Cổ Loa

Cổ Loa thành là di tích khảo cổ tại địa phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Đây thường được coi là kinh đô nước Âu Lạc thời An Dương Vương thế kỷ III TCN và triều đại Ngô Quyền thế kỷ XX SCN.

Lịch sử

Loading map...

Tọa độ địa lý được cho là của di tích Loa thành

Theo Sưu thần ký, năm thứ 27 đời Tần Huệ vương, sai Trương Nghi xây thành ở Thành Đô, nhiều lần bị sụp. Bỗng có con rùa lớn nổi trên sông Dương Tử, bơi tới góc Đông Nam của tử thành phía Đông thì chết. Nghi đem việc ấy hỏi vu sư, sư nói : “Xây thành giống hình rùa”. Nghi liền làm theo, gọi là Quy Hóa thành. Trong đó, chữ "quy hóa" 亀化 khá gần tự dạng "cổ loa" 古螺 cả âm và lối ghi cổ.

Theo tiến sĩ Lê Chí Quế, "cổ loa" là lối kí âm Hán của từ k'la, tức kẻ La trong tiếng Việt trung đại, địa danh vẫn tồn tại cho tới đầu thế kỷ XX trước khi phủ thủ hiến Bắc Việt cải cách hành chính phía Bắc Hà Nội năm 1950 (đổi K'noi thành Cổ Nhuế, K'lu thành Kim Lũ, Tlem/Chèm thành Từ Liêm...). Đọc theo lối hiện đại là "con gà", tương ứng truyền thuyết Bạch Kê tinh quấy việc xây thành ; còn "thục phán" trong ngôn ngữ Tàytúkpăn, hàm nghĩa "thủ lĩnh", tương tự trường hợp "chao, chau" (triệu) trong ngôn ngữ Thái, "po t'ring" (bộ lĩnh, bồ chính) trong ngôn ngữ Champa hoặc "kurung, turun" (hùng, trưng) trong ngôn ngữ Minangkabau (chữ "minang/manang/mling" gần đây được học giới đồng nhất với tự dạng "văn lang, mê linh", góp phần củng cố giả thuyết người Minangkabau đã di cư từ Bắc Bộ tới Sumatra và đem nhiều di sản của ngữ hệ Việt cổ đã thất truyền tại chính Việt Nam). Khi khảo sát thực địa thập niên 1960, các nhà khoa học đã tìm thấy những trầm tích cổ hơn cả thời được coi là An Dương Vương dưới nền xóm Gà (nay thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Vậy "cổ loa" cũng có thể ước đoán là Bạch-kê thành (白雞城).

Điểm trùng hợp ngẫu nhiên giữa cứ liệu Sưu thần ký và quan điểm của tiến sĩ họ Lê là, nền Quy Hóa thành nguyên sơ là địa danh Mã ấp (xóm Ngựa), cho nên thành có tên gọi khác là Mã-ấp thành (馬邑城)[1]. Cũng khớp với các huyền tích kiến thành Tràng An thời ĐinhThăng Long thời . Tương truyền, khi Lý Thái Tổ dựng kinh đô ở khoảng giữa hồ Tây và sông Tô Lịch, thành cứ xây xong lại đổ, vua bèn tới đền Long Đỗ khấn, bỗng có con bạch mã từ nội điện chạy ra, vua cứ theo vết móng ngựa vào cho đóng móng xây thành, khiến thành vững chãi suốt cả ngàn năm.

Trước kia, người Tần cất thành ở ải Võ Châu nhằm phòng bị rợ Hồ. Nhưng thành cứ xây xong lại đổ khiến vô số kẻ chết. Bỗng đâu có con ngựa chạy qua chạy lại, phụ lão lấy làm lạ, bèn theo đó mà xây. Tự bấy thành không đổ nữa, bèn đặt tên Mã Ấp.
昔秦人築城於武周塞以備胡,城將成而崩者數矣,有馬馳走周旋反复,父老異之,因依而築,城乃不崩,遂名馬邑。

— Nguyên Hòa quận huyện chí (元和郡縣志), 813 SCN

Mà theo tác giả Philippe Papin trong cuốn Histoire de Hanoï năm 2001, ngay từ đầu Công nguyên, toàn bộ đồng bằng sông Hồng - gồm Hà Nội hiện đại - còn nằm dưới mực nước biển, nên ngoại trừ gò Cây Táo (tương ứng thôn Triều Khúc ngày nay) khả dĩ trên mép nước một chút, thì không lý gì người Việt lại dựng nhà cửa ở vùng nước trũng ; cho nên, sự tồn tại một kinh thành ở khu vực Hà Nội là điều khó xảy ra. Ông cũng nhấn mạnh, trừ phi điều đó là sự "chữa" sử ký nhằm hợp thức hóa việc tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan hiện đại. Còn theo tiến sĩ Lê Mạnh Thát, thành Cổ Loa có sớm nhất từ thời Ngô Quyền, trong khi truyền thuyết An Dương Vương xuất hiện khá muộn ở trung đại, một cách phản ánh Mahabharata theo nhãn quan người Việt. Tuy nhiên, tới nay chưa biết thuyết nào xác đáng hơn.

