Sửa đổi Thành viên:Marrella

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 1: Dòng 1:
Dưới đây là linh tinh đủ thể loại (nháp, hoặc những nội dung bản thân thấy hay ho).
 
 
== Bom trên đất Campuchia ==
 
Cách đây một thời gian, khi đang tìm hiểu về Khmer Đỏ, tôi thấy một bài viết có thông tin thú vị.
 
<center>{{cite web | url = https://gsp.yale.edu/sites/default/files/walrus_cambodiabombing_oct06.pdf | title = Bombs Over Cambodia | last1 = Owen | first1 = Taylor | last2 = Kiernan | first2 = Ben | date = October 2006 | publisher = The Walrus}}</center>
 
 
Vào mùa thu năm 2000, 25 năm sau khi chiến tranh Đông Dương kết thúc, Bill Clinton trở thành tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên sau Richard Nixon đến thăm Việt Nam. Trong khi tin tức về chuyến thăm chủ yếu là cuộc thảo luận về khoảng 2.000 binh sĩ Mỹ vẫn đang được cho là mất tích khi tham chiến, một hành động nhỏ có ý nghĩa lịch sử quan trọng lại hầu như không được để ý. Bản chất là một cử chỉ nhân đạo, Clinton tiết lộ dữ liệu không quân đồ sộ về tất cả những lần Hoa Kỳ ném bom Đông Dương từ năm 1964 đến 1975. Sử dụng hệ thống tân tiến của IBM, dữ liệu cung cấp thông tin phong phú về những lượt xuất kích ở Việt Nam, Lào, và Campuchia.
 
 
Món quà của Clinton mục đích nhằm hỗ trợ tìm kiếm những vật liệu chưa nổ còn sót lại sau những năm khu vực bị ném bom trải thảm. Bom đạn nằm rải rác ở miền quê, thường bên dưới đất nông nghiệp, vẫn luôn là mối quan ngại lớn. Chúng gây thương tật và giết chết nông dân, khiến đất đai giá trị không thể sử dụng. Các tổ chức phát triển và rà phá bom mìn đã tận dụng tốt dữ liệu không quân trong sáu năm qua nhưng lại không nhìn ra hết ý nghĩa của nó, điều xem ra đáng kinh ngạc.
 
 
Kho dữ liệu chưa hoàn thiện (có một vài chỗ "tối") tiết lộ rằng từ ngày 4 tháng 10 năm 1965 đến 15 tháng 8 năm 1973, Hoa Kỳ đã thả số lượng bom đạn nhiều hơn nhiều suy nghĩ trước đó: 2.756.941 tấn trong 230.516 lượt xuất kích ở 113.716 địa điểm. Hơn 10% lượng bom ném xuống là bừa bãi, với 3.580 địa điểm được liệt có mục tiêu "không rõ" và 8.238 địa điểm không ghi mục tiêu. Dữ liệu còn chỉ ra hoạt động ném bom bắt đầu sớm hơn bốn năm so với thời điểm vốn được tin trước đó — không phải dưới thời Nixon, mà là Lyndon Johnson.
 
 
Tác động của tiến trình ném bom này, đề tài tranh cãi lớn trong ba thập kỷ qua, bây giờ đã rõ hơn bao giờ. Thương vong đối với dân thường Campuchia đã đẩy dân chúng phẫn nộ vào vòng xoáy của một cuộc nổi dậy mà có khá ít sự ủng hộ cho đến khi bom bắt đầu rơi. Nó kích hoạt sự mở rộng quy mô của chiến tranh Việt Nam vào sâu hơn trong lãnh thổ Campuchia, cuộc đảo chính năm 1970, sự trỗi dậy nhanh chóng của Khmer Đỏ, và cuối cùng là cuộc diệt chủng Campuchia.
 
 
...
 
 
Đem 2.756.941 tấn ra so sánh, Đồng Minh chỉ thả hơn 2 triệu tấn bom trong toàn bộ Thế chiến II. Campuchia có thể là quốc gia bị ném bom nhiều nhất trong lịch sử.
 
 
...
 
 
———
 
 
'''Tuy nhiên''' sau này các tác giả phát hiện dữ liệu có sai sót và họ điều chỉnh lại lượng bom được ném xuống Campuchia ước tính chỉ là 500.000 tấn.[https://apjjf.org/Ben-Kiernan/4313.html] Vậy đáng tiếc là thông tin trong bài viết trên đã mất đi nhiều phần thú vị.
 
