RiccioliFrancesco Maria Grimaldi đã tạo ra hệ thống đặt tên các đặc điểm Mặt trăng được sử dụng rộng rãi ngày nay, trong đó các biển mang các tên Latinh thể hiện các khái niệm trừu tượng và thời tiết, còn các hố va chạm được đặt tên theo các nhà khoa học lớn đã khuất.[190] Wilhelm BeerJohann Heinrich Mädler những năm 1834–36 đã xây dựng bản đồ Mappa Selenographica và xuất bản vào năm 1837 cuốn sách Der Mond. Các công trình này chứa những nghiên cứu lượng giác chính xác đầu tiên về các đặc điểm của Mặt trăng, bao gồm chiều cao của trên một nghìn ngọn núi, với độ chính xác gần tương đương với nghiên cứu địa lý trên Trái đất.[191] Các hố trên Mặt trăng, lần đầu được ghi chép bởi Galileo, đã từng được cho là các miệng núi lửa cho đến những năm 1870, khi Richard Proctor đề xuất rằng chúng được tạo ra bởi các vụ va chạm.[73] Quan điểm này được nhà địa chất thực nghiệm Grove Karl Gilbert đồng tình vào năm 1892, và tiếp tục được củng cố qua các nghiên cứu so sánh thực hiện từ các năm 1920 đến các năm 1940,[192] hình thành nên một nhánh nghiên cứu về địa tầng học Mặt trăng, một nhánh mới của địa chất thiên văn phát triển vào những năm 1950.[73]


1958-1970

Trong thời gian từ 1958, năm khởi động chương trình Luna của Liên Xô, đến những năm 1970, năm kết thúc của chương trình Apollo và cả chương trình Luna, cuộc Chạy đua Vũ trụ giữa Liên Xô và Mỹ đã làm tăng đáng kể mối quan tâm về khám phá Mặt trăng. Khi cuộc đua này kết thúc, cả Mỹ và Liên Xô đã nắm được các công nghệ tên lửa đẩy cần thiết, và các quốc gia này sau đó chỉ còn gửi các tàu thăm dò không người lái bay qua hoặc hạ cánh hay đâm xuống Mặt trăng.

Hoạt động của Liên Xô

Sau ba nhiệm vụ không tên thất bại năm 1958, tàu không gian từ chương trình Luna của Liên Xô đã lần đầu tiên hoàn thành những mục tiêu sau: vật thể nhân tạo đầu tiên thoát khỏi trọng lực Trái đất và đi qua gần Mặt trăng là Luna 1, vật thể nhân tạo đầu tiên va chạm bề mặt Mặt trăng là Luna 2, và những bức ảnh đầu tiên về nửa xa của Mặt trăng mà bình thường ẩn dạng được chụp bởi Luna 3, tất cả đều vào năm 1959.[193]

Tàu không gian đầu tiên đổ bộ nhẹ nhàng lên Mặt trăng thành công là Luna 9 và phương tiện không người lái đầu tiên đi vào quỹ đạo quanh Mặt trăng là Luna 10, cả hai vào năm 1966.[73] Các mẫu đất và đá được đem về Trái đất bởi ba nhiệm vụ trả về mẫu vật (Luna 16 năm 1970, Luna 20 năm 1972, và Luna 24 năm 1976) với tổng khối lượng 0,3 kg.[194] Hai cỗ máy thám trắc tiên phong trong chương trình Lunokhod của Liên Xô đã đặt chân lên Mặt trăng vào các năm 1970 và 1973.

Hoạt động của Hoa Kỳ

Năm 1961, Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy cam kết sẽ đưa con người lên Mặt trăng trước khi thập kỷ 1960 kết thúc. Cùng năm, NASA đã đưa một loạt tàu thăm dò không người lái lên Mặt trăng để tìm hiểu về bề mặt và chuẩn bị cho nhiệm vụ đưa người lên đây. Chương trình Ranger của Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực đã cho những ảnh chụp cận cảnh đầu tiên; chương trình Tàu quỹ đạo Mặt trăng đã vẽ bản đồ toàn bộ bề mặt; chương trình Surveyor đã đưa tàu đổ bộ Surveyor 1 lên Mặt trăng sau Luna 9 khoảng 4 tháng. Chương trình Apollo với các tàu có người lái được thực hiện song song. Sau một loạt thử nghiệm với các tàu Apollo không người lái và có người lái trên quỹ đạo quanh Trái đất, năm 1968 Apollo 8 đã lần đầu tiên đưa người bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng. Năm 1969 là thời kỳ đỉnh cao của Cuộc chạy đua Vũ trụ với việc lần đầu con người đặt chân lên Mặt trăng nhờ các tàu Apollo.[195]

Neil Armstrong, phi hành gia của Apollo 11, đã trở thành người đầu tiên bước chân trên Mặt trăng, vào hồi 02:56 UTC ngày 21 tháng 7 năm 1969.[196] Sự kiện này đã được truyền hình trực tiếp và ước chừng có khoảng 500 triệu người trên toàn cầu đã xem.[197][198] Các tàu Apollo đã mang về 380,05 kg đất đá Mặt trăng trong 2196 mẫu vật.[199]

Các tàu Apollo cũng đã lắp đặt nhiều thiết bị thí nghiệm trên Mặt trăng, gồm các đầu dò dòng nhiệt, địa chấn kế, từ kế, tại các vị trí đổ bộ của Apollo 12, 14, 15, 1617. Dữ liệu từ các thiết bị này được truyền trực tiếp về Trái đất, cho đến năm 1977, khi chi phí thực hiện bị cắt giảm.[200][201] Tuy nhiên thí nghiệm đo khoảng cách laser Mặt trăng chỉ dùng các thiết bị thụ động là các tấm gương hồi phản, nên vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Việc đo khoảng cách vẫn thường xuyên được thực hiện bởi các tia laser phát ra từ các trạm ở Trái đất, với độ chính xác cỡ vài xentimét. Dữ liệu khoảng cách vẫn đang được dùng cho nhiều mục đích nghiên cứu, bao gồm việc xác định giới hạn kích thước lõi Mặt trăng.[202]

Apollo 17 năm 1972 là chuyến bay cuối cùng của chương trình Apollo, trong đó có sự tham gia lần đầu của một nhà khoa học địa chất, Jack Schmitt, trong số các phi hành gia.[26]

Hình ảnh đầu tiên trong lịch sử về nửa xa của Mặt trăng do Luna 3 chụp, 7 tháng 10 năm 1959
Buzz Aldrin đang rời khỏi Mô đun Mặt trăng Đại bàng trong chuyến đi Apollo 11 (1969) để trở thành người thứ hai đặt chân lên Mặt trăng


SMART-1 bay quay Mặt trăng theo quỹ đạo thấp dần với động cơ ion.
Ảnh chụp xe tự hành Ngọc Thố 2 từ tàu đổ bộ Thường Nga 4 tại nửa xa của Mặt trăng.

Thập kỷ 1970 đến nay

Từ thập niên 1970, mối quan tâm trong thám hiểm vũ trụ bắt đầu hướng về các khu vực khác trong Hệ Mặt trời. Trong nhiều năm, Mặt trăng không được chú ý, cho đến khi hoạt động vũ trụ dần được quốc tế hóa.

Từ những năm 1990, có thêm nhiều quốc gia tham gia khai phá trực tiếp Mặt trăng. Năm 1990, Nhật Bản là quốc gia thứ ba đưa tàu vũ trụ bay quanh Mặt trăng, tàu Hiten. Con tàu này thả ra một đầu dò quỹ đạo mang tên Hagoromo, nhưng bộ phận truyền tín hiệu của đầu dò bị hỏng và ngăn cản việc khai thác chuyến thám hiểm này cho mục đích khoa học.[203] Năm 1994, Hoa Kỳ đưa tàu Clementine vào quỹ đạo Mặt trăng. Tàu Clementine đã vẽ bản đồ địa hình gần như toàn cầu đầu tiên cho Mặt trăng và chụp ảnh đa phổ toàn cầu đầu tiên cho bề mặt Mặt trăng.[204] Tiếp đó, vào năm 1998, tàu Lunar Prospector của Hoa Kỳ đã phát hiện dư lượng hydro ở hai cực, có thể được sinh ra bởi nước đá ở các hố chìm trong bóng tối.[205]

Tàu SMART-1 của Liên minh Châu Âu, tàu vũ trụ thứ hai sử dụng sức đẩy ion, đã hoạt động trên quỹ đạo Mặt trăng từ ngày 15 tháng 11 năm 2004 cho đến khi được cho đâm xuống bề mặt vào ngày 3 tháng 9 năm 2006. Chuyến thám hiểm này đã cung cấp những kết quả chi tiết đầu tiên về các thành phần hóa học của bề mặt Mặt trăng.[206]

Chương trình Thám hiểm Mặt trăng của Trung Quốc bắt đầu với tàu Thường Nga 1. Thường Nga 1 đã bay quanh Mặt trăng từ ngày 5 tháng 11 năm 2007, thu thập bản đồ ảnh chụp toàn bộ Mặt trăng, và sau đó được điều khiển để đâm xuống thiên thể này ngày 1 tháng 3 năm 2009.[207] Thường Nga 2, được phóng vào tháng 10 năm 2010, đã đến Mặt trăng nhanh hơn, vẽ bản đồ Mặt trăng ở độ phân giải cao hơn trong vòng 8 tháng, sau đó đi đến điểm Lagrange L2 của hệ Trái đất-Mặt trời, rồi bay qua tiểu hành tinh 4179 Toutatis ngày 13 tháng 12 năm 2012, và cuối cùng là đi vào khoảng không vũ trụ. Ngày 14 tháng 12 năm 2013, Thường Nga 3 đã đưa một tàu đổ bộ lên bề mặt Mặt trăng. Tàu đổ bộ này sau đó thả ra một xe tự hành Mặt trăng có tên Ngọc Thố (玉兔). Thường Nga 4 cũng là một tàu mang theo xe tự hành đã được phóng vào năm 2019, trở thành tàu vũ trụ đầu tiên hạ cánh ở nửa xa của Mặt trăng. Thường Nga 5 đã đáp xuống Mặt Trăng vào ngày 1 tháng 12 năm 2020 theo giờ Việt Nam với nhiệm vụ sẽ mang về Trái đất mẫu vật của Mặt trăng.[cần chú thích]

Từ ngày 4 tháng 10 năm 2007 đến ngày 10 tháng 6 năm 2009, tàu quỹ đạo Kaguya của Cơ quan Thám hiểm Hàng không Vũ trụ Nhật Bản cùng với 2 vệ tinh nhân tạo nhỏ đi kèm để trung chuyển tín hiệu, đã thu thập các dữ liệu địa vật lý và ghi lại video độ phân giải cao đầu tiên ở bên ngoài quỹ đạo Trái đất.[208][209]

Nhiệm vụ khám phá Mặt trăng đầu tiên của Ấn Độ đã được thực hiện bởi tàu Chandrayaan-1, bay quanh thiên thể này từ ngày 8 tháng 11 năm 2008 cho đến khi bị mất tín hiệu ngày 27 tháng 8 năm 2009. Chandrayaan-1 đã cung cấp các bản đồ có độ phân giải cao về hóa học, khoáng vật học và quang-địa chất của bề mặt Mặt trăng, và đã xác nhận sự tồn tại của nước trên Mặt trăng.[210] Tổ chức Nghiên cứu Không gian Ấn Độ đã lên kế hoạch cho tàu Chandrayaan-2 vào năm 2013, dự định mang theo các xe tự hành của Nga.[211][212] Tuy nhiên thất bại của dự án Fobos-Grunt của Nga đã làm ngày phóng lùi đến 22 tháng 7 năm 2019. Tàu đổ bộ Vikram của Chandrayaan-2 đã cố gắng hạ cánh đến khu vực gần nam cực của Mặt trăng vào ngày 6 tháng 9 năm 2019, nhưng bị mất tín hiệu sau khi di chuyển được 2,1 km.