  • Truyền thuyết Thái Vân Nam: Khoun Bourôm thống nhất lục chiếu, bèn chiếm Muang Thèn lập kinh đô. Thành hễ cất được ít lâu thì đàng xa có tiếng gà gáy, lại sập, khiến biết bao người chết. Nhà chúa phải cầu đảo bách thần, ma rừng ma nước... thế rồi có cụ già tới chỉ cách dựng thành trên cái gò hình con rùa, lại niệm chú. Tự bấy thành không đổ nữa / Nước Đại Lý có lĩnh chúa họ Đoàn tự lập làm vua, bèn dấy quân đi đánh chúa quỷ Atula. Quỷ vương bèn bắt vợ Đoàn lĩnh chúa về dinh của nó. Chúa phải mượn cây nỏ có lẫy bằng móng thần rùa vốn là linh vật họ Đoàn từ đời cố tổ. Nỏ phóng ra những mũi tên sắc lẹm, phá tan thành ấp quỷ, nhưng vô tình giết luôn thê thiếp tông tộc quỷ vương và cả vợ lĩnh chúa Đoàn. Sau khi diệt xong quỷ dữ, Đoàn lĩnh chúa cho dựng thành trên nền dinh ấy.
  • Huyền tích Tày-Nùng: Chúa Nông Trí Cao xưng đế, dựa vào châu Thảng Do để cự nhà Lý. Bèn cất ở đấy một đô thành, gọi là Tà Dích (Đại Lịch), nhưng thành cứ xây xong lại sập. Nhà chúa bèn lập đàn khấn thần linh, thần bèn hóa con rùa vàng óng bò lại. Rùa bò tới đâu thì đất cứng đến đấy, chúa mừng quá bèn đóng cọc xây thành, không bao giờ đổ nữa. Nhân đó đổi tên thành là Tà Nám (Đại Nam). Thần rùa rút ở chân ra cái móng, bảo hễ lúc nào bị quan quân triều đình truy bắt thì đem ra dùng. Nông Trí Cao không tin, sau quả nhiên ứng nghiệm, khi lấy cái móng rùa ra thì đột nhiên có cơn gió đưa đi vạn dặm, tránh khỏi bị bắt.
  • Tam quốc sử ký: Ở thiên quốc bỗng đâu có sáu quả trứng rơi xuống Kê Lâm, trứng nở ra 6 vị vua chia nhau cai trị cõi Hàn. Trong 6 anh em, Thủ Lộ Vương ra trước, bèn bàn cách lập ấp kiến thành ở Kim Hải. Nhưng thành cứ dựng xong thì lúc sẩm tối lại đổ, vua bèn hỏi vu nữ, vu nữ bày rằng phải lập đàn khấn Đông Hải Long Vương. Long Vương nghe có kẻ xướng danh mình, bèn lội nước vào bờ dưới dạng con rùa mai vàng. Rùa cứ bò tới đâu thì Thủ Lộ Vương đóng móng cất thành đến đấy. Thành vì thế vững chãi, bọn hải khấu đánh mãi cũng không đổ.
  • Huyền thoại Kalmyk: Xưa kia, đại hãn Biệt Ca lập đô thành Tát Lai ở tả ngạn Volga nhằm phô trương thanh thế. Nhưng hễ khi mặt trời lặn thì móng thành đứt tung như có quỷ gặm (dị bản cho là linh cẩu), hãn bèn sai người cháu là Na Hải tìm hiểu. Khi đêm buông, Na Hải trốn sau cái gò và thấy những bóng đen chạy tới chạy lại, húc vào chân thành làm bở gạch vữa, ngài bèn tri hô cho binh sĩ ruổi ngựa đuổi theo. Những bóng đen lộ nguyên hình dưới ánh lửa là những con gà có sải cánh rất dài, chạy thục mạng lên phương Bắc. Đại hãn bèn nhờ vu sư khấn thần rùa từ phương Đông tới giúp đánh yêu quái, từ đấy thành không đổ nữa. Nhờ công trạng ấy mà sau khi đại hãn mất, Na Hải được kế nghiệp và lập một hãn quốc lừng lẫy ở ven hồ Kaspy.

