Tiểu đường | |
---|---|
Vòng tròn màu xanh dương là biểu tượng của bệnh tiểu đường.[1] | |
Chuyên khoa | Nội tiết học |
Triệu chứng | Tiểu nhiều, hay khát, hay đói[2] |
Biến chứng | Nhiễm toan ceton, tăng thẩm thấu do tăng đường huyết, bệnh tim, đột quỵ, đau hay tê ngứa ở bàn tay hoặc bàn chân, loét bàn chân, suy thận mạn, suy giảm nhận thức, liệt nhẹ dạ dày[2][3][4][5] |
Yếu tố nguy cơ | Loại 1: tiền sử gia đình[6] Loại 2: béo phì, ít vận động, di truyền[2][7] |
Chẩn đoán | Đường huyết cao[2] |
Điều trị | Chế độ ăn lành mạnh, thể dục[2] |
Thuốc | Insulin, thuốc trị tiểu đường như metformin[2][8][9] |
Số người mắc | 463 triệu (8,8%)[10] |
Số người chết | 4,2 triệu (2019)[10] |
Tiểu đường hay đái tháo đường là một nhóm rối loạn chuyển hóa có đặc điểm lượng mức đường huyết cao trong thời gian dài hơn bình thường.[11] Triệu chứng thường bao gồm đi tiểu nhiều, hay khát nước, và hay thèm ăn.[2] Tiểu đường nếu không chữa trị có thể gây ra nhiều biến chứng.[2] Biến chứng cấp tính gồm nhiễm toan ceton (acid ketone) do tiểu đường, tăng thẩm thấu do tăng glucose huyết, hoặc tử vong.[3] Biến chứng lâu dài nghiêm trọng có bệnh tim mạch, đột quỵ, bệnh thận mạn tính, loét bàn chân, tổn thương dây thần kinh, tổn thương mắt, và suy giảm nhận thức.[2][5]
Nguyên nhân dẫn đến tiểu đường là tụy không sản xuất đủ insulin hoặc các tế bào của cơ thể không phản ứng phù hợp với insulin đã sản xuất.[12] Tiểu đường có ba loại chính:[2]
- Tiểu đường loại 1 (tuýp 1) là hệ quả của việc tụy không sản sinh đủ insulin do mất tế bào beta.[2] Loại này trước đây được gọi là "đái tháo đường lệ thuộc insulin" (IDDM) hay "tiểu đường vị thành niên".[2] Tế bào beta bị mất là do một phản ứng tự miễn.[13] Con người chưa biết phản ứng tự miễn này từ đâu mà có.[2]
- Tiểu đường loại 2 (tuýp 2) bắt đầu với sự kháng insulin, tình trạng mà các tế bào không thể phản ứng phù hợp với insulin.[2] Thiếu insulin có thể xảy ra khi bệnh tiến triển.[14] Loại này trước đây được gọi là "đái tháo đường không lệ thuộc insulin" (NIDDM) hay "tiểu đường khởi phát ở người lớn".[2] Nguyên nhân phổ biến nhất là dư thừa trọng lượng cơ thể kết hợp với thiếu vận động.[2]
- Tiểu đường thai kỳ là loại thứ ba xảy ra khi phụ nữ mang thai với không tiền sử tiểu đường biểu lộ mức đường huyết cao.[2]
Tiêm insulin là giải pháp bắt buộc với tiểu đường loại 1.[2] Để chữa trị và phòng ngừa tiểu đường loại 2 cần duy trì chế độ ăn lành mạnh, vận động thường xuyên, trọng lượng cơ thể bình thường, và tránh hút thuốc lá.[2] Các loại thuốc như thuốc nhạy insulin không hoặc có insulin có thể giúp điều trị tiểu đường loại 2.[15] Kiểm soát huyết áp, duy trì chăm sóc mắt và bàn chân phù hợp là những việc làm quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường.[2] Insulin và một số thuốc uống có thể gây đường huyết thấp.[16] Ở người béo phì mà đồng thời bị tiểu đường loại 2, phẫu thuật giảm béo đôi khi tỏ ra hiệu quả.[17] Tiểu đường thai kỳ thường sẽ biến mất sau khi phụ nữ sinh em bé.[18]