Ngày 18 tháng 6 năm 2009, Hoa Kỳ phóng cùng lúc Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng và thiết bị va chạm LCROSS. LCROSS đã tạo ra một va chạm ở hố Cabeus ngày 9 tháng 10 năm 2009,[213] còn Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng hiện nay vẫn đang hoạt động, đo cao độ chính xác và chụp ảnh độ phân giải cao. Cặp tàu GRAIL của NASA đã bắt đầu bay quanh Mặt trăng từ ngày 1 tháng 1 năm 2012,[214] để nghiên cứu cấu trúc bên trong của Mặt trăng. Ngày 6 tháng 10 năm 2013, tàu thăm dò LADEE của NASA đã đi vào quỹ đạo Mặt trăng, nghiên cứu tầng ngoài khí quyển Mặt trăng.

Nga đã lên kế hoạch cho các dự án Luna trong tương lai, từ Luna 25 đến Luna 31. Luna 25, còn gọi là Luna-Glob, dự kiến sẽ có một tàu đổ bộ không người lái mang theo một bộ địa chấn kế và một tàu quỹ đạo được thiết kế dựa trên tàu Fobos-Grunt đến Sao Hỏa đã từng thất bại.[215] Hoa Kỳ cũng đã công bố chương trình Artemis, với mục tiêu "đưa người phụ nữ đầu tiên và người đàn ông tiếp theo" lên Mặt trăng, đặc biệt là vùng cực nam, vào năm 2024.


Hoạt động tư nhân

Ngoài các dự án của các quốc gia, cũng có các kế hoạch tư nhân để thám hiểm và khai thác Mặt trăng.

Giải thưởng Mặt trăng X của Google, công bố ngày 13 tháng 9 năm 2007, trao thưởng 20 triệu đô la Mỹ cho bất cứ tư nhân nào đưa được xe tự hành lên thiên thể này theo một số tiêu chí trước tháng 3 năm 2018.[216]Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 2018, giải thưởng đã được tuyên bố là không có ai đạt được do không có đội dự thi nào kịp hoàn thành nhiệm vụ đúng hạn.[217]

Công ty Năng lượng Shackleton đã công bố một chương trình hoạt động tại cực nam của Mặt trăng để thu hoạch nước và cung cấp cho các Kho chứa Thuốc phóng của họ.[218] Tuy nhiên công ty đã không huy động được đủ vốn để hoạt động.

Tháng 8 năm 2016, công ty khởi nghiệp Moon Express đã được chính phủ Hoa Kỳ cấp phép thực hiện chương trình đổ bộ lên Mặt trăng.[219] Ngày 28 tháng 2 năm 2018, SpaceX, Vodafone, NokiaAudi công bố hợp tác trong việc xây dựng mạng 4G trên Mặt trăng để truyền hình trực tiếp về Trái đất.[220] Ngày 29 tháng 11 năm 2018 NASA mở thầu cho các công ty tư nhân thực hiện việc đưa các gói thiết bị nhỏ lên Mặt trăng, trong chương trình Dịch vụ Vận tải Mặt trăng Thương mại mà nay là một phần của chương trình Artemis.[221]

Mô hình của ba tàu đổ bộ của các nhà thầu tư nhân được chọn cho chương trình Artemis. Từ trái qua phải: Peregrine của Astrobotic Technology, Nova-C của Intuitive MachinesZ-01 của OrbitBeyond.


Các vật dụng bị để lại trên Mặt trăng, sau hoạt động của Gói Thí nghiệm Bề mặt Mặt trăng của Apollo

Sự hiện diện của con người

Hoạt động của con người trên Mặt trăng đã để lại các vật dụng tại đây. Trong số đó, có một số được lắp đặt có chủ đích, như các tác phẩm nghệ thuật Bảo tàng Mặt trăng, các thông điệp thiện chí Apollo 11, các tấm thẻ Mặt trăng, bảng tưởng niệm Nhà du hành đã Ngã xuống.

Một số thiết bị vẫn còn đang trong quá trình sử dụng. Một số tàu quỹ đạo vẫn đang hoạt động trên quỹ đạo Mặt trăng, như Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng. Một số tàu đổ bộ và xe tự hành vẫn đang được vận hành như các thiết bị của Thường Nga 3, với Kính viễn vọng Cực tím Mặt trăng,[222] của Thường Nga 4Thường Nga 5.

Mặt trăng được coi là một địa điểm lý tưởng để lắp đặt nhiều loại kính viễn vọng.[223] Nó không quá xa Trái đất, nên không đòi hỏi chi phí quá lớn trong vận chuyển, lắp đặt và liên lạc. Các ảnh chụp quang học sẽ không bị gây nhiễu do rối loạn trong khí quyển, vì Mặt trăng hầu như không có khí quyển. Một số hố ở gần các cực nằm trong bóng tối vĩnh cửu và rất lạnh nên phù hợp cho kính viễn vọng hồng ngoại vốn nhạy cảm với nhiễu hồng ngoại từ vật thể nhiệt độ thường. Kính viễn vọng vô tuyến ở nửa xa của Mặt trăng cũng được che chắn khỏi nhiễu sóng vô tuyến từ nhiều nguồn phát ra ở Trái đất.[224] Đất Mặt trăng, tuy có thể gây ra vấn đề cho các bộ phận chuyển động của các kính viễn vọng, có thể được trộn với các ống nano carbonepoxy để tạo thành vật liệu xây dựng cho các công trình kính viễn vọng đạt đường kính tới 50 mét.[225] Kính viễn vọng thiên đỉnh trên Mặt trăng có thể được tạo ra dễ dàng với muối lỏng.[226]

Đã có những kế hoạch để tiến đến cho phép con người định cư trên Mặt trăng. Dự án Cổng Mặt trăng thuộc chương trình Artemis là một trong các nỗ lực đang được triển khai cho mục đích này. Tuy con người đã từng có mặt được vài ngày trên Mặt trăng, có các thử thách cho cuộc sống lâu dài tại đây. Bụi Mặt trăng có thể dính vào quần áo và bị mang theo vào khu vực sinh hoạt. Bụi này đã từng được nếm và ngửi bởi các nhà du hành vũ trụ, với tên gọi "hương vị Apollo".[227] Bụi mịn có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe.[227]

Năm 2019, ít nhất một hạt giống đã nảy mầm trong một thí nghiệm mang theo sự sống từ Trái đất của tàu đổ bộ Thường Nga 4 có tên gọi Hệ Vi Sinh thái Mặt trăng.[228]

Mặc dù chương trình Luna đã cắm các cờ của Liên Xô trên Mặt trăng, và các nhà du hành vũ trụ Apollo cũng đã cắm những lá cờ Hoa Kỳ, chưa có quốc gia nào tuyên bố sở hữu lãnh thổ trên Mặt trăng.[229] Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Hoa Kỳ đã ký Hiệp ước Ngoại Không gian năm 1967,[230] định nghĩa Mặt trăng và toàn bộ không gian ngoài Trái đất là "di sản chung của nhân loại".[229] Hiệp ước này giới hạn việc khai thác Mặt trăng vào mục đích hòa bình, nghiêm cấm hoạt động quân sự và vũ khí hủy diệt hàng loạt.[231] Hiệp ước Mặt trăng năm 1979 ngăn cản các quốc gia đơn phương khai thác tài nguyên Mặt trăng. Tuy nhiên đến tháng 11 năm 2016, mới chỉ có 18 quốc gia đã phê chuẩn hiệp ước này,[232] trong đó không có quốc gia nào có năng lực tự đưa người lên không gian. Một số cá nhân đã tuyên bố sở hữu bất động sản trên Mặt trăng nhưng không có tuyên bố nào đã được công nhận rộng rãi.[233][234][235]


Văn hóa

Thần thoại

Các vùng có mầu sáng và màu sẫm trên Mặt trăng đã được con người tưởng tượng thành những hình ảnh khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau, như chú Cuội và cây đa trên cung trăng, trong văn hóa dân gian Việt Nam, hay thỏ Mặt trăng, trong văn hóa Trung Hoa và các vùng viễn đông (Hàn Quốc, Nhật Bản), hoặc hình mặt người, hình con trâu. Trong nhiều nền văn hóa cổ và tiền sử, Mặt trăng được nhân cách hóa thành nam thần hoặc nữ thần, hoặc được coi như hiện tượng siêu nhiên và thuật chiêm tinh liên quan đến Mặt trăng vẫn còn được lan truyền đến ngày nay.

Thần thoại Trung Hoa kể về sự tích Hằng Nga bay lên Mặt trăng và trường sinh cùng thỏ ngọc tại đây, một trong các sự tích lý giải cho phong tục tết Trung Thu. Thần thoại Ấn Độ coi Chandra là nam thần Mặt trăng. Tôn giáo Lưỡng Hà của người Sumer cổ (4500–1900 TCN) tin Mặt trăng là nam thần Nanna,[236][237] cha của Inanna, nữ thần Sao kim,[236][237]Utu, thần Mặt trời.[236][237] Trong tín ngưỡng Tiền Ấn Âu, Mặt trăng được nhân cách hóa thành nam thần *Meh1not.[238] Theo thần thoại Hy Lạp La Mã cổ đại, Mặt trời là nam và Mặt trăng là nữ, ứng với Helios/SolSelene/Luna;[238] một đặc trưng văn hóa của vùng phía đông Địa Trung Hải[238] và dấu vết về nam thần Mặt trăng trong văn hóa Hy Lạp cổ được để lại trong hình tượng Menelaus.[238]

Biểu tượng sao và lưỡi liềm đã xuất hiện trong văn hóa loài người từ thời kỳ đồ đồng, đại diện cho Mặt trời hoặc Mặt trăng, hoặc Mặt trăng và Sao kim. Biểu tượng này được người Hy Lạp cổ đại dùng cho Artemis hoặc Hekate,[239] và sau này đại diện cho Byzantium.[240] Biểu tượng lưỡi liềm đã được dùng trong văn hóa Lưỡng Hà để đại diện thần Nanna.[237] Trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, nữ thần Selene đội trên đầu hình lưỡi liềm xoay ngang giống hai sừng.[241][242] Các biểu tượng Mặt trời và Mặt trăng có mặt người được phát triển sau này vào thời trung cổ.

Lịch

Chu kỳ lặp lại của pha Mặt trăng được sử dụng như một công cụ đo thời gian tiện lợi, tạo thành cơ sở cho nhiều hệ thống lịch cổ. Một số thanh đếm cổ, được làm từ xương vào khoảng 20–30 nghìn năm trước, đã được một số nhà nghiên cứu cho là đánh dấu các pha của Mặt trăng.[243][244][245] Ngày nay, chu kỳ lặp lại của tháng, khoảng 30 ngày, gần tương ứng với chu kỳ giao hội của Mặt trăng. Trong tiếng Hán và các ngôn ngữ Châu Âu, từ biểu thị khái niệm "tháng" có nguồn gốc từ Mặt trăng.[246][247][248][249]

Hầu hết các lịch đã xuất hiện trong lịch sử loài người đều là âm dương lịch, dựa trên các chu kỳ chuyển động của cả Mặt trăng và Mặt trời. Lịch Hồi giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ 7 là một ngoại lệ, dựa hoàn toàn vào lịch Mặt trăng. Theo lịch này, các tháng được xác định bằng việc quan sát hilal, trăng non sớm nhất, ở đường chân trời.[250]

Ảnh hưởng tâm sinh lý

Có những ghi chép chưa được xác nhận bằng lý thuyết khoa học về chu kỳ khoảng 29,5 ngày của Mặt trăng lên hành vi và trạng thái tâm sinh lý của sinh vật trên Trái đất, bao gồm con người.