Lập thuyết

Bức ảnh chụp năm 1900 về cổ tích Loa thành.

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. Cổ Loa là một đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như vậy, về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc Bộ. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vùng Bắc hay Tây Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thươngsông Lục Nam.

Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một con đoạn phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ đi lại bằng đường bộ hay đường thủy ; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn. Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của văn hóa Đông Sơn.

Thành Cổ Loa được xây bằng đất do thời ấy ở Âu Lạc chưa có gạch nung. Thành có 3 vòng. Chu vi ngoài 8 km, vòng giữa 6,58km, vòng trong 1,6km... Diện tích trung tâm lên tới 2 km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4-5 m, có chỗ 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối. Khu vực Cổ Loa được coi là một nền đất yếu nên việc xây dựng thành Cổ Loa có thể khó khăn và thành bị đổ nhiều lần là dễ hiểu. Khi xẻ dọc thành để nghiên cứu, các nhà khảo cổ học phát hiện kỹ thuật gia cố thành của Thục Phán: chân thành được chẹn một lớp tảng đá. Hòn nhỏ có đường kính 15 cm, hòn lớn có đường kính 60 cm. Xung quanh Cổ Loa, một mạng lưới thủy văn dày đặc đã được tạo ra thành một vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ thủy binh hùng mạnh. Thuở ấy, sông Thiếp – Ngũ Huyền Khê - Hoàng Giang thông với sông CầuThổ Hà, Quả Cảm (Hà Bắc) thông với sông Hồng ở Vĩnh Thanh (Đông Anh). Ngay sau khi xây thành, An Dương Vương đã chiêu tập những thợ mộc giỏi, sử dụng gỗ ở địa phương đóng thuyền chiến. Dân cũng được điều tới khai phá rừng đa (Gia Lâm), rừng Mơ (Mai Lâm), rừng dâu da (Du Lâm)... thành ruộng. Những hiệp thợ chuyên rèn võ khí cũng xuất hiện, chế tạo côn, kiếm, giáo, mácnỏ liên châu, mỗi phát bắn nhiều mũi tên. Có nhiều bằng chứng khảo cổ về sự tồn tại của hàng chục vạn mũi tên đồng, có thể dùng nỏ liên châu ở đây[2].

Khảo chứng

Sơ đồ thành Cổ Loa.

Thành Cổ Loa được đánh giá là "tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ".

Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè. Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá được dùng để kè cho chân thành được vững chắc. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.

Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng thành theo hình trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng ngoài 8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung tâm lên tới 2km². Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy dốc thẳng đứng, mặt trong thoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4–5 m, có chỗ cao đến 8–12 m. Chân lũy rộng 20–30 m, mặt lũy rộng 6–12 m. Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.

  • Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt thành rộng từ 6–12 m, chân rộng từ 20–30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
  • Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10m, mặt thành rộng trung bình 10 m, có bốn cửa ở các hướng đông, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với sông Hồng.
  • Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao trung bình 3–4 m (có chỗ tới hơn 8 m).

Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung bình từ 10m đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường thành không có hình dạng nhất định, khiến thành như một mê cung, là một khu quân sự vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.

Một đoạn tường thành mùa lễ hội.

Sông Hoàng được dùng làm hào thiên nhiên cho thành Ngoại ở về phía Tây Nam và Nam. Phần hào còn lại được đào sát chân tường thành từ gò Cột Cờ đến Đầm Cả. Con hào này nối với hào của thành Trung ở Đầm Cả và Xóm Mít, chảy qua cửa Cống Song nối với năm con lạch có hình dáng như bàn tay xòe, và với một nhánh của con lạch này, nước chảy thông vào vòng hào của thành Nội. Thuyền bè đi lại dễ dàng trên ba vòng hào để đến trú đậu ở Đầm Cả hoặc ra sông Hoàng và từ đó có thể tỏa đi khắp nơi. Theo truyền thuyết, Thục Phán An Dương Vương thường dùng thuyền đi khắp các hào rồi ra sông Hồng.

Trong cấu trúc chung của thành Cổ Loa còn có một yếu tố khác làm phong phú thêm tổng thể kiến trúc này. Đó là những gò đất dài hoặc tròn được đắp rải rác giữa các vòng thành hoặc nằm ngoài thành Ngoại. Không biết được có bao nhiêu ụ, lũy như thế, nhưng một số được dân chúng gọi là Đống Dân, Đống Chuông, Đống Bắn... Các lũy này được dùng làm công sự, có nhiệm vụ của những pháo đài tiền vệ, phối hợp với thành, hào trong việc bảo vệ và chiến đấu. Đây cũng là một điểm đặc biệt của thành Cổ Loa. Cổ Loa cũng được biết đến là một trong những đô thị đầu tiên trong lịch sử An Nam.