Ước tính năm 2019 trên thế giới có 463 triệu người mắc tiểu đường (8,8% dân số trưởng thành), trong đó tiểu đường loại 2 chiếm đến 90%.[10] Tỷ lệ mắc ở nam và nữ là ngang bằng.[19] Chiều hướng gợi ý tỷ lệ sẽ tiếp tục tăng.[10] Tiểu đường làm tăng nguy cơ tử vong sớm ít nhất gấp đôi.[2] Căn bệnh đã lấy đi sinh mạng của khoảng 4,2 triệu người trong năm 2019[10] và là nguyên nhân gây tử vong xếp thứ 7 trên toàn cầu.[20][21] Trong năm 2017 ước tính phí tổn dành cho những vấn đề sức khỏe liên quan đến tiểu đường trên thế giới là 727 tỷ đô-la.[10]
Dấu hiệu và triệu chứng
Triệu chứng điển hình của tiểu đường không chữa trị là sụt cân ngoài ý muốn, tiểu nhiều (đa niệu), hay khát (đa khát), và hay đói (đa thực).[22] Ở tiểu đường loại 1 triệu chứng có thể nhanh chóng xuất hiện (hàng tuần hoặc hàng tháng) còn với tiểu đường loại 2 thì thường chậm hơn nhiều và có thể khó thấy hoặc không thấy.[23]
Còn một số dấu hiệu và triệu chứng khác có thể báo hiệu sự khởi phát của tiểu đường tuy nhiên chúng không phải đặc trưng của căn bệnh. Cụ thể bao gồm giảm thị lực (nhìn mờ đi), đau đầu, mệt mỏi, vết đứt lâu lành, ngứa da. Glucose huyết cao kéo dài có thể gây hấp thu glucose vào thủy tinh thể mắt dẫn đến biến dạng thủy tinh thể và hệ quả là những thay đổi trong khả năng nhìn. Một nguyên nhân gây mất thị lực lâu dài là bệnh võng mạc tiểu đường. Các ban trên da có thể xuất hiện ở người bị tiểu đường và được gọi chung là biểu hiện da của tiểu đường.[24]
Cấp cứu do tiểu đường
Bệnh nhân (thường là tiểu đường loại 1) còn có nguy cơ bị nhiễm toan ceton do tiểu đường (DKA), một rối loạn chuyển hóa gây triệu chứng buồn nôn, nôn mửa, đau bụng, mùi aceton trong hơi thở, thở sâu hay gọi là thở Kussmaul, và ở những ca nặng là suy giảm mức độ nhận thức. Nhiễm toan ceton đòi hỏi chữa trị khẩn cấp trong bệnh viện.[25] Một tình trạng hiếm hơn nhưng nghiêm trọng không kém là tăng thẩm thấu do tăng glucose huyết (HHS) phổ biến hơn ở tiểu đường loại 2 có nguyên nhân chủ yếu từ mất nước bởi đường huyết cao.[25]
Đường huyết thấp liên quan đến (hay do) điều trị là phổ biến ở bệnh nhân tiểu đường loại 1 và 2, tùy vào dược phẩm sử dụng. Hầu hết trường hợp thuộc dạng nhẹ và không được xem là tình trạng cấp cứu. Tác động có thể rơi vào phạm vi từ cảm thấy khó chịu, đổ mồ hôi, run rẩy, và hay thèm ăn ở những ca bệnh nhẹ đến mức độ nghiêm trọng hơn như lú lẫn, thay đổi hành vi như trở nên hung hăng, động kinh, bất tỉnh, và hiếm khi là tổn thương não vĩnh viễn hoặc tử vong.[26][27] Thở nhanh, đổ mồ hôi, da lạnh nhợt nhạt là những đặc điểm của đường huyết thấp nhưng không phải chắc chắn.[28] Các ca nhẹ đến vừa tự chữa bằng cách ăn hoặc uống thứ gì đó có lượng đường cao. Ca nặng có thể dẫn đến bất tỉnh và phải được điều trị bằng truyền glucose tĩnh mạch hay tiêm glucagon.[29]
Biến chứng
Tất cả các dạng tiểu đường đều làm tăng nguy cơ xảy ra những biến chứng lâu dài. Chúng thường biểu hiện sau nhiều năm (10 đến 20 năm) nhưng có thể là triệu chứng đầu tiên đối với những người chưa được chẩn đoán.