Trong một số nền văn hóa, Mặt trăng có liên hệ với tính cách điên rồ hoặc phi lý. Nhà triết học AristotelesPliny cha đã cho rằng mặt trăng tròn gây ra sự điên cuồng trong những người nhạy cảm. Họ giải thích là não bộ chứa nhiều nước và bị ảnh hưởng bởi lực thủy triều của Mặt trăng; tuy nhiên theo tính toán hiện đại, lực thủy triều Mặt trăng có tác động vô cùng bé tới con người.[251] Có một số người ngày nay vẫn tin là Mặt trăng tròn làm tăng số ca nhập viện vì tâm thần, số ca giết người hoặc tự tử, hay số vụ tai nạn giao thông; tuy nhiên đã có hàng chục nghiên cứu phủ nhận mối liên hệ này.[251][252][253][254][255]

Một chiếc gương đồng thời nhà Đường ở Trung Quốc (618-906) có họa tiết Hằng Ngathỏ ngọc trên cung trăng.
Các pha Mặt trăng trong một tờ lịch ở cuốn Địa chí Catalunya (1375) của Abraham và Jehuda Cresques.


Mặt trăng hiện lên nổi bật trong bức họa Đêm đầy sao của Vincent van Gogh

Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau,
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu,
Ấy tin thắng trận Liên khu báo về.

Bản dịch bởi Huy Cận cho bài Báo Tiệp (報捷) của Hồ Chí Minh

Nguồn cảm hứng

Mặt trăng là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng ở nhiều thời đại, nhiều nền văn hóa. Các nhà thơ Trung Quốc như Lý Bạch, Trương Cửu Linh, Đỗ Phủ, Tô Thức đều có tác phẩm vịnh nguyệt. Những tác giả Nhật Bản, như Myoe (1173-1232), Dogen (1200-1253), cũng có những áng thơ về trăng. Các tác giả Pháp như Paul Verlaine hay Guy de Maupassant cũng có thơ và tiểu thuyết về ánh trăng,[256] trong đó có tác phẩm tiếp tục gây cảm hứng cho âm nhạc của Claude Debussy.[257] Nhiều tác giả Việt Nam qua nhiều thời đại cũng viết về trăng.

Mặt trăng cũng là chủ đề của các tiểu thuyết văn học viễn tưởng. Vào thế kỷ thứ 2, Lukianos xứ Samosata viết tiểu thuyết Truyện Thật (Ἀληθῆ διηγήματα), kể chuyện những người anh hùng du hành đến Mặt trăng và gặp các cư dân tại đó.[29] Từ thời Phục Hưng đến nay, có một số tác phẩm tiêu biểu như Tiếu sử về Đế chế Mặt trăng của Cyrano de Bergerac, Từ Trái đất lên Mặt trăng (1865) và Bay quanh Mặt trăng (1869) của Jules Verne, Tiên phong lên Mặt Trăng (1901) của H. G. Wells.[29]

Sự thể hiện Mặt trăng trên bầu trời xuất hiện phổ biến trong hội họa. Tại Châu Âu, trăng có vai trò đặc biệt là trong chủ nghĩa lãng mạn vì sự biến mất của trăng có thể được liên tưởng đến số phận bất hạnh hoặc hành trình từ sự sống đến cái chết.[239] [258] [259]

Trong âm nhạc, Mặt trăng là nguồn cảm hứng cho nhiều sáng tạo. Các ví dụ trong âm nhạc cổ điển Châu Âu là Sonata ánh trăng (1802) của Ludwig van Beethoven (mặc dù tên này được đặt khi nhà soạn nhạc đã mất) hoặc phần Clair de lune (1905) trong giao hưởng của Claude Debussy.[260] Các sự kiện khám phá Mặt trăng nổi tiếng cũng đi vào ca nhạc, như Walking on the Moon (1979) của The Police, Man on the Moon (1992) của R.E.M. hoặc album The Dark Side of the Moon (1973) của Pink Floyd.[260]

Trong điện ảnh, có các phim viễn tưởng, tài liệu, tiểu sử chính kịch về chủ đề Mặt trăng. Một số ví dụ là Đích đến Mặt trăng (1950) của Irving Pichel, Người đầu tiên trên Mặt trăng (1964) của Nathan Juran[261], Apollo 13 (1995) của Ron Howard, Mặt trăng (2009) của Duncan Jones, Bước chân đầu tiên (2018) của Damien Chazelle.[262][263]

Trong kỳ học, trăng tròn xuất hiện trên huy hiệucờ Lào, Mông CổPalau.[264] Ngoài ra, lưỡi liềmngôi sao và lưỡi liềm đã trở thành biểu tượng của Đế chế Ottoman, kế thừa Byzantium, và cờ của nhiều quốc gia Hồi giáo, như Thổ Nhĩ Kỳ, Tunisia, AlgeriaPakistan.[240] [265][266] Hình lưỡi liềm cũng được sử dụng độc lập với Hồi giáo, như ở cờ Singapore. [266]


Thông tin tham khảo

Mặt trăng Biểu tượng Mặt trăng
Mặt trăng nhìn từ Trái đất, theo chu kỳ quay quanh Trái đất, thể hiện các pha và hiện tượng bình động.
Danh pháp
Danh pháp
Trái đất I
Tên khác
  • Hằng Nga
  • Chị Hằng (văn thơ)
  • Nguyệt (Hán Việt)
Đặc trưng quỹ đạo
Kỷ nguyên J2000
Cận điểm quỹ đạo362600 km
(356400370400 km)
Viễn điểm quỹ đạo405400 km
(404000406700 km)
384 399 km  (0,00257AU)[52]
Độ lệch tâm quỹ đạo0,0549[52]
27,321661 ngày
(27 ngày 7 giờ 43 phút 11,5 s[52])
29,530589 ngày
(29 ngày 12 giờ 44 phút 2,9 s)
1,022 km/s
Độ nghiêng quỹ đạo5,145° so với hoàng đạo[267][↓ 7]
Lùi lại một vòng trong 18,61 năm
Dịch lên một vòng trong 8,85 năm
Vệ tinh tự nhiênTrái đất[↓ 1][268]
Tính chất vật lý
Bán kính trung bình
1737,4 km  
(0,2727 giá trị Trái đất)
[52][269][270]
Bán kính xích đạo
1738,1 km  
(0,2725 giá trị Trái đất)
[269]
Bán kính cực
1736,0 km  
(0,2731 giá trị Trái đất)
[269]
Độ dẹt0,0012[269]
Chu vi10921 km  (xích đạo)
3,793×107 km²  
(0,074 giá trị Trái đất)
Thể tích2,1958×1010 km³  
(0,020 giá trị Trái đất)[269]
Khối lượng7,342×1022 kg  
(0,012300 giá trị Trái đất)[52][269]
[271]
Mật độ trung bình
3,344 g/cm3[52][269]
0,606 giá trị Trái Đất
1,62 m/s2  (0,1654 g)[269]
0,3929 ±0,0009[272]
2,38 km/s
Chu kỳ quay thiên văn
27,321661 ngày  (đồng bộ)
Tốc độ quay xích đạo
4,627 m/s
Xích kinh cực bắc
  •  17giờ 47phút 26giây
  • 266,86°[274]
Xích vĩ cực bắc
65,64°[274]
Suất phản chiếu0,136 [275]
Nhiệt độ mặt tối thiểu trung bình tối đa
Xích đạo 100 K 220 K 390 K
85°B  150 K 230 K[276]
29,3 đến 34,1 phút cung[269][↓ 9]
Khí quyển[56]
Áp suất bề mặt
Thành phần theo thể tích

Chú thích

  1. a b Có một số tiểu hành tinh gần Trái đất, bao gồm 3753 Cruithne, cùng quỹ đạo với Trái đất: quỹ đạo của chúng khiến chúng có những thời gian di chuyển vào gần Trái Đất rồi sau đó lại rời xa (Morais và Morbidelli, 2002). Chúng là các giả vệ tinh – chúng không phải vệ tinh tự nhiên của Trái đất do không quay quanh Trái đất. Xem thêm các vệ tinh tự nhiên của Trái đất.
  2. Cấp sao biểu kiến trung bình của trăng tròn là khoảng −12,7, so với -26,8 của Mặt trời (Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.597-598). Trong lịch sử có những sao chổi đã được quan sát với độ sáng cao, ví dụ sao chổi 1882b đã được quan sát bằng mắt thường vào ban ngày ở cạnh Mặt trời (John Tebbutt, 1904, tr.133-134), tuy nhiên các hiện tượng này chỉ kéo dài vài giờ đến vài ngày. Trong tương lai, sao đỏ khổng lồ Betelgeuse sẽ bùng nổ thành siêu tân tinh với cấp sao biểu kiến gần bằng Mặt trăng, tối đa khoảng -12,4 trong vài tháng (Dolan và các tác giả khác, 2017, tr.7).
  3. Các thiên thể có khối lượng cỡ hành tinh là những thiên thể đủ lớn để trọng lực chiến thắng cường độ chịu nén của vật liệu cấu tạo nên thiên thể, khiến cho thiên thể ở trạng thái cân bằng thủy tĩnh và có hình dạng gần với hình cầu (Basri và Brown, 2006, tr.196), nhưng cũng không quá lớn để nén vật chất tại tâm đến trạng thái gây ra phản ứng nhiệt hạch (Basri và Brown, 2006, tr.199), hình thành nên ngôi sao. Dải khối lượng của hành tinh, do đó, vào cỡ từ mười phần nghìn khối lượng Trái đất (Basri và Brown, 2006, tr.199) đến dưới khối lượng sao lùn nâu khoảng vài chục khối lượng Sao mộc (Basri và Brown, 2006, tr.199).
  4. Charon có tỷ lệ kích thước so với Pluto lớn hơn, nhưng Pluto hiện nay không được xếp là hành tinh, mà được xếp loại là hành tinh lùn (Lowrie, 2007, tr.5).
  5. Chính xác hơn, chu kỳ quỹ đạo trung bình, so với nền sao xa, là 27,321661 ngày (27 ngày 07 giờ 43 phút 11,5 giây), và chu kỳ quỹ đạo nhiệt đới trung bình là 27,321582 ngày (27 ngày 07 giờ 43 phút 04,7 giây) (Explanatory Supplement to the Astronomical Ephemeris, 1961, tr.107).
  6. Chính xác hơn, chu kỳ giao hội trung bình của Mặt trăng là 29,530589 ngày (29 ngày 12 giờ 44 phút 02,9 giây) (Explanatory Supplement to the Astronomical Ephemeris, 1961, tr.107).
  7. Khoảng từ 18,29° đến 28,58° so với xích đạo Trái đất.[52]
  8. Giá trị lớn nhất được tính cho khoảng cách gần nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 350 600 km, dựa trên số liệu gốc là −12.74 ứng với khoảng cách từ xích đạo đến tâm Mặt trăng là 378 000 km theo tài liệu tra cứu của NASA. Giá trị nhỏ nhất (ứng với khoảng cách đến Mặt trăng mới) được tính giống như trên cho khoảng cách xa nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 407 000 km (theo tài liệu tra cứu của NASA) cộng thêm độ sáng do ánh sáng từ Trái đất chiếu lên Mặt trăng. Độ sáng do ánh sáng Trái đất gây ra được tính bằng công thức [ suất phản chiếu của Trái đất × (bán kính Trái đất / bán kính quỹ đạo Mặt trăng)2 ] × độ sáng trực tiếp do Mặt trời chiếu vào Mặt trăng tròn. Ở đây, suất phản chiếu của Trái đất = 0,367; bán kính Trái đất = (bán kính cực × bán kính xích đạo)½ = 6 367 km.
  9. Dải giá trị kích thước góc: giá trị lớn nhất ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng nhỏ nhất là 350 600 km, và giá trị nhỏ nhất ứng với khoảng cách trên lớn nhất là 407 000 km. Các giá trị này được suy ra từ giá trị 1896 giây cung ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng 378 000 km, theo tài liệu tra cứu của NASA.
  10. Lucey và các tác giả khác (2006) ghi giá trị 107 hạt cm−3 vào ban ngày và 105 hạt cm−3 vào ban đêm. Với nhiệt độ bề mặt ở xích đạo 390 K vào ban ngày và 100 K vào ban đêm, định luật khí lý tưởng cho ra áp suất được ghi ở hộp thông tin: 10−7 Pa vào ban ngày và 10−10 Pa vào ban đêm.