 
Một điều nữa là ở trên có đề cập Richard Nixon thăm Việt Nam, nhưng mà là Việt Nam Cộng hòa vào năm 1969, khi đất nước vẫn còn bị chia cắt. Nó xem ra rất khác với chuyến thăm của Clinton.
 
 
 
== Lịch sử HIV/AIDS ==
 
== Lịch sử HIV/AIDS ==
 
[[File:HIV-budding-Color.jpg|thumb|HIV-1 (xanh lá) đâm ra từ tế bào nuôi.]]
 
[[File:HIV-budding-Color.jpg|thumb|HIV-1 (xanh lá) đâm ra từ tế bào nuôi.]]
HIV/AIDS được chú ý đến lần đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1981. Trước tiên là sự gia tăng bất thường những căn bệnh hiếm gặp xảy ra với cộng đồng người đồng tính nam mà trước đó chỉ thấy ở những người có hệ miễn dịch rất yếu, nổi bật là viêm phổi ''Pneumocystis'' và sarcoma Kaposi. Không khó để suy đoán rằng có "thứ gì đó mới" đã đang tàn phá hệ miễn dịch của họ. Trong khi AIDS vẫn còn ẩn mình trong bóng tối, sự xuất hiện của sarcoma Kaposi và những bệnh cơ hội khác được xem như điềm báo đầu tiên hé lộ bi kịch sắp xảy tới với nhân loại. Sau hơn 40 năm, con người đã dần đi đến chiến thắng trước căn bệnh thế kỷ, nhưng tác động của nó luôn hằn sâu, để lại những suy ngẫm và bài học không thể quên. Quay trở lại năm 1981, tôi dịch những báo cáo đầu tiên của CDC đăng trên ''Morbidity and Mortality Weekly Report'' (MMMR) về tai ương bí ẩn đang gieo rắc lên cộng đồng người đồng tính nam ở Hoa Kỳ.
+
HIV/AIDS được chú ý đến lần đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1981. Trước tiên là sự gia tăng bất thường những căn bệnh hiếm gặp xảy ra với cộng đồng người đồng tính nam mà trước đó chỉ thấy ở những người có hệ miễn dịch rất yếu, nổi bật là viêm phổi ''Pneumocystis'' và sarcoma Kaposi. Không khó để suy đoán rằng có "thứ gì đó mới" đã đang tàn phá hệ miễn dịch của họ. Trong khi AIDS vẫn còn ẩn mình trong bóng tối, sự xuất hiện của sarcoma Kaposi và những bệnh cơ hội khác được xem như điềm báo đầu tiên hé lộ bi kịch sắp xảy tới với nhân loại. Sau hơn 40 năm, con người đã dần đi đến chiến thắng trước căn bệnh thế kỷ, nhưng tác động của nó luôn hằn sâu, để lại những suy ngẫm và bài học không thể quên. Quay trở lại năm 1981, tôi dịch những báo cáo đầu tiên của CDC đăng trên ''MMWR'' về tai ương bí ẩn đang gieo rắc lên cộng đồng người đồng tính nam ở Hoa Kỳ.
  
=== MMWR, Vol. 30, no. 21, p. 250–2, June 5, 1981 ===
+
=== Morbidity and Mortality Weekly Report (MMWR), Vol. 30, no. 21, June 5, 1981 ===
 
Vào ngày 5 tháng 6 năm 1981, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) công bố một báo cáo mô tả 5 trường hợp người đồng tính nam mắc một dạng viêm phổi hiếm gặp ở Los Angeles, California. Đây là báo cáo chính thức đầu tiên về cái mà sau này được gọi là AIDS. Sau này, ngày 5 tháng 6 năm 1981 được xem như thời điểm bắt đầu của dịch bệnh AIDS. Cùng nhìn lại, báo cáo lịch sử của CDC, những mô tả đầu tiên về HIV/AIDS.
 
Vào ngày 5 tháng 6 năm 1981, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) công bố một báo cáo mô tả 5 trường hợp người đồng tính nam mắc một dạng viêm phổi hiếm gặp ở Los Angeles, California. Đây là báo cáo chính thức đầu tiên về cái mà sau này được gọi là AIDS. Sau này, ngày 5 tháng 6 năm 1981 được xem như thời điểm bắt đầu của dịch bệnh AIDS. Cùng nhìn lại, báo cáo lịch sử của CDC, những mô tả đầu tiên về HIV/AIDS.
  