  • Về mặt quân sự, thành Cổ Loa thể hiện sự sáng tạo độc đáo của người Việt cổ trong công cuộc giữ nước và chống ngoại xâm. Với các bức thành kiên cố, với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy, Cổ Loa là một căn cứ phòng thủ vững chắc để bảo vệ vua, triều đình và kinh đô. Đồng thời là một căn cứ kết hợp hài hòa thủy binh cùng bộ binh. Nhờ ba vòng hào thông nhau dễ dàng, thủy binh có thể phối hợp cùng bộ binh để vận động trên bộ cũng như trên nước khi tác chiến.
  • Về mặt xã hội, với sự phân bố từng khu cư trú cho vua, quan, binh lính, thành Cổ Loa là một chứng cứ về sự phân hóa của xã hội thời ấy. Thời kỳ này, vua quan không những đã tách khỏi dân chúng mà còn phải được bảo vệ chặt chẽ, sống gần như cô lập hẳn với cuộc sống bình thường. Xã hội đã có giai cấp rõ ràng và xã hội có sự phân hóa giàu nghèo rõ ràng hơn thời Vua Hùng.
  • Về mặt văn hóa, là một tòa thành cổ nhất còn để lại dấu tích, Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa, một bằng chứng về sự sáng tạo, về trình độ kỹ thuật cũng như văn hóa của người Việt cổ. Đá kè chân thành, gốm rải rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình hiểm trở ngoằn ngoèo, tất cả những điều này làm chứng cho nghệ thuật và văn hóa thời An Dương Vương. Hàng năm, vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, cư dân Cổ Loa tổ chức một lễ trang trọng để tưởng nhớ đến những người xưa đã có công xây thành, và nhất là để ghi ơn An Dương Vương.

Hiện Cổ Loa là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam, và vào ngày 27/9/2012 Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.[3] Trên địa phận thành, các nhà khảo cổ đã từng khai quật được nhiều mộ cổ, hàng vạn mũi tên đồng ba cạnh, khuôn đúc mũi tên, rìu lưỡi xéo bằng đồng, trống đồng và thậm chí cả ngói ống bằng gốm chịu ảnh hưởng từ kiến trúc Trung Hoa.

Văn hóa

Địa danh Cổ Loa là nguồn gốc của nhiều lễ hội tâm linh thể hiện sự kính thờ tổ tiên của người Việt từ sơ kì hiện đại. Trong thời kì chiến tranh Việt Nam, hình tượng An Dương Vương mượn nỏ thần chống ngoại xâm từng cổ vũ nhiều lớp thanh niên từ ghế giảng đường ra chiến trường. Nhưng sau chiến tranh, truyện Mị Châu vì tình riêng mà trở thành vật hiến sinh cho cuộc xâm lăng từ phương Bắc lại được nhà thơ Tố Hữu ngầm tái nhận thức về sự cần thiết phải đổi mới cơ chế chính trị xã hội đã quá lạc hậu.

Xem thêm

Tham khảo

  1. 『捜神記』亀による築城
  2. Viện sử học (1991), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, tr. 133-134.
  3. Di tích Cổ Loa nhận Bằng di tích quốc gia đặc biệt, ngày 14 tháng 2 năm 2013, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2018 Bỏ qua tham số chưa biết |nơi xuất bản= (trợ giúp)

Nội ngữ

Ngoại ngữ

  • Higham, Charles (1996), The Bronze Age of Southeast Asia, Cambridge World Archaeology, ISBN 0-521-56505-7
  • Ray, Nick; et al. (2010), "Co Loa Citadel", Vietnam, Lonely Planet, tr. 123, ISBN 9781742203898.
  • Co Loa and the Story of the Headless Princess
  • Jean-François Hubert Le Vietnam des royaumes 1995 Cercle d’Art
  • Jean-François Hubert L’âme du Vietnam 1996 Cercle d’Art
  • Jean-François Hubert La fleur du pêcher et l'oiseau d'azur, Arts du Vietnam - Catherine Noppe, Collectif - Jean-François Hubert Éditeur Renaissance du Livre (La)
  • Jean-François Hubert Art du Vietnam et du sud-est asiatique
  • Nguyễn Khắc Viện - Vietnam une longue histoire Ed: GIOI éd: 1987 - Dernière éd: 2012