Tham khảo

  1. Lowrie, 2007, tr.8
  2. a b P. J. Stooke, Neolithic Lunar Maps at Knowth and Baltinglass, Ireland, Tạp chí Journal for the History of Astronomy, 1994, tr.39-55, Bibcode 1994JHA....25...39S
  3. a b c d e f Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, 1999, tr.223
  4. a b Ian Garrick-Bethell và các tác giả khác,The tidal-rotational shape of the Moon and evidence for polar wander, tạp chí Nature, 2014, số 512, quyển 7513, tr.181–184, DOI 10.1038/nature13639, pmid 25079322, Bibcode 2014Natur.512..181G, s2cid 4452886, ngày truy cập 9 tháng 12 năm 2020
  5. a b c Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.304
  6. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.309
  7. a b c d S. Mighani và các tác giả khác, The end of the lunar dynamo, tạp chí Science Advances, 2020, số 6, quyển 1, tr.eaax0883, DOI 10.1126/sciadv.aax0883, pmid 31911941, pmc 6938704, Bibcode 2020SciA....6..883M
  8. a b c A. Nemchin, Timing of crystallization of the lunar magma ocean constrained by the oldest zircon, tạp chí Nature Geoscience, 2009, số 2, quyển 2, tr.133–136, DOI 10.1038/ngeo417, Bibcode 2009NatGe...2..133N, hdl 20.500.11937/44375
  9. Brent Dalrymple, The age of the Earth in the twentieth century: a problem (mostly) solved, Xuất bản phẩm đặc biệt của Hội Địa lý Luân Đôn, 2001, số 190, quyển 1, tr.205–221, DOI 10.1144/GSL.SP.2001.190.01.14, Bibcode 2001GSLSP.190..205D, s2cid 130092094
  10. a b Taylor, G. Jeffrey (ngày 31 tháng 12 năm 1998), "Origin of the Earth and Moon", Planetary Science Research Discoveries, Hawai'i Institute of Geophysics and Planetology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 6 năm 2010, truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2010
  11. a b W. F. Bottke và các tác giả khác, Dating the Moon-forming impact event with asteroidal meteorites, tạp chí Science, 2015, số 348, tr.321-323, DOI 10.1126/science.aaa0602, truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2020
  12. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.123
  13. Zdenek Kopal, The Moon, 2012, tr.18, ISBN 9789401034081
  14. a b Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, 1999, tr.208-209
  15. a b c Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, 1999, tr.253
  16. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.125
  17. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.128
  18. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.19
  19. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.410, hình 12.2
  20. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.310-312
  21. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.303
  22. a b c d Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, 1999, tr.226
  23. a b c Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.314
  24. a b c d e f Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.309
  25. Stephen Corda, Introduction to Aerospace Engineering with a Flight Test Perspective, John Wiley & Sons, 2017, tr.47, ISBN 978-1-118-95336-5
  26. a b c d e Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.305-308
  27. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.120
  28. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.123
  29. a b c David Seed, Moon on the mind: two millennia of lunar literature, tạp chí Nature, số 571, quyển 7764, ngày 9 tháng 7 năm 2019, tr.172–173, DOI 10.1038/d41586-019-02090-w, truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2020
  30. Tamara M. Green, The City of the Moon God: Religious Traditions of Harran, Nhà xuất bản BRILL, 1992, ISBN 9789004095137, 232 trang
  31. Dana Mackenzie, The Big Splat, or How Our Moon Came to Be, nhà xuất bản John Wiley & Sons, 21 tháng 7 năm 2003, ISBN 978-0-471-48073-0, tr.166–168, ngày truy cập 9 tháng 12 năm 2020
  32. Maxwell M. Thiemens, Peter Sprung và các tác giả khác, Early Moon formation inferred from hafnium–tungsten systematics, Tạp chí Nature Geoscience, 2019, số 12, tr.696-700, DOI 10.1038/s41561-019-0398-3, ngày truy cập 17 tháng 10 năm 2020
  33. M. Barboni và các tác giả khác, Early formation of the Moon 4.51 billion years ago, tạp chí Science Advances, 2017, số 3, quyển 1, tr.e1602365, DOI 10.1126/sciadv.1602365, PMID 28097222, PMC 5226643, Bibcode 2017SciA....3E2365B
  34. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.320
  35. Binder, A.B. (1974), "On the origin of the Moon by rotational fission", The Moon, 11 (2): 53–76, Bibcode:1974Moon...11...53B, doi:10.1007/BF01877794, S2CID 122622374
  36. a b c d Stroud, Rick (2009), The Book of the Moon, Walken and Company, tr. 24–27, ISBN 978-0-8027-1734-4, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019
  37. Mitler, H.E. (1975), "Formation of an iron-poor moon by partial capture, or: Yet another exotic theory of lunar origin", Icarus, 24 (2): 256–268, Bibcode:1975Icar...24..256M, doi:10.1016/0019-1035(75)90102-5
  38. D.J. Stevenson, Origin of the moon–The collision hypothesis, tạp chí Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 1987, số 15, quyển 1, tr.271–315, Bibcode 1987AREPS..15..271S, DOI 10.1146/annurev.ea.15.050187.001415, s2cid 53516498, ngày truy cập 9 tháng 12 năm 20202
  39. Canup và Asphaug, Origin of the Moon in a giant impact near the end of Earth's formation, tạp chí Nature, 2001, số 412, quyển 6848, tr.708–712, DOI 10.1038/35089010, pmid 11507633, Bibcode 2001Natur.412..708C, s2cid 4413525
  40. Mathieu Touboul và các tác giả khác, Late formation and prolonged differentiation of the Moon inferred from W isotopes in lunar metals, tạp chí Nature, 2007, số 450, quyển 7173, tr.1206–1209, DOI 10.1038/nature06428, pmid 18097403, Bibcode 2007Natur.450.1206T, s2cid 4416259
  41. Mathieu Touboul và các tác giả khác, Tungsten isotopic evidence for disproportional late accretion to the Earth and Moon, tạp chí Nature, 2015, số 520, tr.530-533, PMID 25855299, DOI 10.1038/nature14355
  42. a b Alessandra Mastrobuono-Battisti1, Hagai Perets và Sean Raymond, A primordial origin for the compositional similarity between the Earth and the Moon, tạp chí Nature, 2015, số 520, tr.212–215, DOI 10.1038/nature14333
  43. a b Kaveh Pahlevan và David Stevenson, Equilibration in the Aftermath of the Lunar-forming Giant Impact, tạp chí Earth and Planetary Science Letters, tháng 10 năm 2007, số 262, quyển 3–4, tr.438–449, DOI 10.1016/j.epsl.2007.07.055, Bibcode 2007E&PSL.262..438P, arxiv 1012.5323, s2cid 53064179
  44. Nield, Ted (2009), "Moonwalk (summary of meeting at Meteoritical Society's 72nd Annual Meeting, Nancy, France)", Geoscientist, vol. 19, tr. 8, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 9 năm 2012
  45. a b Warren, The magma ocean concept and lunar evolution, tạp chí Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 1985, số 13, quyển 1, tr.201–240, Bibcode 1985AREPS..13..201W, DOI 10.1146/annurev.ea.13.050185.001221
  46. Brian Tonks và Jay Melosh, Magma ocean formation due to giant impacts, Journal of Geophysical Research, 1993, số 98, quyển E3, tr.5319–5333, Bibcode 1993JGR....98.5319T, DOI 10.1029/92JE02726
  47. Daniel Clery, Impact Theory Gets Whacked, tạp chí Science, 11 tháng 10 năm 2013, số 342, quyển 6155, tr.183–185, DOI 10.1126/science.342.6155.183, Bibcode 2013Sci...342..183C, pmid 24115419
  48. Wiechert và các tác giả khác, Oxygen Isotopes and the Moon-Forming Giant Impact, tạp chí Science, tháng 10 năm 2001, số 294, quyển 12, tr.345–348, DOI 10.1126/science.1063037, pmid 11598294, Bibcode 2001Sci...294..345W, s2cid 29835446
  49. Titanium Paternity Test Says Earth is the Moon's Only Parent (University of Chicago), Astrobio.net, ngày 5 tháng 4 năm 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 8 năm 2012, truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2013
  50. a b Richard Lovett, Early Earth may have had two moons : Nature News, Nature, 1 tháng 11 năm 2012, DOI 10.1038/news.2011.456
  51. Schubert, J. (2004), "Interior composition, structure, and dynamics of the Galilean satellites.", trong F. Bagenal; et al. (bt.), Jupiter: The Planet, Satellites, and Magnetosphere, Cambridge University Press, tr. 281–306, ISBN 978-0-521-81808-7
  52. a b c d e f g h i j k l Mark A. Wieczorek, Bradley L. Jolliff và các tác giả khác, The constitution and structure of the lunar interior, tạp chí Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 2006, số 60, quyển 1, tr.221–364, DOI 10.2138/rmg.2006.60.3, Bibcode 2006RvMG...60..221W, S2cid 130734866, ngày truy cập 9 tháng 12 năm 2020
  53. Williams, J.G.; Turyshev, S.G.; Boggs, D.H.; Ratcliff, J.T. (2006), "Lunar laser ranging science: Gravitational physics and lunar interior and geodesy", Advances in Space Research, 37 (1): 67–71, arXiv:gr-qc/0412049, Bibcode:2006AdSpR..37...67W, doi:10.1016/j.asr.2005.05.013, S2CID 14801321
  54. R.C. Weber và các tác giả khác, Seismic Detection of the Lunar Core, tạp chí Science, 21 tháng 1 năm 2011, số 331, quyển 6015, tr.309–312, DOI 10.1126/science.1199375, pmid 21212323, Bibcode 2011Sci...331..309W, s2cid 206530647, ngày truy cập 9 tháng 12 năm 2020
  55. a b Shearer, Charles K.; et al. (2006), "Thermal and magmatic evolution of the Moon", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 60 (1): 365–518, Bibcode:2006RvMG...60..365S, doi:10.2138/rmg.2006.60.4, S2CID 129184748, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  56. a b c Lucey và các tác giả khác 2006
  57. a b c d Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.310
  58. Taylor, Stuart R. (1975), Lunar Science: a Post-Apollo View, Oxford: Pergamon Press, tr. 64, ISBN 978-0-08-018274-2
  59. Spudis, Paul D.; Cook, A.; Robinson, M.; Bussey, B.; Fessler, B. (tháng 1 năm 1998), "Topography of the South Polar Region from Clementine Stereo Imaging", Workshop on New Views of the Moon: Integrated Remotely Sensed, Geophysical, and Sample Datasets: 69, Bibcode:1998nvmi.conf...69S
  60. a b c Spudis, Paul D.; Reisse, Robert A.; Gillis, Jeffrey J. (1994), "Ancient Multiring Basins on the Moon Revealed by Clementine Laser Altimetry", Science, 266 (5192): 1848–1851, Bibcode:1994Sci...266.1848S, doi:10.1126/science.266.5192.1848, PMID 17737079, S2CID 41861312
  61. Pieters, C.M.; Tompkins, S.; Head, J.W.; Hess, P.C. (1997), "Mineralogy of the Mafic Anomaly in the South Pole‐Aitken Basin: Implications for excavation of the lunar mantle", Geophysical Research Letters, 24 (15): 1903–1906, Bibcode:1997GeoRL..24.1903P, doi:10.1029/97GL01718, hdl:2060/19980018038
  62. Taylor, G.J. (ngày 17 tháng 7 năm 1998), "The Biggest Hole in the Solar System", Planetary Science Research Discoveries: 20, Bibcode:1998psrd.reptE..20T, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 8 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  63. Schultz, P.H. (tháng 3 năm 1997), "Forming the south-pole Aitken basin – The extreme games", Conference Paper, 28th Annual Lunar and Planetary Science Conference, 28: 1259, Bibcode:1997LPI....28.1259S
  64. Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, 1999, tr.225
  65. P. K. Seidelmann; B. A. Archinal; M. F. A’Hearn; D. P. Cruikshank (ngày 1 tháng 3 năm 2005), "Report of the IAU/IAG Working Group on Cartographic Coordinates and Rotational Elements: 2003", Celestial Mechanics and Dynamical Astronomy (trong tiếng Anh), 91 (3): 203–215, doi:10.1007/s10569-004-3115-4, ISSN 1572-9478, truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  66. "A Standardized Lunar Coordinate System for the Lunar Reconnaissance Orbiter and Lunar Datasets" (PDF), LRO Project and LGCWG White Paper (trong tiếng Anh): 13, tháng 10 năm 2008CS1 maint: unrecognized language (link)
  67. NASA's LRO Reveals 'Incredible Shrinking Moon', NASA, ngày 19 tháng 8 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 8 năm 2010
  68. Watters, Thomas R.; Weber, Renee C.; Collins, Geoffrey C.; Howley, Ian J.; Schmerr, Nicholas C.; Johnson, Catherine L. (tháng 6 năm 2019), "Shallow seismic activity and young thrust faults on the Moon", Nature Geoscience (xuất bản ngày 13 tháng 5 năm 2019), 12 (6): 411–417, Bibcode:2019NatGe..12..411W, doi:10.1038/s41561-019-0362-2, ISSN 1752-0894, S2CID 182137223
  69. Wlasuk, Peter (2000), Observing the Moon, Springer, tr. 19, ISBN 978-1-85233-193-1
  70. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.312
  71. Norman, M. (ngày 21 tháng 4 năm 2004), "The Oldest Moon Rocks", Planetary Science Research Discoveries, Hawai'i Institute of Geophysics and Planetology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 4 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  72. Head, L.W.J.W. (2003), "Lunar Gruithuisen and Mairan domes: Rheology and mode of emplacement", Journal of Geophysical Research, 108 (E2): 5012, Bibcode:2003JGRE..108.5012W, CiteSeerX 10.1.1.654.9619, doi:10.1029/2002JE001909, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 3 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  73. a b c d e f g Spudis, P.D. (2004), Moon, World Book Online Reference Center, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 3 tháng 7 năm 2013, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  74. Gillis, J.J.; Spudis, P.D. (1996), "The Composition and Geologic Setting of Lunar Far Side Maria", Lunar and Planetary Science, 27: 413, Bibcode:1996LPI....27..413G
  75. Lawrence; D.J.; et al. (ngày 11 tháng 8 năm 1998), "Global Elemental Maps of the Moon: The Lunar Prospector Gamma-Ray Spectrometer", Science, 281 (5382): 1484–1489, Bibcode:1998Sci...281.1484L, doi:10.1126/science.281.5382.1484, PMID 9727970, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 5 năm 2009, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  76. Taylor, G.J. (ngày 31 tháng 8 năm 2000), "A New Moon for the Twenty-First Century", Planetary Science Research Discoveries: 41, Bibcode:2000psrd.reptE..41T, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 1 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  77. a b Papike, J.; Ryder, G.; Shearer, C. (1998), "Lunar Samples", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 36: 5.1–5.234
  78. a b Hiesinger, H.; Head, J.W.; Wolf, U.; Jaumanm, R.; Neukum, G. (2003), "Ages and stratigraphy of mare basalts in Oceanus Procellarum, Mare Numbium, Mare Cognitum, and Mare Insularum", Journal of Geophysical Research, 108 (E7): 1029, Bibcode:2003JGRE..108.5065H, doi:10.1029/2002JE001985, S2CID 9570915, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  79. a b Phil Berardelli (ngày 9 tháng 11 năm 2006), "Long Live the Moon!", Science, lưu trữ từ nguyên tác ngày 18 tháng 10 năm 2014, truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014