 
<center><b><big>Viêm phổi ''Pneumocystis'' – Los Angeles</b></center></big>
 
<center><b><big>Viêm phổi ''Pneumocystis'' – Los Angeles</b></center></big>
[[File:Pneumocystis_carinii_01.jpg|thumb|Nang ''P. carinii'' (nay là ''P. jirovecii'') trong mô phổi của một bệnh nhân AIDS.]]
+
[[File:Pneumocystis_carinii_01.jpg|thumb|''Pneumocystis carinii'' trong mô phổi của một bệnh nhân AIDS.]]
 
Trong khoảng tháng 10 năm 1980 đến tháng 5 năm 1981, 5 nam thanh niên, tất cả đều hoạt động tình dục đồng giới, đã được điều trị viêm phổi ''Pneumocystis carinii'' xác nhận sinh thiết tại ba bệnh viện khác nhau ở Los Angeles, California. Hai bệnh nhân đã tử vong. Cả 5 người đều đã từng hoặc đang nhiễm ''Cytomegalovirus'' (CMV) và ''Candida'' niêm mạc được xác minh phòng thí nghiệm. Các báo cáo ca bệnh như sau.
 
Trong khoảng tháng 10 năm 1980 đến tháng 5 năm 1981, 5 nam thanh niên, tất cả đều hoạt động tình dục đồng giới, đã được điều trị viêm phổi ''Pneumocystis carinii'' xác nhận sinh thiết tại ba bệnh viện khác nhau ở Los Angeles, California. Hai bệnh nhân đã tử vong. Cả 5 người đều đã từng hoặc đang nhiễm ''Cytomegalovirus'' (CMV) và ''Candida'' niêm mạc được xác minh phòng thí nghiệm. Các báo cáo ca bệnh như sau.
  
Dòng 52: Dòng 26:
 
Tất cả những quan sát trên gợi ý khả năng một rối loạn chức năng miễn dịch tế bào liên quan đến một kiểu phơi nhiễm chung đã dẫn đến những nhiễm trùng cơ hội như pneumocystosis và candidiasis. Mặc dù vai trò của nhiễm CMV trong bệnh sinh pneumocystosis không được biết, khả năng nhiễm ''P. carinii'' phải được xem xét kỹ lưỡng trong chẩn đoán phân biệt cho những người đồng tính nam trước khỏe mạnh bị khó thở và viêm phổi.
 
Tất cả những quan sát trên gợi ý khả năng một rối loạn chức năng miễn dịch tế bào liên quan đến một kiểu phơi nhiễm chung đã dẫn đến những nhiễm trùng cơ hội như pneumocystosis và candidiasis. Mặc dù vai trò của nhiễm CMV trong bệnh sinh pneumocystosis không được biết, khả năng nhiễm ''P. carinii'' phải được xem xét kỹ lưỡng trong chẩn đoán phân biệt cho những người đồng tính nam trước khỏe mạnh bị khó thở và viêm phổi.
  
=== MMWR, Vol. 30, no. 25, p. 305–8, July 3, 1981 ===
+
=== MMWR, Vol. 30, no. 25, July 3, 1981 ===
 
[[File:Mmwr-aids-July1981-report-101.png|thumb|Ngày đầu của HIV/AIDS, các bệnh cơ hội lộ diện trước.]]
 
[[File:Mmwr-aids-July1981-report-101.png|thumb|Ngày đầu của HIV/AIDS, các bệnh cơ hội lộ diện trước.]]
 
<center><b><big>Sarcoma Kaposi và viêm phổi ''Pneumocystis'' ở những người đồng tính nam – New York City và California</b></center></big>
 
<center><b><big>Sarcoma Kaposi và viêm phổi ''Pneumocystis'' ở những người đồng tính nam – New York City và California</b></center></big>
Dòng 98: Dòng 72:
 
Mặc dù chưa chắc sự gia tăng tình trạng KS và viêm phổi PC chỉ giới hạn ở người đồng tính nam, đại đa số các ca gần đây được báo cáo đến từ nhóm này. Các bác sĩ nên cảnh giác về sarcoma Kaposi, viêm phổi PC, và những bệnh nhiễm trùng cơ hội khác liên hệ với ức chế miễn dịch ở người đồng tính nam.
 
Mặc dù chưa chắc sự gia tăng tình trạng KS và viêm phổi PC chỉ giới hạn ở người đồng tính nam, đại đa số các ca gần đây được báo cáo đến từ nhóm này. Các bác sĩ nên cảnh giác về sarcoma Kaposi, viêm phổi PC, và những bệnh nhiễm trùng cơ hội khác liên hệ với ức chế miễn dịch ở người đồng tính nam.
  