Những biến chứng lâu dài đáng chú ý liên hệ với tổn thương mạch máu. Tiểu đường làm tăng gấp đôi nguy cơ bệnh tim mạch[30] và khoảng 75% bệnh nhân tiểu đường tử vong do bệnh động mạch vành.[31] Các bệnh mạch máu lớn khác gồm có đột quỵ và bệnh động mạch ngoại biên.
Tổn thương ở mạch máu nhỏ cũng gây nên những biến chứng hàng đầu của tiểu đường như tổn thương mắt, thận, dây thần kinh.[32] Tổn thương đến mắt gọi là bệnh võng mạc tiểu đường xảy ra do mạch máu trong võng mạc bị hư hại có thể dẫn đến mất dần thị lực và cuối cùng mù lòa.[32] Tiểu đường còn làm tăng nguy cơ tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể, và những vấn đề về mắt khác. Người bệnh tiểu đường được khuyến cáo đi gặp bác sĩ nhãn khoa một lần một năm.[33] Tổn thương đến thận gọi là bệnh thận tiểu đường có thể dẫn đến sẹo hóa mô (xơ cứng tiểu cầu), protein niệu, và cuối cùng là bệnh thận mạn tính mà đôi khi đòi hỏi thẩm tách hoặc cấy ghép thận.[32] Tổn thương đến dây thần kinh của cơ thể gọi là bệnh thần kinh tiểu đường là biến chứng phổ biến nhất của tiểu đường.[32] Triệu chứng của dạng này có thể là giảm cảm giác, dị cảm, loạn tiết mồ hôi, đau, cảm giác đau thay đổi và khả năng dẫn đến tổn thương da. Các vấn đề bàn chân liên hệ tiểu đường (như loét bàn chân tiểu đường) có thể xảy ra và không dễ chữa, thi thoảng đòi hỏi phải cắt cụt. Ngoài ra chứng teo cơ tiểu đường còn khiến cơ teo nhỏ gây đau đớn và yếu nhược.
Tồn tại mối liên kết giữa thiếu hụt nhận thức và tiểu đường. Người bệnh tiểu đường có tỷ lệ suy giảm chức năng nhận thức gấp 1,2 đến 1,5 lần so với người bình thường.[34] Người cao tuổi mắc tiểu đường thì nguy cơ bị ngã sẽ cao hơn.[35]
Nguyên nhân
Tiểu đường loại 1 | Tiểu đường loại 2 | |
---|---|---|
Khởi phát | Đột ngột | Từ từ |
Tuổi khởi phát | Đa phần ở trẻ em | Đa phần ở người lớn |
Hình thể | Gầy hoặc bình thường[37] | Thường béo phì |
Nhiễm toan ceton | Phổ biến | Hiếm |
Tự kháng thể | Thường có | Không có |
Insulin nội sinh | Thấp hoặc không có | Bình thường, giảm hoặc tăng |
Cặp song sinh giống hệt cùng bị |
50% | 90% |
Tỷ lệ | ~10% | ~90% |
Theo cách thức phân loại mới của WHO năm 2019 thì tiểu đường được chia thành: tiểu đường loại 1, tiểu đường loại 2, các dạng hỗn hợp, tăng đường huyết phát hiện lần đầu trong thai kỳ, tiểu đường không phân loại, và những loại đặc trưng khác.[38] "Các dạng hỗn hợp" gồm tiểu đường trung gian miễn dịch ở người lớn tiến triển chậm và tiểu đường loại 2 dễ nhiễm ceton. "Chứng tăng đường huyết phát hiện lần đầu trong thai kỳ" gồm tiểu đường thai kỳ và tiểu đường trong thai kỳ (tiểu đường loại 1 hoặc 2 được chẩn đoán lần đầu trong thai kỳ). "Những loại đặc trưng khác" là tập hợp của vài chục nguyên nhân riêng biệt. Tiểu đường là bệnh phức tạp hơn những gì con người nghĩ trước kia và bệnh nhân có thể mắc đồng thời các dạng.[39]
Tiểu đường loại 1
Tiểu đường loại 1 có đặc điểm tế bào beta sản xuất insulin của tiểu đảo tụy biến mất dẫn đến thiếu hụt insulin. Loại này có thể được chia nhỏ thêm thành trung gian miễn dịch hay tự phát. Đa số trường hợp tiểu đường loại 1 có tính chất trung gian miễn dịch mà ở đó một cuộc tấn công tự miễn qua trung gian tế bào T dẫn đến mất đi tế bào beta kéo theo mất insulin.[40] Khoảng 10% ca đái tháo đường ở Bắc Mỹ và châu Âu là do nguyên nhân này. Số đông bệnh nhân khỏe mạnh và có trọng lượng phù hợp khi bệnh bắt đầu. Tính nhạy và tính phản ứng với insulin thường ở mức bình thường, nhất là vào những giai đoạn sớm. Mặc dù còn được gọi là "tiểu đường vị thành niên" vì hay khởi phát ở trẻ em song đa số bệnh nhân sống với tiểu đường dạng này hiện là người lớn.[6]
Tiểu đường dễ biến, còn gọi là tiểu đường không ổn định hay tiểu đường không kiểm soát, là những cách gọi truyền thống mô tả sự biến động tái lặp và đáng kể trong hàm lượng glucose, thường xảy ra mà không có lý do rõ ràng ở tiểu đường lệ thuộc insulin. Tuy nhiên thuật ngữ này không có cơ sở sinh học và không nên sử dụng.[41] Tiểu đường loại 1 vẫn có thể kèm theo mức đường huyết cao không đều và không thể dự đoán, cùng tiềm năng nhiễm toan ceton hoặc mức đường huyết thấp nghiêm trọng. Những biến chứng khác gồm có phản ứng lỗi chống điều chỉnh đường huyết thấp, nhiễm trùng, liệt nhẹ dạ dày (dẫn đến hấp thu thất thường carbohydrate từ thực phẩm ăn vào), và các bệnh nội tiết (ví dụ như bệnh Addison).[41] Những hiện tượng này được tin chỉ xảy ra ở 1 đến 2% bệnh nhân tiểu đường loại 1.[42]
Tiểu đường loại 1 một phần là di truyền, với nhiều gen bao gồm những kiểu gen HLA nhất định được biết có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh. Ở người nhạy cảm di truyền, một hoặc nhiều yếu tố môi trường có thể khơi gợi sự khởi phát của tiểu đường,[43] như là chế độ ăn hay nhiễm virus. Một số virus bị ám chỉ nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết này ở người.[43][44] Xét đến yếu tố ăn uống, dữ liệu gợi ý rằng gliadin (một protein có trong gluten) có thể góp phần làm hình thành tiểu đường loại 1, tuy nhiên con người vẫn chưa hiểu hết cơ chế.[45][46]
Tiểu đường loại 1 có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, trong đó một tỷ lệ đáng kể được chẩn đoán vào tuổi trưởng thành. Tiểu đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA) là thuật ngữ chẩn đoán được áp dụng khi tiểu đường loại 1 phát triển ở người lớn với sự khởi đầu chậm chạp hơn so với ở trẻ em. Vì sự khác biệt này, một số người đã sử dụng thuật ngữ không chính thức "tiểu đường loại 1,5" để đề cập tình trạng. Người lớn mắc LADA ban đầu rất hay bị chẩn đoán sai là mắc tiểu đường loại 2 do căn cứ vào độ tuổi thay vì nguyên nhân.[47]
Tiểu đường loại 2
Tiểu đường loại 2 có đặc điểm là sự kháng insulin có thể đi kèm với giảm tiết insulin tương đối.[12] Việc các mô cơ thể đáp ứng thiếu sót với insulin được tin có dính líu đến thụ thể insulin. Tuy nhiên, những thiếu sót cụ thể là gì thì chưa biết. Các ca tiểu đường có nguyên nhân từ thiếu sót đã biết được xếp loại riêng. Tiểu đường loại 2 là dạng tiểu đường phổ biến nhất.[2] Nhiều người mắc tiểu đường loại 2 có bằng chứng tiền tiểu đường (loạn glucose lúc đói và/hoặc loạn dung nạp glucose) trước khi đáp ứng tiêu chí của tiểu đường loại 2.[48] Sự phát triển của tiền tiểu đường thành tiểu đường loại 2 có thể bị làm chậm hoặc đảo ngược bởi việc thay đổi lối sống hoặc các thuốc cải thiện tính nhạy insulin hay làm giảm hoạt động sản xuất glucose của gan.[49]
Các yếu tố lối sống và di truyền là nguyên nhân chủ yếu của tiểu đường loại 2.[50] Một số yếu tố lối sống đã được biết là quan trọng dẫn đến sự phát triển của tiểu đường loại 2 gồm béo phì (xác định bằng chỉ số khối cơ thể lớn hơn 30), thiếu hoạt động thể chất, chế độ ăn không lành mạnh, căng thẳng, đô thị hóa.[36] Việc cơ thể dư thừa chất béo liên hệ với 30% ca ở người dòng dõi Nhật Bản và Trung Quốc, 60–80% ca ở người dòng dõi châu Phi và châu Âu, 100% người Pima và người dân các đảo Thái Bình Dương.[12]
Thói quen tiêu thụ đồ uống có đường là một yếu tố rủi ro.[51][52] Kiểu chất béo trong chế độ ăn cũng quan trọng, cụ thể chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa làm tăng nguy cơ còn chất béo không bão hòa đa và chất béo không bão hòa đơn làm giảm nguy cơ.[50] Ăn quá nhiều gạo trắng có thể làm tăng nguy cơ tiểu đường, đặc biệt ở người Nhật Bản và Trung Quốc.[53] Một số người có thể dễ mắc bệnh hơn nếu lười vận động cơ thể.[54]
Tham khảo
- ↑ Diabetes Blue Circle Symbol, International Diabetes Federation, ngày 17 tháng 3 năm 2006, lưu trữ từ nguyên tác ngày 5 tháng 8 năm 2007
- ↑ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v "Diabetes Fact sheet N°312", WHO, tháng 10 năm 2013, lưu trữ từ nguyên tác ngày 26 tháng 8 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2014
- ↑ a b Kitabchi AE, Umpierrez GE, Miles JM, Fisher JN (tháng 7 năm 2009), "Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes", Diabetes Care, 32 (7): 1335–43, doi:10.2337/dc09-9032, PMC 2699725, PMID 19564476
- ↑ Krishnasamy S, Abell TL (tháng 7 năm 2018), "Diabetic Gastroparesis: Principles and Current Trends in Management", Diabetes Therapy, 9 (Suppl 1): 1–42, doi:10.1007/s13300-018-0454-9, PMC 6028327, PMID 29934758
- ↑ a b Saedi, E; Gheini, MR; Faiz, F; Arami, MA (ngày 15 tháng 9 năm 2016), "Diabetes mellitus and cognitive impairments.", World Journal of Diabetes, 7 (17): 412–22, doi:10.4239/wjd.v7.i17.412, PMC 5027005, PMID 27660698
- ↑ a b Chiang JL, Kirkman MS, Laffel LM, Peters AL (tháng 7 năm 2014), "Type 1 diabetes through the life span: a position statement of the American Diabetes Association", Diabetes Care, 37 (7): 2034–54, doi:10.2337/dc14-1140, PMC 5865481, PMID 24935775
- ↑ "Causes of Diabetes", National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases, tháng 6 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 2 tháng 2 năm 2016, truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2016
- ↑ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênAFP09
- ↑ Brutsaert, Erika F. (tháng 2 năm 2017), "Drug Treatment of Diabetes Mellitus", MSDManuals.com, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018
- ↑ a b c d e f "IDF DIABETES ATLAS Ninth Edition 2019" (PDF), www.diabetesatlas.org (trong English), truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
- ↑ About diabetes, World Health Organization, lưu trữ từ nguyên tác ngày 31 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014
- ↑ a b c Shoback DG, Gardner D, bt. (2011), "Chapter 17", Greenspan's basic & clinical endocrinology (lxb. 9th), New York: McGraw-Hill Medical, ISBN 978-0-07-162243-1
- ↑ Norman, Anthony; Henry, Helen (2015), Hormones, Elsevier, tr. 136–137, ISBN 9780123694447 Bỏ qua tham số chưa biết
|name-list-style=
(trợ giúp) - ↑ RSSDI textbook of diabetes mellitus (lxb. Revised 2nd), Jaypee Brothers Medical Publishers, 2012, tr. 235, ISBN 978-93-5025-489-9, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 10 năm 2015
- ↑ The top 10 causes of death Fact sheet N°310, World Health Organization, tháng 10 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 30 tháng 5 năm 2017
- ↑ Rippe RS, Irwin JM, bt. (2010), Manual of intensive care medicine (lxb. 5th), Wolters Kluwer Health/Lippincott Williams & Wilkins, tr. 549, ISBN 978-0-7817-9992-8
- ↑ Picot J, Jones J, Colquitt JL, Gospodarevskaya E, Loveman E, Baxter L, Clegg AJ (tháng 9 năm 2009), "The clinical effectiveness and cost-effectiveness of bariatric (weight loss) surgery for obesity: a systematic review and economic evaluation", Health Technology Assessment, 13 (41): 1–190, 215–357, iii–iv, doi:10.3310/hta13410, hdl:10536/DRO/DU:30064294, PMID 19726018
- ↑ Cash, Jill (2014), Family Practice Guidelines (lxb. 3rd), Springer, tr. 396, ISBN 978-0-8261-6875-7, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 31 tháng 10 năm 2015
- ↑ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênVos2012
- ↑ "What is Diabetes?", Centers for Disease Control and Prevention (trong English), ngày 11 tháng 3 năm 2020, truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
- ↑ "The top 10 causes of death", www.who.int (trong English), truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
- ↑ Cooke DW, Plotnick L (tháng 11 năm 2008), "Type 1 diabetes mellitus in pediatrics", Pediatrics in Review, 29 (11): 374–84, quiz 385, doi:10.1542/pir.29-11-374, PMID 18977856, S2CID 20528207
- ↑ "WHO | Diabetes mellitus", WHO, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019
- ↑ Rockefeller, J.D. (2015), Diabetes: Symptoms, Causes, Treatment and Prevention (trong English), ISBN 978-1-5146-0305-5
- ↑ a b Kitabchi AE, Umpierrez GE, Miles JM, Fisher JN (tháng 7 năm 2009), "Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes", Diabetes Care, 32 (7): 1335–43, doi:10.2337/dc09-9032, PMC 2699725, PMID 19564476, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 6 năm 2016
- ↑ Kenny C (tháng 4 năm 2014), "When hypoglycemia is not obvious: diagnosing and treating under-recognized and undisclosed hypoglycemia", Primary Care Diabetes, 8 (1): 3–11, doi:10.1016/j.pcd.2013.09.002, PMID 24100231
- ↑ Verrotti A, Scaparrotta A, Olivieri C, Chiarelli F (tháng 12 năm 2012), "Seizures and type 1 diabetes mellitus: current state of knowledge", European Journal of Endocrinology, 167 (6): 749–58, doi:10.1530/EJE-12-0699, PMID 22956556
- ↑ "Symptoms of Low Blood Sugar", WebMD, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 6 năm 2016, truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016
- ↑ "Glucagon–Injection side effects, medical uses, and drug interactions.", MedicineNet (trong English), truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018
- ↑ Sarwar N, Gao P, Seshasai SR, Gobin R, Kaptoge S, Di Angelantonio E, Ingelsson E, Lawlor DA, Selvin E, Stampfer M, Stehouwer CD, Lewington S, Pennells L, Thompson A, Sattar N, White IR, Ray KK, Danesh J (tháng 6 năm 2010), "Diabetes mellitus, fasting blood glucose concentration, and risk of vascular disease: a collaborative meta-analysis of 102 prospective studies", Lancet, 375 (9733): 2215–22, doi:10.1016/S0140-6736(10)60484-9, PMC 2904878, PMID 20609967
- ↑ O'Gara PT, Kushner FG, Ascheim DD, Casey DE, Chung MK, de Lemos JA, Ettinger SM, Fang JC, Fesmire FM, Franklin BA, Granger CB, Krumholz HM, Linderbaum JA, Morrow DA, Newby LK, Ornato JP, Ou N, Radford MJ, Tamis-Holland JE, Tommaso CL, Tracy CM, Woo YJ, Zhao DX, Anderson JL, Jacobs AK, Halperin JL, Albert NM, Brindis RG, Creager MA, DeMets D, Guyton RA, Hochman JS, Kovacs RJ, Kushner FG, Ohman EM, Stevenson WG, Yancy CW (tháng 1 năm 2013), "2013 ACCF/AHA guideline for the management of ST-elevation myocardial infarction: a report of the American College of Cardiology Foundation/American Heart Association Task Force on Practice Guidelines", Circulation, 127 (4): e362–425, doi:10.1161/CIR.0b013e3182742cf6, PMID 23247304
- ↑ a b c d Diabetes Programme, World Health Organization, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 26 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014
- ↑ "Diabetes – eye care: MedlinePlus Medical Encyclopedia", medlineplus.gov (trong English), truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2018
- ↑ Cukierman, T (ngày 8 tháng 11 năm 2005), "Cognitive decline and dementia in diabetes – systematic overview of prospective observational studies", Diabetologia, 48 (12): 2460–69, doi:10.1007/s00125-005-0023-4, PMID 16283246
- ↑ Yang Y, Hu X, Zhang Q, Zou R (tháng 11 năm 2016), "Diabetes mellitus and risk of falls in older adults: a systematic review and meta-analysis", Age and Ageing, 45 (6): 761–67, doi:10.1093/ageing/afw140, PMID 27515679
- ↑ a b Williams textbook of endocrinology (lxb. 12th), Elsevier/Saunders, 2011, tr. 1371–1435, ISBN 978-1-4377-0324-5
- ↑ Lambert P, Bingley PJ (2002), "What is Type 1 Diabetes?", Medicine, 30: 1–5, doi:10.1383/medc.30.1.1.28264
- ↑ "Classification of Diabetes mellitus 2019", WHO (trong English), truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2020
- ↑ Tuomi T, Santoro N, Caprio S, Cai M, Weng J, Groop L (tháng 3 năm 2014), "The many faces of diabetes: a disease with increasing heterogeneity", Lancet, 383 (9922): 1084–94, doi:10.1016/S0140-6736(13)62219-9, PMID 24315621, S2CID 12679248
- ↑ Rother KI (tháng 4 năm 2007), "Diabetes treatment—bridging the divide", The New England Journal of Medicine, 356 (15): 1499–501, doi:10.1056/NEJMp078030, PMC 4152979, PMID 17429082
- ↑ a b Diabetes Mellitus (DM): Diabetes Mellitus and Disorders of Carbohydrate Metabolism: Merck Manual Professional, Merck Publishing, tháng 4 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 28 tháng 7 năm 2010, truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2010
- ↑ Dorner M, Pinget M, Brogard JM (tháng 5 năm 1977), "[Essential labile diabetes (author's transl)]", MMW, Munchener Medizinische Wochenschrift (trong Deutsch), 119 (19): 671–74, PMID 406527
- ↑ a b Petzold A, Solimena M, Knoch KP (tháng 10 năm 2015), "Mechanisms of Beta Cell Dysfunction Associated With Viral Infection", Current Diabetes Reports (Review), 15 (10): 73, doi:10.1007/s11892-015-0654-x, PMC 4539350, PMID 26280364,
So far, none of the hypotheses accounting for virus-induced beta cell autoimmunity has been supported by stringent evidence in humans, and the involvement of several mechanisms rather than just one is also plausible.
- ↑ Butalia S, Kaplan GG, Khokhar B, Rabi DM (tháng 12 năm 2016), "Environmental Risk Factors and Type 1 Diabetes: Past, Present, and Future", Canadian Journal of Diabetes (Review), 40 (6): 586–93, doi:10.1016/j.jcjd.2016.05.002, PMID 27545597
- ↑ Serena G, Camhi S, Sturgeon C, Yan S, Fasano A (tháng 8 năm 2015), "The Role of Gluten in Celiac Disease and Type 1 Diabetes", Nutrients, 7 (9): 7143–62, doi:10.3390/nu7095329, PMC 4586524, PMID 26343710
- ↑ Visser J, Rozing J, Sapone A, Lammers K, Fasano A (tháng 5 năm 2009), "Tight junctions, intestinal permeability, and autoimmunity: celiac disease and type 1 diabetes paradigms", Annals of the New York Academy of Sciences, 1165 (1): 195–205, Bibcode:2009NYASA1165..195V, doi:10.1111/j.1749-6632.2009.04037.x, PMC 2886850, PMID 19538307
- ↑ Laugesen E, Østergaard JA, Leslie RD (tháng 7 năm 2015), "Latent autoimmune diabetes of the adult: current knowledge and uncertainty", Diabetic Medicine, 32 (7): 843–52, doi:10.1111/dme.12700, PMC 4676295, PMID 25601320
- ↑ American Diabetes Association (tháng 1 năm 2017), "2. Classification and Diagnosis of Diabetes", Diabetes Care, 40 (Suppl 1): S11–S24, doi:10.2337/dc17-S005, PMID 27979889
- ↑ Carris NW, Magness RR, Labovitz AJ (tháng 2 năm 2019), "Prevention of Diabetes Mellitus in Patients With Prediabetes", The American Journal of Cardiology, 123 (3): 507–512, doi:10.1016/j.amjcard.2018.10.032, PMC 6350898, PMID 30528418
- ↑ a b Risérus U, Willett WC, Hu FB (tháng 1 năm 2009), "Dietary fats and prevention of type 2 diabetes", Progress in Lipid Research, 48 (1): 44–51, doi:10.1016/j.plipres.2008.10.002, PMC 2654180, PMID 19032965
- ↑ Malik VS, Popkin BM, Bray GA, Després JP, Hu FB (tháng 3 năm 2010), "Sugar-sweetened beverages, obesity, type 2 diabetes mellitus, and cardiovascular disease risk", Circulation, 121 (11): 1356–64, doi:10.1161/CIRCULATIONAHA.109.876185, PMC 2862465, PMID 20308626
- ↑ Malik VS, Popkin BM, Bray GA, Després JP, Willett WC, Hu FB (tháng 11 năm 2010), "Sugar-sweetened beverages and risk of metabolic syndrome and type 2 diabetes: a meta-analysis", Diabetes Care, 33 (11): 2477–83, doi:10.2337/dc10-1079, PMC 2963518, PMID 20693348
- ↑ Hu EA, Pan A, Malik V, Sun Q (tháng 3 năm 2012), "White rice consumption and risk of type 2 diabetes: meta-analysis and systematic review", BMJ, 344: e1454, doi:10.1136/bmj.e1454, PMC 3307808, PMID 22422870
- ↑ Lee IM, Shiroma EJ, Lobelo F, Puska P, Blair SN, Katzmarzyk PT (tháng 7 năm 2012), "Effect of physical inactivity on major non-communicable diseases worldwide: an analysis of burden of disease and life expectancy", Lancet, 380 (9838): 219–29, doi:10.1016/S0140-6736(12)61031-9, PMC 3645500, PMID 22818936