  80. Jason Major (ngày 14 tháng 10 năm 2014), Volcanoes Erupted 'Recently' on the Moon, Discovery News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 10 năm 2014
  81. NASA Mission Finds Widespread Evidence of Young Lunar Volcanism, NASA, ngày 12 tháng 10 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015
  82. Eric Hand (ngày 12 tháng 10 năm 2014), "Recent volcanic eruptions on the moon", Science, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 10 năm 2014
  83. Braden, S.E.; Stopar, J.D.; Robinson, M.S.; Lawrence, S.J.; van der Bogert, C.H.; Hiesinger, H. (2014), "Evidence for basaltic volcanism on the Moon within the past 100 million years", Nature Geoscience, 7 (11): 787–791, Bibcode:2014NatGe...7..787B, doi:10.1038/ngeo2252
  84. Srivastava, N.; Gupta, R.P. (2013), "Young viscous flows in the Lowell crater of Orientale basin, Moon: Impact melts or volcanic eruptions?", Planetary and Space Science, 87: 37–45, Bibcode:2013P&SS...87...37S, doi:10.1016/j.pss.2013.09.001
  85. Gupta, R.P.; Srivastava, N.; Tiwari, R.K. (2014), "Evidences of relatively new volcanic flows on the Moon", Current Science, 107 (3): 454–460
  86. Whitten, J.; et al. (2011), "Lunar mare deposits associated with the Orientale impact basin: New insights into mineralogy, history, mode of emplacement, and relation to Orientale Basin evolution from Moon Mineralogy Mapper (M3) data from Chandrayaan-1", Journal of Geophysical Research, 116: E00G09, Bibcode:2011JGRE..116.0G09W, doi:10.1029/2010JE003736, S2CID 7234547, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  87. Cho, Y.; et al. (2012), "Young mare volcanism in the Orientale region contemporary with the Procellarum KREEP Terrane (PKT) volcanism peak period 2 b.y. ago", Geophysical Research Letters, 39 (11): L11203, Bibcode:2012GeoRL..3911203C, doi:10.1029/2012GL051838
  88. Munsell, K. (ngày 4 tháng 12 năm 2006), "Majestic Mountains", Solar System Exploration, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 9 năm 2008, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  89. Was our two-faced moon in a small collision?, Theconversation.edu.au, lưu trữ từ nguyên tác ngày 30 tháng 1 năm 2013, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2012
  90. Melosh, H. J. (1989), Impact cratering: A geologic process, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-504284-9
  91. "Moon Facts", SMART-1, European Space Agency, 2010, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2010
  92. a b Wilhelms, Don (1987), "Relative Ages" (PDF), Geologic History of the Moon, U.S. Geological Survey, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 11 tháng 6 năm 2010, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010
  93. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.315
  94. a b c d e f Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.316
  95. The Smell of Moondust, NASA, ngày 30 tháng 1 năm 2006, lưu trữ từ nguyên tác ngày 8 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2010
  96. Heiken, G. (1991), Vaniman, D.; French, B. (bt.), Lunar Sourcebook, a user's guide to the Moon, New York: Cambridge University Press, tr. 736, ISBN 978-0-521-33444-0, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2019
  97. Rasmussen, K.L.; Warren, P.H. (1985), "Megaregolith thickness, heat flow, and the bulk composition of the Moon", Nature, 313 (5998): 121–124, Bibcode:1985Natur.313..121R, doi:10.1038/313121a0, S2CID 4245137
  98. a b Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.319
  99. Hartmann, William K.; Quantin, Cathy; Mangold, Nicolas (2007), "Possible long-term decline in impact rates: 2. Lunar impact-melt data regarding impact history", Icarus, 186 (1): 11–23, Bibcode:2007Icar..186...11H, doi:10.1016/j.icarus.2006.09.009
  100. a b Boyle, Rebecca, The moon has hundreds more craters than we thought, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 13 tháng 10 năm 2016
  101. Speyerer, Emerson J.; Povilaitis, Reinhold Z.; Robinson, Mark S.; Thomas, Peter C.; Wagner, Robert V. (ngày 13 tháng 10 năm 2016), "Quantifying crater production and regolith overturn on the Moon with temporal imaging", Nature, 538 (7624): 215–218, Bibcode:2016Natur.538..215S, doi:10.1038/nature19829, PMID 27734864, S2CID 4443574
  102. Fraknoi, Morrison và Wolff, 2016, tr.311
  103. Margot, J.L.; Campbell, D.B.; Jurgens, R.F.; Slade, M.A. (ngày 4 tháng 6 năm 1999), "Topography of the Lunar Poles from Radar Interferometry: A Survey of Cold Trap Locations" (PDF), Science, 284 (5420): 1658–1660, Bibcode:1999Sci...284.1658M, CiteSeerX 10.1.1.485.312, doi:10.1126/science.284.5420.1658, PMID 10356393, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017, truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017
  104. Ward, William R. (ngày 1 tháng 8 năm 1975), "Past Orientation of the Lunar Spin Axis", Science, 189 (4200): 377–379, Bibcode:1975Sci...189..377W, doi:10.1126/science.189.4200.377, PMID 17840827, S2CID 21185695
  105. a b Martel, L.M.V. (ngày 4 tháng 6 năm 2003), "The Moon's Dark, Icy Poles", Planetary Science Research Discoveries: 73, Bibcode:2003psrd.reptE..73M, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  106. Seedhouse, Erik (2009), Lunar Outpost: The Challenges of Establishing a Human Settlement on the Moon, Springer-Praxis Books in Space Exploration, Germany: Springer Praxis, tr. 136, ISBN 978-0-387-09746-6
  107. Coulter, Dauna (ngày 18 tháng 3 năm 2010), The Multiplying Mystery of Moonwater, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 13 tháng 12 năm 2012, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  108. Spudis, P. (ngày 6 tháng 11 năm 2006), Ice on the Moon, The Space Review, lưu trữ từ nguyên tác ngày 22 tháng 2 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  109. Feldman, W.C.; S. Maurice; A.B. Binder; B.L. Barraclough; R.C. Elphic; D.J. Lawrence (1998), "Fluxes of Fast and Epithermal Neutrons from Lunar Prospector: Evidence for Water Ice at the Lunar Poles" (PDF), Science, 281 (5382): 1496–1500, Bibcode:1998Sci...281.1496F, doi:10.1126/science.281.5382.1496, PMID 9727973, S2CID 9005608, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 2 năm 2019, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020
  110. Saal, Alberto E.; Hauri, Erik H.; Cascio, Mauro L.; van Orman, James A.; Rutherford, Malcolm C.; Cooper, Reid F. (2008), "Volatile content of lunar volcanic glasses and the presence of water in the Moon's interior", Nature, 454 (7201): 192–195, Bibcode:2008Natur.454..192S, doi:10.1038/nature07047, PMID 18615079, S2CID 4394004
  111. Pieters, C.M.; Goswami, J.N.; Clark, R.N.; Annadurai, M.; Boardman, J.; Buratti, B.; Combe, J.-P.; Dyar, M.D.; Green, R.; Head, J.W.; Hibbitts, C.; Hicks, M.; Isaacson, P.; Klima, R.; Kramer, G.; Kumar, S.; Livo, E.; Lundeen, S.; Malaret, E.; McCord, T.; Mustard, J.; Nettles, J.; Petro, N.; Runyon, C.; Staid, M.; Sunshine, J.; Taylor, L.A.; Tompkins, S.; Varanasi, P. (2009), "Character and Spatial Distribution of OH/H2O on the Surface of the Moon Seen by M3 on Chandrayaan-1", Science, 326 (5952): 568–572, Bibcode:2009Sci...326..568P, doi:10.1126/science.1178658, PMID 19779151, S2CID 447133, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  112. Lakdawalla, Emily (ngày 13 tháng 11 năm 2009), LCROSS Lunar Impactor Mission: "Yes, We Found Water!", The Planetary Society, lưu trữ từ nguyên tác ngày 22 tháng 1 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  113. Colaprete, A.; Ennico, K.; Wooden, D.; Shirley, M.; Heldmann, J.; Marshall, W.; Sollitt, L.; Asphaug, E.; Korycansky, D.; Schultz, P.; Hermalyn, B.; Galal, K.; Bart, G.D.; Goldstein, D.; Summy, D. (ngày 1–5 tháng 3 năm 2010), "Water and More: An Overview of LCROSS Impact Results", 41st Lunar and Planetary Science Conference, 41 (1533): 2335, Bibcode:2010LPI....41.2335CCS1 maint: date format (link)
  114. Colaprete, Anthony; Schultz, Peter; Heldmann, Jennifer; Wooden, Diane; Shirley, Mark; Ennico, Kimberly; Hermalyn, Brendan; Marshall, William; Ricco, Antonio; Elphic, Richard C.; Goldstein, David; Summy, Dustin; Bart, Gwendolyn D.; Asphaug, Erik; Korycansky, Don; Landis, David; Sollitt, Luke (ngày 22 tháng 10 năm 2010), "Detection of Water in the LCROSS Ejecta Plume", Science, 330 (6003): 463–468, Bibcode:2010Sci...330..463C, doi:10.1126/science.1186986, PMID 20966242, S2CID 206525375, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  115. Hauri, Erik; Thomas Weinreich; Albert E. Saal; Malcolm C. Rutherford; James A. Van Orman (ngày 26 tháng 5 năm 2011), "High Pre-Eruptive Water Contents Preserved in Lunar Melt Inclusions", Science Express, 10 (1126): 213–215, Bibcode:2011Sci...333..213H, doi:10.1126/science.1204626, PMID 21617039, S2CID 44437587, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  116. a b Rincon, Paul (ngày 21 tháng 8 năm 2018), "Water ice 'detected on Moon's surface'", BBC News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2018
  117. David, Leonard, "Beyond the Shadow of a Doubt, Water Ice Exists on the Moon", Scientific American, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2018
  118. Li, Shuai; Lucey, Paul G.; Milliken, Ralph E.; Hayne, Paul O.; Fisher, Elizabeth; Williams, Jean-Pierre; Hurley, Dana M.; Elphic, Richard C. (tháng 8 năm 2018), "Direct evidence of surface exposed water ice in the lunar polar regions", Proceedings of the National Academy of Sciences, 115 (36): 8907–8912, Bibcode:2018PNAS..115.8907L, doi:10.1073/pnas.1802345115, PMC 6130389, PMID 30126996
  119. a b "Water Ice Confirmed on the Surface of the Moon for the 1st Time!", Space.com, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2018
  120. Honniball, C.I.; et al. (ngày 26 tháng 10 năm 2020), "Molecular water detected on the sunlit Moon by SOFIA", Nature Astronomy, doi:10.1038/s41550-020-01222-x, truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020
  121. Hayne, P.O.; et al. (ngày 26 tháng 10 năm 2020), "Micro cold traps on the Moon", Nature Astronomy, doi:10.1038/s41550-020-1198-9, truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020
  122. Guarino, Ben; Achenbach, Joel (ngày 26 tháng 10 năm 2020), "Pair of studies confirm there is water on the moon - New research confirms what scientists had theorized for years — the moon is wet.", The Washington Post, truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020
  123. Chang, Kenneth (ngày 26 tháng 10 năm 2020), "There's Water and Ice on the Moon, and in More Places Than NASA Once Thought - Future astronauts seeking water on the moon may not need to go into the most treacherous craters in its polar regions to find it.", The New York Times, truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2020
  124. Muller, P.; Sjogren, W. (1968), "Mascons: lunar mass concentrations", Science, 161 (3842): 680–684, Bibcode:1968Sci...161..680M, doi:10.1126/science.161.3842.680, PMID 17801458, S2CID 40110502
  125. Richard A. Kerr (ngày 12 tháng 4 năm 2013), "The Mystery of Our Moon's Gravitational Bumps Solved?", Science, 340 (6129): 138–139, doi:10.1126/science.340.6129.138-a, PMID 23580504
  126. Konopliv, A.; Asmar, S.; Carranza, E.; Sjogren, W.; Yuan, D. (2001), "Recent gravity models as a result of the Lunar Prospector mission" (PDF), Icarus, 50 (1): 1–18, Bibcode:2001Icar..150....1K, CiteSeerX 10.1.1.18.1930, doi:10.1006/icar.2000.6573, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 13 tháng 11 năm 2004
  127. Garrick-Bethell, Ian; Weiss, iBenjamin P.; Shuster, David L.; Buz, Jennifer (2009), "Early Lunar Magnetism", Science, 323 (5912): 356–359, Bibcode:2009Sci...323..356G, doi:10.1126/science.1166804, PMID 19150839, S2CID 23227936, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  128. Magnetometer / Electron Reflectometer Results, Lunar Prospector (NASA), 2001, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  129. Hood, L.L.; Huang, Z. (1991), "Formation of magnetic anomalies antipodal to lunar impact basins: Two-dimensional model calculations", Journal of Geophysical Research, 96 (B6): 9837–9846, Bibcode:1991JGR....96.9837H, doi:10.1029/91JB00308
  130. Ruth Globus, biên tập bởi Richard D. Johnson và Charles Holbrow, Space Settlements: A Design Study, Chương 5, Phụ lục J: Impact Upon Lunar Atmosphere, xuất bản bởi NASA, 1977
  131. Crotts, Arlin P.S. (2008), "Lunar Outgassing, Transient Phenomena and The Return to The Moon, I: Existing Data" (PDF), The Astrophysical Journal, 687 (1): 692–705, arXiv:0706.3949, Bibcode:2008ApJ...687..692C, doi:10.1086/591634, S2CID 16821394, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 20 tháng 2 năm 2009, truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2009
  132. Steigerwald, William (ngày 17 tháng 8 năm 2015), "NASA's LADEE Spacecraft Finds Neon in Lunar Atmosphere", NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2015, truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015
  133. a b c Stern, S.A. (1999), "The Lunar atmosphere: History, status, current problems, and context", Reviews of Geophysics, 37 (4): 453–491, Bibcode:1999RvGeo..37..453S, CiteSeerX 10.1.1.21.9994, doi:10.1029/1999RG900005
  134. Lawson, S.; Feldman, W.; Lawrence, D.; Moore, K.; Elphic, R.; Belian, R. (2005), "Recent outgassing from the lunar surface: the Lunar Prospector alpha particle spectrometer", Journal of Geophysical Research, 110 (E9): 1029, Bibcode:2005JGRE..11009009L, doi:10.1029/2005JE002433
  135. R. Sridharan; S.M. Ahmed; Tirtha Pratim Dasa; P. Sreelathaa; P. Pradeepkumara; Neha Naika; Gogulapati Supriya (2010), "'Direct' evidence for water (H2O) in the sunlit lunar ambience from CHACE on MIP of Chandrayaan I", Planetary and Space Science, 58 (6): 947–950, Bibcode:2010P&SS...58..947S, doi:10.1016/j.pss.2010.02.013
  136. Drake, Nadia; 17, National Geographic PUBLISHED June (ngày 17 tháng 6 năm 2015), "Lopsided Cloud of Dust Discovered Around the Moon", National Geographic News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 6 năm 2015, truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2015CS1 maint: numeric names: authors list (link)
  137. Horányi, M.; Szalay, J.R.; Kempf, S.; Schmidt, J.; Grün, E.; Srama, R.; Sternovsky, Z. (ngày 18 tháng 6 năm 2015), "A permanent, asymmetric dust cloud around the Moon", Nature, 522 (7556): 324–326, Bibcode:2015Natur.522..324H, doi:10.1038/nature14479, PMID 26085272, S2CID 4453018
  138. NASA: The Moon Once Had an Atmosphere That Faded Away, Time, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017, truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017
  139. Hamilton, Calvin J.; Hamilton, Rosanna L., The Moon, Views of the Solar System Lưu trữ 4 tháng 2 2016 tại Wayback Machine, 1995–2011.
  140. a b Amos, Jonathan (ngày 16 tháng 12 năm 2009), "'Coldest place' found on the Moon", BBC News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017, truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2010
  141. Diviner News, UCLA, ngày 17 tháng 9 năm 2009, lưu trữ từ nguyên tác ngày 7 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  142. Rocheleau, Jake (ngày 21 tháng 5 năm 2012), Temperature on the Moon – Surface Temperature of the Moon – PlanetFacts.org, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 5 năm 2015
  143. Bell, Trudy E.; Phillips, Tony (ngày 7 tháng 12 năm 2005), Moon Storms, NASA
  144. Haigh, I. D.; Eliot, M.; Pattiaratchi, C. (2011), "Global influences of the 18.61 year nodal cycle and 8.85 year cycle of lunar perigee on high tidal levels" (PDF), J. Geophys. Res., 116 (C6): C06025, Bibcode:2011JGRC..116.6025H, doi:10.1029/2010JC006645, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 12 năm 2019, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2019CS1 maint: uses authors parameter (link)
  145. V V Belet︠s︡kiĭ (2001), Essays on the Motion of Celestial Bodies, Birkhäuser, tr. 183, ISBN 978-3-7643-5866-2
  146. Space Topics: Pluto and Charon, The Planetary Society, lưu trữ từ nguyên tác ngày 18 tháng 2 năm 2012, truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010
  147. Phil Plait, Dark Side of the Moon, Bad Astronomy: Misconceptions, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010
  148. Alexander, M.E. (1973), "The Weak Friction Approximation and Tidal Evolution in Close Binary Systems", Astrophysics and Space Science, 23 (2): 459–508, Bibcode:1973Ap&SS..23..459A, doi:10.1007/BF00645172, S2CID 122918899
  149. "Moon used to spin 'on different axis'", BBC News, BBC, ngày 23 tháng 3 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2016
  150. Luciuk, Mike, How Bright is the Moon?, Amateur Astronomers, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2010
  151. Hershenson, Maurice (1989), The Moon illusion, Routledge, tr. 5, ISBN 978-0-8058-0121-7
  152. Spekkens, K. (ngày 18 tháng 10 năm 2002), Is the Moon seen as a crescent (and not a "boat") all over the world?, Curious About Astronomy, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 10 năm 2015, truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015
  153. "Moonlight helps plankton escape predators during Arctic winters", New Scientist, ngày 16 tháng 1 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016
  154. Supermoon November 2016, Space.com, ngày 13 tháng 11 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 11 năm 2016, truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016
  155. Tony Phillips (ngày 16 tháng 3 năm 2011), Super Full Moon, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 7 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  156. Richard K. De Atley (ngày 18 tháng 3 năm 2011), "Full moon tonight is as close as it gets", The Press-Enterprise, lưu trữ từ nguyên tác ngày 22 tháng 3 năm 2011, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  157. "'Super moon' to reach closest point for almost 20 years", The Guardian, ngày 19 tháng 3 năm 2011, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  158. Georgia State University, Dept. of Physics (Astronomy), "Perceived Brightness", Brightnes and Night/Day Sensitivity, Georgia State University, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 2 năm 2014, truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2014
  159. Lutron, "Measured light vs. perceived light" (PDF), From IES Lighting Handbook 2000, 27-4, Lutron, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 2 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2014
  160. Walker, John (tháng 5 năm 1997), "Inconstant Moon", Earth and Moon Viewer, Fourth paragraph of "How Bright the Moonlight": Fourmilab, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2014, 14% [...] due to the logarithmic response of the human eye.
  161. Taylor, G.J. (ngày 8 tháng 11 năm 2006), "Recent Gas Escape from the Moon", Planetary Science Research Discoveries: 110, Bibcode:2006psrd.reptE.110T, lưu trữ từ nguyên tác ngày 4 tháng 3 năm 2007, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2007
  162. Schultz, P.H.; Staid, M.I.; Pieters, C.M. (2006), "Lunar activity from recent gas release", Nature, 444 (7116): 184–186, Bibcode:2006Natur.444..184S, doi:10.1038/nature05303, PMID 17093445, S2CID 7679109
  163. 22 Degree Halo: a ring of light 22 degrees from the sun or moon, Department of Atmospheric Sciences, University of Illinois at Urbana–Champaign, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  164. a b c d e Lambeck, K. (1977), "Tidal Dissipation in the Oceans: Astronomical, Geophysical and Oceanographic Consequences", Philosophical Transactions of the Royal Society A, 287 (1347): 545–594, Bibcode:1977RSPTA.287..545L, doi:10.1098/rsta.1977.0159, S2CID 122853694
  165. Le Provost, C.; Bennett, A.F.; Cartwright, D.E. (1995), "Ocean Tides for and from TOPEX/POSEIDON", Science, 267 (5198): 639–642, Bibcode:1995Sci...267..639L, doi:10.1126/science.267.5198.639, PMID 17745840, S2CID 13584636
  166. a b c d Touma, Jihad; Wisdom, Jack (1994), "Evolution of the Earth-Moon system", The Astronomical Journal, 108 (5): 1943–1961, Bibcode:1994AJ....108.1943T, doi:10.1086/117209
  167. Chapront, J.; Chapront-Touzé, M.; Francou, G. (2002), "A new determination of lunar orbital parameters, precession constant and tidal acceleration from LLR measurements" (PDF), Astronomy and Astrophysics, 387 (2): 700–709, Bibcode:2002A&A...387..700C, doi:10.1051/0004-6361:20020420, S2CID 55131241, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 4 năm 2020, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020
  168. "Why the Moon is getting further away from Earth", BBC News, ngày 1 tháng 2 năm 2011, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2015
  169. Ray, R. (ngày 15 tháng 5 năm 2001), Ocean Tides and the Earth's Rotation, IERS Special Bureau for Tides, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  170. Murray, C.D.; Dermott, Stanley F. (1999), Solar System Dynamics, Cambridge University Press, tr. 184, ISBN 978-0-521-57295-8
  171. Dickinson, Terence (1993), From the Big Bang to Planet X, Camden East, Ontario: Camden House, tr. 79–81, ISBN 978-0-921820-71-0
  172. Latham, Gary; Ewing, Maurice; Dorman, James; Lammlein, David; Press, Frank; Toksőz, Naft; Sutton, George; Duennebier, Fred; Nakamura, Yosio (1972), "Moonquakes and lunar tectonism", Earth, Moon, and Planets, 4 (3–4): 373–382, Bibcode:1972Moon....4..373L, doi:10.1007/BF00562004, S2CID 120692155
  173. Espenak, F. (2000), Solar Eclipses for Beginners, MrEclip]], lưu trữ từ nguyên tác ngày 24 tháng 5 năm 2015, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  174. Walker, John (ngày 10 tháng 7 năm 2004), Moon near Perigee, Earth near Aphelion, Fourmilab, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013
  175. Thieman, J.; Keating, S. (ngày 2 tháng 5 năm 2006), Eclipse 99, Frequently Asked Questions, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 11 tháng 2 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  176. Espenak, F., Saros Cycle, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 24 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  177. Guthrie, D.V. (1947), "The Square Degree as a Unit of Celestial Area", Popular Astronomy, vol. 55, tr. 200–203, Bibcode:1947PA.....55..200G
  178. Total Lunar Occultations, Royal Astronomical Society of New Zealand, lưu trữ từ nguyên tác ngày 23 tháng 2 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  179. Aaboe, A.; Britton, J.P.; Henderson, J.A.; Neugebauer, Otto; Sachs, A.J. (1991), "Saros Cycle Dates and Related Babylonian Astronomical Texts", Transactions of the American Philosophical Society, 81 (6): 1–75, doi:10.2307/1006543, JSTOR 1006543, One comprises what we have called "Saros Cycle Texts", which give the months of eclipse possibilities arranged in consistent cycles of 223 months (or 18 years).
  180. Sarma, K.V. (2008), Helaine Selin (bt.), "Encyclopaedia of the History of Science, Technology, and Medicine in Non-Western Cultures", Encyclopaedia of the History of Science (lxb. 2), Springer: 317–321, Bibcode:2008ehst.book.....S, ISBN 978-1-4020-4559-2 Bỏ qua |contribution= (trợ giúp)
  181. a b c d Needham, Joseph (1986), Science and Civilization in China, Volume III: Mathematics and the Sciences of the Heavens and Earth, Taipei: Caves Books, ISBN 978-0-521-05801-8
  182. O'Connor, J.J.; Robertson, E.F. (tháng 2 năm 1999), Anaxagoras of Clazomenae, University of St Andrews, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 1 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  183. Robertson, E.F. (tháng 11 năm 2000), Aryabhata the Elder, Scotland: School of Mathematics and Statistics, Đại học Thánh Andrews, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 7 năm 2015, truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2010
  184. A.I. Sabra (2008), "Ibn Al-Haytham, Abū ʿAlī Al-Ḥasan Ibn Al-Ḥasan", Dictionary of Scientific Biography, Detroit: Charles Scribner's Sons, tr. 189–210, at 195
  185. Lewis, C.S. (1964), The Discarded Image, Cambridge: Cambridge University Press, tr. 108, ISBN 978-0-521-47735-2, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019
  186. van der Waerden, Bartel Leendert (1987), "The Heliocentric System in Greek, Persian and Hindu Astronomy", Annals of the New York Academy of Sciences, 500 (1): 1–569, Bibcode:1987NYASA.500....1A, doi:10.1111/j.1749-6632.1987.tb37193.x, PMID 3296915
  187. Evans, James (1998), The History and Practice of Ancient Astronomy, Oxford & New York: Oxford University Press, tr. 71, 386, ISBN 978-0-19-509539-5
  188. "Discovering How Greeks Computed in 100 B.C.", The New York Times, ngày 31 tháng 7 năm 2008, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2014
  189. Van Helden, A. (1995), The Moon, Dự án Galileo, lưu trữ từ nguyên tác ngày 23 tháng 6 năm 2004, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  190. Ewen A. Whitaker, Mapping and Naming the Moon: A History of Lunar Cartography and Nomenclature, Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2003, ISBN 978-0-521-54414-6
  191. Consolmagno, Guy J. (1996), "Astronomy, Science Fiction and Popular Culture: 1277 to 2001 (And beyond)", Leonardo, 29 (2): 127–132, doi:10.2307/1576348, JSTOR 1576348, S2CID 41861791
  192. Hall, R. Cargill (1977), "Appendix A: Lunar Theory Before 1964", NASA History Series. Lunar Impact: A History of Project Ranger., Washington, DC: Scientific and Technical Information Office, NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  193. Zak, Anatoly (2009), Russia's unmanned missions toward the Moon, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2010
  194. Rocks and Soils from the Moon, NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010
  195. Coren, M. (ngày 26 tháng 7 năm 2004), 'Giant leap' opens world of possibility, CNN, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 1 năm 2012, truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2010
  196. "Record of Lunar Events, 24 July 1969", Apollo 11 30th anniversary, NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  197. Manned Space Chronology: Apollo_11, Spaceline.org, lưu trữ từ nguyên tác ngày 14 tháng 2 năm 2008, truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008
  198. "Apollo Anniversary: Moon Landing "Inspired World"", National Geographic, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 9 tháng 2 năm 2008, truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2008
  199. Orloff, Richard W. (tháng 9 năm 2004) [First published 2000], "Apollo by the Numbers: A Statistical Reference", NASA History Division, Office of Policy and Plans, The NASA History Series, Washington, DC: NASA, ISBN 978-0-16-050631-4, LCCN 00061677, NASA SP-2000-4029, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 6 tháng 6 năm 2013, truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2013 Bỏ qua |chapter= (trợ giúp)
  200. NASA news release 77-47 page 242 (PDF), ngày 1 tháng 9 năm 1977, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011, truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2010
  201. Appleton, James; Radley, Charles; Deans, John; Harvey, Simon; Burt, Paul; Haxell, Michael; Adams, Roy; Spooner N.; Brieske, Wayne (1977), NASA Turns A Deaf Ear To The Moon, OASI Newsletters Archive, lưu trữ từ nguyên tác ngày 10 tháng 12 năm 2007, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2007
  202. Dickey, J.; et al. (1994), "Lunar laser ranging: a continuing legacy of the Apollo program", Science, 265 (5171): 482–490, Bibcode:1994Sci...265..482D, doi:10.1126/science.265.5171.482, PMID 17781305, S2CID 10157934, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  203. Hiten-Hagomoro, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 14 tháng 6 năm 2011, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  204. Clementine information, NASA, 1994, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 9 năm 2010, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  205. Lunar Prospector: Neutron Spectrometer, NASA, 2001, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  206. SMART-1 factsheet, Cơ quan Vũ trụ châu Âu, ngày 26 tháng 2 năm 2007, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  207. China's first lunar probe ends mission, Xinhua, ngày 1 tháng 3 năm 2009, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 3 năm 2009, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  208. KAGUYA Mission Profile, JAXA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 28 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  209. KAGUYA (SELENE) World's First Image Taking of the Moon by HDTV, Japan Aerospace Exploration Agency (JAXA) and Japan Broadcasting Corporation (NHK), ngày 7 tháng 11 năm 2007, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  210. Mission Sequence, Indian Space Research Organisation, ngày 17 tháng 11 năm 2008, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 6 tháng 7 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  211. Indian Space Research Organisation: Future Program, Indian Space Research Organisation, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 11 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  212. India and Russia Sign an Agreement on Chandrayaan-2, Indian Space Research Organisation, ngày 14 tháng 11 năm 2007, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 12 năm 2007, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  213. Lunar CRater Observation and Sensing Satellite (LCROSS): Strategy & Astronomer Observation Campaign, NASA, tháng 10 năm 2009, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 1 năm 2012, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  214. Chang, Alicia (ngày 26 tháng 12 năm 2011), "Twin probes to circle moon to study gravity field", Phys.org, Associated Press, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 22 tháng 7 năm 2018, truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2018
  215. Covault, C. (ngày 4 tháng 6 năm 2006), "Russia Plans Ambitious Robotic Lunar Mission", Aviation Week, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 6 năm 2006, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  216. About the Google Lunar X Prize, X-Prize Foundation, 2010, lưu trữ từ nguyên tác ngày 28 tháng 2 năm 2010, truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010
  217. "An Important Update From Google Lunar XPRIZE", Google Lunar XPRIZE, ngày 23 tháng 1 năm 2018, lưu trữ từ nguyên tác ngày 24 tháng 1 năm 2018, truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2018
  218. Wall, Mike (ngày 14 tháng 1 năm 2011), Mining the Moon's Water: Q&A with Shackleton Energy's Bill Stone, Space News
  219. "Moon Express Approved for Private Lunar Landing in 2017, a Space First", Space.com, lưu trữ từ nguyên tác ngày 12 tháng 7 năm 2017, truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2017
  220. SpaceX to help Vodafone and Nokia install first 4G signal on the Moon | The Week UK, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018
  221. Chang, Kenneth (ngày 29 tháng 11 năm 2018), "NASA's Return to the Moon to Start With Private Companies' Spacecraft", The New York Times (trong English), The New York Times Company, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 1 tháng 12 năm 2018, truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2018
  222. Andrew Jones (ngày 23 tháng 9 năm 2020), China's Chang'e 3 lunar lander still going strong after 7 years on the moon, truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2020
  223. Takahashi, Yuki (tháng 9 năm 1999), Mission Design for Setting up an Optical Telescope on the Moon, California Institute of Technology, lưu trữ từ nguyên tác ngày 6 tháng 11 năm 2015, truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011
  224. Chandler, David (ngày 15 tháng 2 năm 2008), "MIT to lead development of new telescopes on moon", MIT News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 3 năm 2009, truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011
  225. Naeye, Robert (ngày 6 tháng 4 năm 2008), NASA Scientists Pioneer Method for Making Giant Lunar Telescopes, Goddard Space Flight Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 22 tháng 12 năm 2010, truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011
  226. Bell, Trudy (ngày 9 tháng 10 năm 2008), "Liquid Mirror Telescopes on the Moon", Science News, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 23 tháng 3 năm 2011, truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011
  227. a b Leonard David (ngày 21 tháng 10 năm 2019), Moon Dust Could Be a Problem for Future Lunar Explorers, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020
  228. Zheng, William (ngày 15 tháng 1 năm 2019), "Chinese lunar lander's cotton seeds spring to life on far side of the moon", South China Morning Post, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020
  229. a b Can any State claim a part of outer space as its own?, United Nations Office for Outer Space Affairs, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  230. How many States have signed and ratified the five international treaties governing outer space?, United Nations Office for Outer Space Affairs, ngày 1 tháng 1 năm 2006, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  231. Do the five international treaties regulate military activities in outer space?, United Nations Office for Outer Space Affairs, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  232. Agreement Governing the Activities of States on the Moon and Other Celestial Bodies, United Nations Office for Outer Space Affairs, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 9 tháng 8 năm 2010, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  233. The treaties control space-related activities of States. What about non-governmental entities active in outer space, like companies and even individuals?, United Nations Office for Outer Space Affairs, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  234. Statement by the Board of Directors of the IISL On Claims to Property Rights Regarding The Moon and Other Celestial Bodies (2004) (PDF), International Institute of Space Law, 2004, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 22 tháng 12 năm 2009, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  235. Further Statement by the Board of Directors of the IISL On Claims to Lunar Property Rights (2009) (PDF), International Institute of Space Law, ngày 22 tháng 3 năm 2009, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 22 tháng 12 năm 2009, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  236. a b c Nemet-Nejat, Karen Rhea (1998), Daily Life in Ancient Mesopotamia, Daily Life, Greenwood, tr. 203, ISBN 978-0-313-29497-6, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019
  237. a b c d Black, Jeremy; Green, Anthony (1992), Gods, Demons and Symbols of Ancient Mesopotamia: An Illustrated Dictionary, The British Museum Press, tr. 135, ISBN 978-0-7141-1705-8, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017
  238. a b c d Dexter, Miriam Robbins (1984), "Proto-Indo-European Sun Maidens and Gods of the Moon", Mankind Quarterly, 25 (1 & 2): 137–144
  239. a b La Lune, du voyage réel aux voyages imaginaires - Guide d'exposition (PDF) (trong tiếng Pháp), 2019CS1 maint: unrecognized language (link)
  240. a b Explained: The crescent in ‘Islamic’ flags (trong tiếng Anh), The Indian Express, ngày 25 tháng 7 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  241. Zschietzschmann, W. (2006), Hellas and Rome: The Classical World in Pictures, Whitefish, Montana: Kessinger Publishing, tr. 23, ISBN 978-1-4286-5544-7CS1 maint: ref=harv (link)
  242. Cohen, Beth (2006), "Outline as a Special Technique in Black- and Red-figure Vase-painting", The Colors of Clay: Special Techniques in Athenian Vases, Los Angeles: Getty Publications, tr. 178–179, ISBN 978-0-89236-942-3, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020CS1 maint: ref=harv (link)
  243. Marshack, Alexander (1991), The Roots of Civilization, Colonial Hill, Mount Kisco, NY.
  244. Brooks, A.S. and Smith, C.C. (1987): "Ishango revisited: new age determinations and cultural interpretations", The African Archaeological Review, 5 : 65–78.
  245. Duncan, David Ewing (1998), The Calendar, Fourth Estate Ltd., tr. 10–11, ISBN 978-1-85702-721-1
  246. For etymology, see Barnhart, Robert K. (1995), The Barnhart Concise Dictionary of Etymology, Harper Collins, tr. 487, ISBN 978-0-06-270084-1. For the lunar calendar of the Germanic peoples, see Birley, A. R. (Trans.) (1999), Agricola and Germany, Oxford World's Classics, US: Oxford University Press, tr. 108, ISBN 978-0-19-283300-6, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2019
  247. Mallory, J.P.; Adams, D.Q. (2006), The Oxford Introduction to Proto-Indo-European and the Proto-Indo-European World, Oxford Linguistics, Nhà xuất bản Đại học Oxford, tr. 98, 128, 317, ISBN 978-0-19-928791-8
  248. Smith, William George (1849), Dictionary of Greek and Roman Biography and Mythology: Oarses-Zygia, 3, J. Walton, tr. 768, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 26 tháng 11 năm 2020, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  249. Estienne, Henri (1846), Thesaurus graecae linguae, 5, Didot, tr. 1001, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 28 tháng 7 năm 2020, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010
  250. Islamic Calendars based on the Calculated First Visibility of the Lunar Crescent, University of Utrecht, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 1 năm 2014, truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014
  251. a b Lilienfeld, Scott O.; Arkowitz, Hal (2009), "Lunacy and the Full Moon", Scientific American, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 10 năm 2009, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  252. Rotton, James; Kelly, I.W. (1985), "Much ado about the full moon: A meta-analysis of lunar-lunacy research", Psychological Bulletin, 97 (2): 286–306, doi:10.1037/0033-2909.97.2.286, PMID 3885282
  253. Martens, R.; Kelly, I.W.; Saklofske, D.H. (1988), "Lunar Phase and Birthrate: A 50-year Critical Review", Psychological Reports, 63 (3): 923–934, doi:10.2466/pr0.1988.63.3.923, PMID 3070616, S2CID 34184527
  254. Kelly, Ivan; Rotton, James; Culver, Roger (1986), "The Moon Was Full and Nothing Happened: A Review of Studies on the Moon and Human Behavior", Skeptical Inquirer, 10 (2): 129–143. Reprinted in The Hundredth Monkey - and other paradigms of the paranormal, edited by Kendrick Frazier, Prometheus Books. Revised and updated in The Outer Edge: Classic Investigations of the Paranormal, edited by Joe Nickell, Barry Karr, and Tom Genoni, 1996, CSICOP.
  255. Foster, Russell G.; Roenneberg, Till (2008), "Human Responses to the Geophysical Daily, Annual and Lunar Cycles", Current Biology, 18 (17): R784–R794, doi:10.1016/j.cub.2008.07.003, PMID 18786384, S2CID 15429616
  256. La Lune à travers les mots des poètes (trong tiếng Pháp), lanouvellerepublique.fr, ngày 19 tháng 10 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  257. Claude Debussy : cinq choses à savoir sur le précurseur de la musique moderne (trong tiếng Pháp), Franceinfo, ngày 24 tháng 3 năm 2018, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  258. Hey, Moon: Lunar Art Through the Ages (trong tiếng Anh), www.mutualart.com, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  259. The moon in art! Art UK (trong tiếng Anh), artuk.org, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  260. a b Playlist : On a marché sur la Lune (trong tiếng Pháp), Les Inrockuptibles, ngày 19 tháng 7 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  261. La Lune au cinéma, entre fascination, enjeux géopolitiques et désintérêt au profit de lointaines galaxies (trong tiếng Pháp), Télérama, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  262. 9 terrific movies about landing on the moon, from the sublime to the ridiculous (trong tiếng Anh), Vox, ngày 17 tháng 7 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  263. "For the Moon Landing Anniversary, the Best Moon Movies", Wall Street Journal (trong tiếng Anh), ngày 15 tháng 7 năm 2019, ISSN 0099-9660, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  264. Which National Flags Feature The Moon In Their Designs? (trong tiếng Anh), WorldAtlas, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  265. Crescent Moon Symbol on National Flags (trong tiếng Anh), learnreligions, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  266. a b 64 countries have religious symbols on their national flags (trong tiếng Anh), Pew Research Center, truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2020CS1 maint: unrecognized language (link)
  267. a b Lang, Kenneth R. (2011), The Cambridge Guide to the Solar System' (lxb. 2nd), Cambridge University Press, ISBN 9781139494175, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 1 năm 2016
  268. Morais và Morbidelli 2002
  269. a b c d e f g h i j Williams, Dr. David R. (ngày 2 tháng 2 năm 2006), Moon Fact Sheet, NASA/National Space Science Data Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008
  270. Smith, David E.; Zuber, Maria T.; Neumann, Gregory A.; Lemoine, Frank G. (ngày 1 tháng 1 năm 1997), "Topography of the Moon from the Clementine lidar", Journal of Geophysical Research, 102 (E1): 1601, Bibcode:1997JGR...102.1591S, doi:10.1029/96JE02940, hdl:2060/19980018849, S2CID 17475023, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  271. Terry 2013, tr. 226
  272. Williams, James G.; Newhall, XX; Dickey, Jean O. (1996), "Lunar moments, tides, orientation, and coordinate frames", Planetary and Space Science, 44 (10): 1077–1080, Bibcode:1996P&SS...44.1077W, doi:10.1016/0032-0633(95)00154-9
  273. Makemson, Maud W. (1971), "Determination of selenographic positions", The Moon, 2 (3): 293–308, Bibcode:1971Moon....2..293M, doi:10.1007/BF00561882, S2CID 119603394
  274. a b Archinal, Brent A.; A'Hearn, Michael F.; Bowell, Edward G.; Conrad, Albert R.; Consolmagno, Guy J.; Courtin, Régis; et al. (2010), "Report of the IAU Working Group on Cartographic Coordinates and Rotational Elements: 2009" (PDF), Celestial Mechanics and Dynamical Astronomy, 109 (2): 101–135, Bibcode:2011CeMDA.109..101A, doi:10.1007/s10569-010-9320-4, S2CID 189842666, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 4 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018 also available via usgs.gov (PDF), lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018
  275. Matthews, Grant (2008), "Celestial body irradiance determination from an underfilled satellite radiometer: application to albedo and thermal emission measurements of the Moon using CERES", Applied Optics, 47 (27): 4981–4993, Bibcode:2008ApOpt..47.4981M, doi:10.1364/AO.47.004981, PMID 18806861
  276. A.R. Vasavada; D.A. Paige & S.E. Wood (1999), "Near-Surface Temperatures on Mercury and the Moon and the Stability of Polar Ice Deposits", Icarus, 141 (2): 179–193, Bibcode:1999Icar..141..179V, doi:10.1006/icar.1999.6175, S2CID 37706412, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019

Nguồn tài liệu

  • Phạm Viết Trinh và các tác giả khác, Từ điển Bách khoa Thiên văn học, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1999, Mã số 52 - 52 / KHKT - 1999, Giấy phép xuất bản số 41 - 220 cấp ngày 20 tháng 1 năm 1999, in xong và nộp lưu chiểu vào tháng 8 năm 1999
  • Andrew Fraknoi, David Morrison và Sidney C. Wolff, Astronomy, OpenStax - Đại học Rice, Houston, Texas, Hoa Kỳ, 2016, ISBN 978-1-947172-24-1
  • Văn phòng Niên giám Hàng hải của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, Explanatory Supplement to the Astronomical Ephemeris and the American Ephemeris and Nautical Almanac, Nhà xuất bản Her Majesty's Stationery, Ấn bản lần thứ nhất, 1 tháng 1 năm 1961, ASIN B000GSQFY6
  • William Lowrie, Fundamentals of Geophysics, tái bản lần thứ 2, Nhà xuất bản Đại học Cambridge, Cambridge, 2007, ISBN 978-0-511-35447-2
  • Paul Terry, Top 10 of Everything, Octopus Publishing Group Ltd, 2013, ISBN 978-0-600-62887-3
  • Paul Lucey, Randy L. Korotev, Jeffrey J. Gillis, Larry A. Taylor, và các tác giả khác, Understanding the lunar surface and space-Moon interactions, Tạp chí Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 2006, số 60, quyển 1, tr.83–219, DOI 10.2138/rmg.2006.60.2, Bibcode 2006RvMG...60...83L
  • M.H.M. Morais và A. Morbidelli, The Population of Near-Earth Asteroids in Coorbital Motion with the Earth, Tạp chí Icarus, 2002, số 160, quyển 1, tr.1–9, Bibcode 2002Icar..160....1M, DOI 10.1006/icar.2002.6937, S2CID=55214551, ngày truy cập 2 tháng 12 năm 2019
  • Michelle M. Dolan, Grant J. Mathews, Đoàn Đức Lâm, Nguyễn Quỳnh Lan và các tác giả khác, Evolutionary Tracks for Betelgeuse, tạp chí The Astrophysical Journal, 2017, số 819, quyển 1, tr.7, DOI 10.3847/0004-637X/819/1/7, Arxiv 1406.3143, Bibcode 2016ApJ...819....7D
  • John Tebbutt, The great comet of 1882, Tạp chí The Observatory, tháng 3 năm 1904, số 27, tr.133-134, Bibcode 1904Obs....27..133T
  • G. Basri và M.E. Brown, Planetesimals to Brown Dwarfs: What is a Planet?, Tạp chí Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 2006, số 34, tr.193-216, DOI 10.1146/annurev.earth.34.031405.125058

Xem thêm

Liên kết ngoài