=== MMWR, Vol. 30, no. 33, p. 409–10, August 28, 1981 ===
+
=== MMWR, Vol. 30, no. 33, August 28, 1981 ===
 
Ở trên là hai báo cáo đầu tiên, từ báo cáo này, tôi sẽ chỉ lược dịch.
 
Ở trên là hai báo cáo đầu tiên, từ báo cáo này, tôi sẽ chỉ lược dịch.
 
<center><b><big>Theo tiếp sarcoma Kaposi và viêm phổi ''Pneumocystis''</b></center></big>
 
<center><b><big>Theo tiếp sarcoma Kaposi và viêm phổi ''Pneumocystis''</b></center></big>
26 ca sarcoma Kaposi (KS) và 15 ca viêm phổi ''Pneumocystis carinii'' (PCP) ở những người đồng tính nam trước đó khỏe mạnh đã được báo cáo gần đây. Từ ngày 3 tháng 7 năm 1981, CDC đã tiếp nhận những báo cáo về thêm 70 ca mắc 2 tình trạng này ở những người không rõ bệnh nền. ...
 
 
...
 
 
'''Ghi chú của ban biên tập''': KS là ung thư hiếm gặp chủ yếu thấy ở người già trên đất nước này. Ở người già căn bệnh biểu hiện là những thương tổn da và một diễn biến lâm sàng mạn tính; hiếm khi tử vong. Trái lại, những người được báo cáo mắc KS gần đây là trẻ đến trung tuổi, và 20% trường hợp đã tử vong. Mặc dù một số bệnh nhân có thương tổn da hay niêm mạc tím điển hình của KS, nhiều thương tổn như vậy ban đầu đã bị bỏ sót. Một số bệnh nhân được chẩn đoán bằng sinh thiết hạch lympho sau tiền triệu bao gồm sốt, sụt cân, và sưng hạch. 7 (13%) trên 44 bệnh nhân KS mắc cả PCP. Ở nhiều ca, chẩn đoán mô bệnh từ da, hạch lympho, hay mô thương tổn nội tạng gặp khó khăn ngay cả với chuyên gia.
 
 
Sự hiện diện của viêm phổi ''Pneumocystis carinii'' ở những bệnh nhân không bị ức chế miễn dịch vì liệu pháp hay bệnh nền nào biết cũng rất bất thường. Mặc dù 7 (11%) trên 61 bệnh nhân PCP cũng bị KS, nhiều khi viêm phổi có trước ung thư. Mặc dù đa số bệnh nhân PCP thông báo triệu chứng hô hấp gần đây, một số có lịch sử triệu chứng toàn thân vài tuần đến vài tháng bao gồm sụt cân và khó chịu, giống tiền triệu của những bệnh nhân KS hạch. Một vài bệnh nhân PCP còn mắc những nhiễm trùng nghiêm trọng khác, như candidiasis dạ dày ruột, viêm màng não ''Cryptococcus'', nhiễm trùng Mycobacteriaceae và herpes simplex lan tỏa. Nhiều bệnh nhân PCP và KS có mẫu nuôi dương tính hoặc bằng chứng huyết thanh nhiễm ''Cytomegalovirus''.
 
 
Sự hội tụ rõ ràng của cả PCP và KS ở nhóm đồng tính nam gợi ý đến một nhân tố tiềm ẩn chung. Cả hai bệnh đều liên hệ với ức chế miễn dịch vật chủ và các nghiên cứu đang chỉ ra tình trạng ức chế miễn dịch ở một số trường hợp. Mức độ hay nguyên nhân gây ức chế miễn dịch chưa được biết. Các bác sĩ cần biết đến khả năng xảy ra những bệnh này và nhiễm trùng cơ hội khác, nhất là ở người có triệu chứng hay tiền triệu báo hiệu, vì điều trị là đặc hiệu và xác minh chẩn đoán cần sinh thiết.
 
 
CDC cùng một số phòng ban y tế quốc gia và địa phương đang chỉ đạo giám sát tích cực KS, PCP, và nhiễm trùng cơ hội ở người không có bệnh nền dẫn dắt được biết. Một nghiên cứu bệnh chứng toàn quốc sẽ sớm được tiến hành.
 
 
=== MMWR, Vol. 31, no. 19, p. 249–51, May 21, 1982 ===
 
  
 
== Nháp/Bản mẫu:Virusbox ==
 
== Nháp/Bản mẫu:Virusbox ==

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Các bản mẫu dùng trong trang này: