Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Ung thư tụy”
Dòng 44: Dòng 44:
  
 
[[U nguyên bào tụy]] là một dạng hiếm, chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ và có tiên lượng tương đối tốt. Ung thư ngoại tiết khác gồm [[ung thư biểu mô tuyến vảy]], [[ung thư biểu mô tế bào dấu nhẫn]], [[ung thư biểu mô dạng gan]], ung thư biểu mô dạng keo, ung thư biểu mô không biệt hóa, và ung thư biểu mô không biệt hóa với [[cự bào]] giống [[hủy cốt bào]]. [[U đặc giả nhú]] là một u cấp độ thấp hiếm thấy chủ yếu tác động phụ nữ trẻ và nhìn chung có tiên lượng rất tốt.<ref name="NEJM14" /><ref name="JHM-SGPCRC">{{cite web |publisher= Johns Hopkins Medicine |website= The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center |url= http://pathology.jhu.edu/pancreas/BasicTypes2.php?area=ba |title= Types of Pancreas Tumors |date= 2012 |access-date= 18 November 2014 |url-status= live |archive-url= https://web.archive.org/web/20141008022815/http://pathology.jhu.edu/pancreas/BasicTypes2.php?area=ba |archive-date= 8 October 2014 |df= dmy-all }}</ref>
 
[[U nguyên bào tụy]] là một dạng hiếm, chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ và có tiên lượng tương đối tốt. Ung thư ngoại tiết khác gồm [[ung thư biểu mô tuyến vảy]], [[ung thư biểu mô tế bào dấu nhẫn]], [[ung thư biểu mô dạng gan]], ung thư biểu mô dạng keo, ung thư biểu mô không biệt hóa, và ung thư biểu mô không biệt hóa với [[cự bào]] giống [[hủy cốt bào]]. [[U đặc giả nhú]] là một u cấp độ thấp hiếm thấy chủ yếu tác động phụ nữ trẻ và nhìn chung có tiên lượng rất tốt.<ref name="NEJM14" /><ref name="JHM-SGPCRC">{{cite web |publisher= Johns Hopkins Medicine |website= The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center |url= http://pathology.jhu.edu/pancreas/BasicTypes2.php?area=ba |title= Types of Pancreas Tumors |date= 2012 |access-date= 18 November 2014 |url-status= live |archive-url= https://web.archive.org/web/20141008022815/http://pathology.jhu.edu/pancreas/BasicTypes2.php?area=ba |archive-date= 8 October 2014 |df= dmy-all }}</ref>
 +
 +
[[U nang nhầy tụy]] là một nhóm u tụy đa dạng có tiềm năng ác tính khác nhau. Chúng đang được phát hiện ngày một nhiều nhờ sự hiệu quả và phổ biến gia tăng của chụp CT. Thẩm định và điều trị thế nào cho phù hợp là điều được tiếp tục bàn luận khi không ít trường hợp là lành tính.<ref>{{cite journal | vauthors = Farrell JJ, Fernández-del Castillo C | title = Pancreatic cystic neoplasms: management and unanswered questions | journal = Gastroenterology | volume = 144 | issue = 6 | pages = 1303–15 | date = June 2013 | pmid = 23622140 | doi = 10.1053/j.gastro.2013.01.073 }}</ref>
  
 
== Dấu hiệu và triệu chứng ==
 
== Dấu hiệu và triệu chứng ==

Phiên bản lúc 15:33, ngày 24 tháng 6 năm 2021

Ung thư tụy
Diagram showing the position of the pancreas CRUK 356-vi.svg
Giản đồ mô tả vị trí của tụy, nằm sau dạ dày.
Chuyên khoaVị tràng học, gan học, ung thư học
Triệu chứngVàng da, đau bụng hoặc đau lưng, sụt cân không rõ nguyên nhân, phân nhạt màu, nước tiểu đậm, chán ăn[1]
Khởi phátSau 40 tuổi[2]
Yếu tố nguy cơHút thuốc lá, lạm dụng đồ uống có cồn, béo phì, tiểu đường, tình trạng di truyền hiếm gặp[2]
Chẩn đoánTạo ảnh y khoa, xét nghiệm máu, sinh thiết mô[3][4]
Phòng ngừaKhông hút thuốc, giảm tiêu thụ đồ uống có cồn, duy trì cân nặng phù hợp, chế độ ăn ít thịt đỏ[5]
Điều trịPhẫu thuật, xạ trị, hóa trị, chăm sóc giảm nhẹ[1]
Tiên lượngTỷ lệ sống năm năm 6%[6]
Số người mắc393.800 (2015)[7]
Số người chết411.600 (2015)[8]

Ung thư tụy phát sinh khi các tế bào ở tụy, một cơ quan phía sau dạ dày, bắt đầu nhân lên vượt tầm kiểm soát và tạo thành khối u. Các tế bào ung thư này có khả năng xâm lấn những bộ phận khác của cơ thể.[9] Cho đến nay con người đã biết đến một số loại ung thư tụy.[10]

Trong đó, ung thư biểu mô tuyến tụy là loại phổ biến nhất, chiếm đến 90% số ca[11] và thuật ngữ "ung thư tụy" đôi khi được dùng chỉ để nói đến loại này.[10] Ung thư biểu mô tuyến khởi phát trong phần tụy mà tạo ra enzyme tiêu hóa.[10] Một vài loại ung thư khác mà tựu chung chiếm chủ yếu ngoài ung thư biểu mô tuyến cũng có thể phát sinh từ những tế bào này.[10] Khoảng 1–2% trường hợp ung thư tụy là u thần kinh nội tiết khởi nguồn từ các tế bào tụy sản sinh hormone.[10] Những loại này nhìn chung không nguy hiểm bằng ung thư biểu mô tuyến tụy.[10]

Dấu hiệu và triệu chứng của dạng ung thư tụy phổ biến nhất có thể là vàng da, đau bụng hoặc đau lưng, sụt cân không rõ nguyên nhân, phân nhạt màu, nước tiểu đậm, và chán ăn.[1] Thông thường, không có triệu chứng nào biểu hiện vào giai đoạn sớm và những triệu chứng đặc trưng đủ để gợi đến ung thư tụy thường chỉ thấy khi bệnh đã bước vào giai đoạn muộn.[1][2] Bởi vậy tại thời điểm chẩn đoán, ung thư tụy thường đã di căn sang những bộ phận khác của cơ thể.[10][12]

Ung thư tụy hiếm khi xảy ra với người dưới 40 tuổi và hơn nửa số ca ung thư biểu mô tuyến tụy là ở người trên 70 tuổi.[2] Yếu tố nguy cơ gồm hút thuốc lá, béo phì, tiểu đường, và một số tình trạng di truyền hiếm gặp.[2] Khoảng 25% ca liên quan đến hút thuốc lá[3] và 5–10% liên quan đến gen thừa hưởng.[2] Ung thư tụy thường được chẩn đoán bằng cách kết hợp các kỹ thuật tạo ảnh y khoa như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính, xét nghiệm máu, khám nghiệm các mẫu mô (sinh thiết).[3][4] Căn bệnh được chia thành những giai đoạn, từ sớm (giai đoạn I) đến muộn (giai đoạn IV).[12] Tầm soát dân số nói chung không tỏ ra hiệu quả.[13]

Người không hút thuốc, người duy trì cân nặng phù hợp và hạn chế ăn thịt chế biến hay thịt đỏ có nguy cơ mắc bệnh thấp hơn.[5] Với người hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh giảm xuống nếu ngừng hút và giảm đến ngang với người bình thường sau 20 năm bỏ thuốc.[10] Phương pháp điều trị ung thư tụy là phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, chăm sóc giảm nhẹ, hoặc kết hợp các cách này.[1] Chữa thế nào tùy thuộc một phần vào giai đoạn ung thư.[1] Chỉ có phẫu thuật mới đem đến cơ hội chữa khỏi ung thư biểu mô tuyến tụy[12] và cách này còn có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống nếu không bàn đến việc chữa khỏi.[1][12] Các thuốc giảm đau và cải thiện tiêu hóa đôi khi cần đến.[12] Chăm sóc giảm nhẹ sớm được khuyến cáo kể cả cho người điều trị hướng đến mục tiêu khỏi bệnh.[14]

Vào năm 2015, ung thư tụy mọi loại đã khiến 411.600 người tử vong trên thế giới.[8] Căn bệnh thường xảy ra ở các nước phát triển, một ví dụ là 70% ca mới thuộc nhóm nước này trong năm 2012.[10] Ung thư biểu mô tuyến tụy thường có tiên lượng rất xấu; sau chẩn đoán, 25% bệnh nhân sống được một năm và 5% bệnh nhân sống được năm năm.[6][10] Với trường hợp chẩn đoán sớm, tỷ lệ sống năm năm tăng đến khoảng 20%.[15] Ung thư thần kinh nội tiết có tiên lượng tốt hơn khi mà 65% số người được chẩn đoán sống sót sau năm năm, dẫu vậy còn có sự khác biệt đáng kể tùy vào loại khối u.[10]

Các loại

Nhiều loại ung thư tụy có thể được chia thành hai nhóm tổng quát. Hầu hết trường hợp (khoảng 95%) xảy ra ở phần tụy mà tạo ra enzyme tiêu hóa, gọi là thành phần ngoại tiết. Một vài loại con của ung thư tụy ngoại tiết đã được mô tả nhưng chúng có nhiều điểm chung về phương diện chẩn đoán và điều trị. Số ít ung thư phát sinh ở mô tụy sinh hormone có đặc điểm lâm sàng khác biệt và được gọi là u thần kinh nội tiết tụy, đôi khi viết tắt là "PanNET". Cả hai nhóm xảy ra chủ yếu ở người trên 40 tuổi và phổ biến ở nam hơn một chút, nhưng một số loại con hiếm gặp thì phụ nữ và trẻ em lại là đối tượng hay mắc.[16][17]

Ung thư ngoại tiết

Nổi bật trong nhóm ngoại tiết là ung thư biểu mô tuyến tụy (các biến thể của tên gọi có thể thêm "xâm lấn" và "ống"), cho đến nay là loại phổ biến nhất ứng với khoảng 85% mọi ca ung thư tụy.[2] Gần như tất cả trường hợp đều khởi đầu trong ống tụy, là ung thư biểu mô tuyến ống tụy (PDAC).[18] Điều này bất chấp thực tế là mô mà từ đó ung thư phát sinh (biểu mô ống tụy) chỉ chiếm chưa đến 10% khối lượng tế bào tụy, bởi nó chỉ cấu thành duy nhất các ống trong tụy.[19] Ung thư này có nguồn gốc từ các ống mà mang chất tiết (như enzymebicarbonate) ra khỏi tụy. Khoảng 60–70% trường hợp ung thư biểu mô tuyến xảy ra ở đầu tụy.[2]

Loại phổ biến thứ hai là ung thư biểu mô tế bào chùm nang, phát sinh ở các cụm tế bào sản sinh enzyme và chiếm 5% trường hợp ung thư tụy ngoại tiết.[20] Giống những ung thư nội tiết 'hoạt động', ung thư tế bào nang có thể khiến tạo ra quá nhiều những phân tử nhất định, trường hợp này là enzyme tiêu hóa, qua đó khả năng gây nên triệu chứng như ban da và đau khớp.

Ung thư biểu mô nang tuyến chiếm 1% mọi ca ung thư tụy và có tiên lượng tốt hơn những loại ngoại tiết khác.[20]

U nguyên bào tụy là một dạng hiếm, chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ và có tiên lượng tương đối tốt. Ung thư ngoại tiết khác gồm ung thư biểu mô tuyến vảy, ung thư biểu mô tế bào dấu nhẫn, ung thư biểu mô dạng gan, ung thư biểu mô dạng keo, ung thư biểu mô không biệt hóa, và ung thư biểu mô không biệt hóa với cự bào giống hủy cốt bào. U đặc giả nhú là một u cấp độ thấp hiếm thấy chủ yếu tác động phụ nữ trẻ và nhìn chung có tiên lượng rất tốt.[2][21]

U nang nhầy tụy là một nhóm u tụy đa dạng có tiềm năng ác tính khác nhau. Chúng đang được phát hiện ngày một nhiều nhờ sự hiệu quả và phổ biến gia tăng của chụp CT. Thẩm định và điều trị thế nào cho phù hợp là điều được tiếp tục bàn luận khi không ít trường hợp là lành tính.[22]

Dấu hiệu và triệu chứng

Vì không gây những triệu chứng giúp nhận biết ở giai đoạn sớm nên ung thư tụy thường không được chẩn đoán cho đến khi đã lan ra ngoài tụy.[4] Đây là một trong những lý do chính khiến tỷ lệ sống nhìn chung thấp. Có ngoại lệ là u thần kinh nội tiết tụy (PanNET) bởi sự sản sinh quá mức những hormone hoạt tính khác nhau có thể gây ra triệu chứng (còn phụ thuộc vào loại hormone).[23]

Các triệu chứng phổ biến của ung thư biểu mô tuyến tụy xảy ra trước chẩn đoán gồm:

  • Đau ở bụng trên hoặc lưng, thường lan từ vùng dạ dày đến lưng. Vị trí đau có thể chỉ ra phần tụy có khối u. Cơn đau có thể nặng hơn vào ban đêm và gia tăng qua thời gian tới mức dữ dội và không ngừng.[20] Gập người về phía trước có thể giúp giảm đau một chút.
  • Vàng da, củng mạc hoặc da chuyển màu vàng, có thể đau hoặc không và khả năng đi kèm với nước tiểu đậm. Lý do là khối u ở đầu tụy cản trở ống mật chủ đi qua.[24]
  • Sụt cân không rõ nguyên nhân, bắt nguồn từ chán ăn hoặc mất chức năng ngoại tiết dẫn đến tiêu hóa kém.[12]
  • Khối u có thể chèn ép các cơ quan lân cận, làm gián đoạn quá trình tiêu hóa và khiến dạ dày khó mà trống rỗng. Hệ quả là cảm giác buồn nôn và đầy bụng. Chất béo không được tiêu hóa sinh ra phân mỡ, mùi khó chịu và không dễ để rửa sạch.[12] Táo bón cũng là tình trạng phổ biến.[25]
  • Ít nhất 50% người mắc ung thư biểu mô tuyến tụy bị tiểu đường lúc chẩn đoán.[2] Trong khi tiểu đường mãn tính là một yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư tụy thì chính ung thư tụy cũng có thể gây tiểu đường. Với trường hợp này thì việc mới mắc tiểu đường gần đây có thể được xem là dấu hiệu sớm của ung thư tụy.[26] Người trên 50 tuổi mắc tiểu đường có nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến tụy cao gấp 8 lần trong vòng ba năm, sau đó nguy cơ giảm đi.[12]

Những phát hiện khác

Những biểu hiện phổ biến khác của bệnh bao gồm dễ trở nên mệt mỏi và yếu đuối, khô miệng, các vấn đề về giấc ngủ, và một khối u ở bụng có thể sờ thấy.[25]

Di căn

Mặt cắt ngang một lá gan người lúc khám nghiệm tử thi. Có thể thấy nhiều nốt trắng lớn là u thứ phát có nguồn gốc từ ung thư tụy

Ung thư tụy lan sang cơ quan khác cũng có thể gây ra những triệu chứng. Thông thường, ung thư biểu mô tuyến tụy lan ra những hạch bạch huyết đầu tiên, sau đó đến gan hoặc khoang phúc mạc, ruột già, phổi.[3] Ít khi bệnh di căn đến xương và não.[27]

Ung thư ở tụy cũng có thể là thứ phát khởi nguồn từ ung thư ở những bộ phận khác của cơ thể. Trường hợp này không phổ biến, chỉ thấy ở 2% ca bệnh. Cho đến nay ung thư thận là nguồn gốc phổ biến nhất của ung thư tụy thứ phát, kế đến là ung thư đại trực tràng, những loại ung thư da, ung thư vú, và ung thư phổi. Những trường hợp này có thể thực hiện phẫu thuật ở tụy với hy vọng chữa khỏi hoặc giảm nhẹ triệu chứng.[28]

Yếu tố nguy cơ

Yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư biểu mô tuyến tụy gồm:[2][10][12][29][30]

Đồ uống có cồn

Uống quá nhiều đồ uống có cồn là nguyên nhân chính gây viêm tụy mạn tính và đó khả năng cao lại là tiền thân của ung thư tụy. Tuy nhiên nghiên cứu không thể chứng minh chắc chắn tiêu thụ đồ uống có cồn là yếu tố nguy cơ trực tiếp dẫn đến ung thư tụy. Nhìn chung, mối liên hệ nhất quán là mờ nhạt và đa số nghiên cứu không tìm ra liên hệ trong bối cảnh hút thuốc lá là yếu tố làm nhiễu đáng kể. Bằng chứng là mạnh hơn đối với hành vi uống nhiều, ít nhất 84 gam cồn một ngày.[3][36]

Sinh lý bệnh

Ảnh hiển vi ung thư biểu mô tuyến ống tụy (loại ung thư tụy phổ biến nhất), nhuộm H&E

Tiền ung thư

Ung thư ngoại tiết được cho phát sinh từ một số loại thương tổn tiền ung thư trong tụy, nhưng những thương tổn này không phải luôn luôn tiến triển thành ung thư.[3] Trừ u nang thanh dịch tụy gần như luôn luôn là lành tính, có bốn loại tổn thương tiền ung thư được công nhận.

Loại đầu tiên là tân sinh nội biểu mô tụy. Những tổn thương này là dị thường hiển vi trong tụy và thường được phát hiện khi khám nghiệm tử thi những người không có chẩn đoán ung thư. Chúng có thể phát triển từ cấp độ thấp đến cao rồi thành một khối u. Hơn 90% ca ở mọi cấp độ mang một gen KRAS hỏng, trong khi ở cấp độ 2 và 3 có thêm ba gen CDKN2A (p16), p53, SMAD4 thường thấy bị tổn hại hơn.[2]

Loại thứ hai là u nhú nhầy trong ống (IPMN). Đây là tổn thương vĩ mô thấy ở khoảng 2% người trưởng thành. Tỷ lệ này tăng đến khoảng 10% với độ tuổi 70. Tổn thương dạng này có 25% nguy cơ phát triển thành ung thư xâm lấn. Chúng có thể mang những đột biến gen KRAS (40–65% ca), GNAS và RNF43, tác động đường truyền tín hiệu Wnt.[2] Kể cả có phẫu thuật loại bỏ thì nguy cơ hình thành ung thư tụy sau đó vẫn tăng đáng kể.[3]

Loại thứ ba là u nang nhầy tụy (MCN), chủ yếu xảy ra ở nữ và có thể duy trì lành tính hoặc tiến triển thành ung thư.[37] Nếu những tổn thương này trở nên lớn, gây triệu chứng hoặc có những đặc điểm đáng ngờ, chúng thường được loại bỏ thành công bằng phẫu thuật.[3]

Loại thứ tư là u nhú ống trong ống. Loại này được WHO công nhận năm 2010 và chiếm khoảng 1–3% mọi dạng u tụy. Độ tuổi chẩn đoán trung bình là 61 (phạm vi 35 đến 78). Khoảng 50% tổn thương dạng này tiến triển xâm lấn. Chẩn đoán phụ thuộc vào mô học bởi những tổn thương này rất khó phân biệt với tổn thương khác trên cơ sở lâm sàng hay bức xạ học.[38]

Ung thư xâm lấn

Các sự kiện gen thấy ở ung thư biểu mô tuyến ống đã được mô tả rõ ràng và con người đã hoàn thành giải trình tự exome đối với những dạng ung bướu phổ biến. Bốn gen được phát hiện đột biến ở đa số ca ung thư biểu mô tuyến: KRAS (95% ca), CDKN2A (cũng 95%), TP53 (75%), và SMAD4 (55%). Trong đó SMAD4 đặc biệt liên hệ với tiên lượng xấu.[3] Khuyết thiếu hay đột biến SWI/SNF xảy ra ở khoảng 10–15% ca ung thư biểu mô tuyến.[2] Những sửa đổi gen ở một số loại ung thư tụy và thương tổn tiền ung thư cũng đã được nghiên cứu.[3] Các phân tích hệ phiên mã và giải trình tự mRNA cho những dạng ung thư tụy phổ biến phát hiện 75% gen người biểu hiện trong khối u, với khoảng 200 gen biểu hiện đặc trưng hơn ở ung thư tụy so với những loại ung bướu khác.[39][40]

PanNET

Các gen mà thường thấy đột biến ở PanNET khác với những gen ở ung thư tụy ngoại tiết.[41] Ví dụ, đột biến KRAS thường không có. Thay vào đó là những đột biến gen MEN1 di truyền gây ra hội chứng MEN1, ở đó u nguyên phát hình thành ở hai hay nhiều hơn tuyến nội tiết. Khoảng 40–70% người sinh ra mang đột biến MEN1 cuối cùng mắc một loại PanNet.[42] Các gen thường xuyên đột biến khác gồm DAXX, mTOR, và ATRX.[43]

Tiên lượng

Kết cục của ung thư tụy theo giai đoạn lâm sàng[44]
Giai đoạn lâm sàng Tỷ lệ sống 5 năm (%) với những
ca được chẩn đoán ở Mỹ (1992–1998)
Ung thư tụy ngoại tiết U nội tiết chữa được
bằng phẫu thuật
IA / I 14 61
IB 12
IIA / II 7 52
IIB 5
III 3 41
IV 1 16

Ung thư biểu mô tuyến tụy và những ung thư ngoại tiết ít phổ biến hơn khác có tiên lượng rất xấu bởi chúng thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn khi mà ung thư đã phát triển cục bộ hoặc lan sang bộ phận khác của cơ thể.[2] Với PanNET thì kết cục tốt hơn nhiều, đa số là lành tính, hoàn toàn không có triệu chứng lâm sàng và kể cả những trường hợp không chữa được bằng phẫu thuật vẫn có tỷ lệ sống năm năm trung bình 16%.[44] Mặc dù vậy triển vọng là khác biệt đáng kể tùy vào loại bệnh.[23]

Đối với ung thư biểu mô tuyến tụy đã tiến triển cục bộ và di căn chiếm hơn 80% ca, nhiều thử nghiệm so sánh những chế độ hóa trị cho thấy cải thiện thời gian sống, tuy nhiên không hơn được một năm.[2][45] Ở Mỹ, tỷ lệ sống năm năm tổng quát của ung thư tụy đã tăng từ 2% ở những ca được chẩn đoán năm 1975–1977 lên 4% năm 1987–1989 và 6% năm 2003–2009.[46] Trong số chưa đến 20% ca ung thư biểu mô tuyến tụy có chẩn đoán khối u nhỏ và cục bộ (dưới 2 cm ở giai đoạn T1), thì khoảng 20% người Mỹ sống được năm năm.[15]

Khoảng 1500 gen có liên quan đến kết cục của ung thư biểu mô tuyến tụy. Trong đó bao gồm những gen bất lợi, tức gen mà nếu biểu hiện cao sẽ dẫn đến kết cục xấu, ví dụ C-MetMUC-1. Ngược lại có những gen có lợi hay gen mà biểu hiện cao sẽ gia tăng cơ hội sống sót, ví dụ là yếu tố phiên mã PELP1.[39][40]

Tham khảo

  1. a b c d e f g "Pancreatic Cancer Treatment (PDQ®) Patient Version", National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 17 tháng 4 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 7 năm 2014, truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014
  2. a b c d e f g h i j k l m n o p q r s Ryan DP, Hong TS, Bardeesy N (tháng 9 năm 2014), "Pancreatic adenocarcinoma", The New England Journal of Medicine, 371 (11): 1039–49, doi:10.1056/NEJMra1404198, PMID 25207767
  3. a b c d e f g h i j k l m n o p q r Wolfgang CL, Herman JM, Laheru DA, Klein AP, Erdek MA, Fishman EK, Hruban RH (tháng 9 năm 2013), "Recent progress in pancreatic cancer", CA: A Cancer Journal for Clinicians, 63 (5): 318–48, doi:10.3322/caac.21190, PMC 3769458, PMID 23856911
  4. a b c d e Vincent A, Herman J, Schulick R, Hruban RH, Goggins M (tháng 8 năm 2011), "Pancreatic cancer" (PDF), Lancet, 378 (9791): 607–20, doi:10.1016/S0140-6736(10)62307-0, PMC 3062508, PMID 21620466, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) 12 tháng 1 2015
  5. a b "Can pancreatic cancer be prevented?", American Cancer Society, ngày 11 tháng 6 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014, truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014
  6. a b "Cancer Facts & Figures 2010" (PDF), American Cancer Society, 2010, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) 14 tháng 1 2015, truy cập 5 tháng 12 2014 See p. 4 for incidence estimates, and p. 19 for survival percentages.
  7. Vos T, Allen C, Arora M, Barber RM, Bhutta ZA, Brown A, et al. (GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990–2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1545–1602, doi:10.1016/S0140-6736(16)31678-6, PMC 5055577, PMID 27733282
  8. a b Wang H, Naghavi M, Allen C, Barber RM, Bhutta ZA, Carter A, et al. (GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980–2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1459–1544, doi:10.1016/s0140-6736(16)31012-1, PMC 5388903, PMID 27733281
  9. What is Cancer? Defining Cancer, National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 7 tháng 3 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 6 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014
  10. a b c d e f g h i j k l m n o World Cancer Report, World Health Organization, 2014, Chapter 5.7, ISBN 978-92-832-0429-9
  11. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Pishvaian2017
  12. a b c d e f g h i j Bond-Smith G, Banga N, Hammond TM, Imber CJ (tháng 5 năm 2012), "Pancreatic adenocarcinoma", BMJ, 344 (may16 1): e2476, doi:10.1136/bmj.e2476, PMID 22592847, S2CID 206894869
  13. "Draft Recommendation Statement: Pancreatic Cancer: Screening – US Preventive Services Task Force", www.uspreventiveservicestaskforce.org, truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2019
  14. Bardou M, Le Ray I (tháng 12 năm 2013), "Treatment of pancreatic cancer: A narrative review of cost-effectiveness studies", Best Practice & Research. Clinical Gastroenterology, 27 (6): 881–92, doi:10.1016/j.bpg.2013.09.006, PMID 24182608
  15. a b "Pancreatic Cancer Treatment (PDQ®) Health Professional Version", National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 21 tháng 2 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 22 tháng 10 năm 2014, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014 "Tỷ lệ chữa khỏi cao nhất là khi khối u thực sự khu biệt ở tụy; tuy nhiên chỉ chưa đến 20% số ca là ở giai đoạn này. Trong trường hợp khối u cục bộ và nhỏ (dưới 2 cm), không có di căn hạch bạch huyết và không vượt ngoài bao tụy, phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vẫn cho ra tỷ lệ sống năm năm thấp từ 18 đến 24%."
  16. Harris RE (2013), "Epidemiology of pancreatic cancer", Epidemiology of Chronic Disease, Jones & Bartlett, tr. 181–190, ISBN 978-0-7637-8047-0, lưu trữ từ tài liệu gốc 24 tháng 6 2016
  17. Öberg K, Knigge U, Kwekkeboom D, Perren A, et al. (ESMO Guidelines Working Group) (tháng 10 năm 2012), "Neuroendocrine gastro-entero-pancreatic tumors: ESMO Clinical Practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up", Annals of Oncology, 23 Suppl 7 (suppl 7): vii124-30, doi:10.1093/annonc/mds295, PMID 22997445 (Table 5 outlines the proposed TNM staging system for PanNETs.)
  18. Handbook of Pancreatic Cancer, New York: Springer, 2009, tr. 288, ISBN 978-0-387-77497-8, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 9 năm 2017, truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2016
  19. Govindan R (2011), DeVita, Hellman, and Rosenberg's Cancer: Cancer: Principles & Practice of Oncology (lxb. 9th), Lippincott Williams & Wilkins, Chapter 35: Cancer of the Pancreas: Surgical Management, ISBN 978-1-4511-0545-2 Online edition, with updates to 2014
  20. a b c Tobias JS, Hochhauser D (2014), Cancer and its Management (lxb. 7th), tr. 297, ISBN 978-1-118-46871-5
  21. "Types of Pancreas Tumors", The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center, Johns Hopkins Medicine, 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc 8 tháng 10 2014, truy cập 18 tháng 11 2014
  22. Farrell JJ, Fernández-del Castillo C (tháng 6 năm 2013), "Pancreatic cystic neoplasms: management and unanswered questions", Gastroenterology, 144 (6): 1303–15, doi:10.1053/j.gastro.2013.01.073, PMID 23622140
  23. a b "Islet Cell Tumors of the Pancreas / Endocrine Neoplasms of the Pancreas", The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center, Johns Hopkins Medicine, 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc 5 tháng 1 2015, truy cập 5 tháng 1 2015
  24. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Cruz
  25. a b Alberts SR, Goldberg RM (2009), "Chapter 9: Gastrointestinal tract cancers", trong Casciato DA, Territo MC (bt.), Manual of clinical oncology, Lippincott Williams & Wilkins, tr. 188–236, ISBN 978-0-7817-6884-9
  26. Pannala R, Basu A, Petersen GM, Chari ST (tháng 1 năm 2009), "New-onset diabetes: a potential clue to the early diagnosis of pancreatic cancer", The Lancet. Oncology, 10 (1): 88–95, doi:10.1016/S1470-2045(08)70337-1, PMC 2795483, PMID 19111249
  27. "Chapter 15; Pancreas" (PDF), Manual for Staging of Cancer (lxb. 2nd), American Joint Committee on Cancer, tr. 95–98, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc 29 tháng 11 2014 See p. 95 for citation regarding "... lesser degree of involvement of bones and brain and other anatomical sites."
  28. Sperti C, Moletta L, Patanè G (tháng 10 năm 2014), "Metastatic tumors to the pancreas: The role of surgery", World Journal of Gastrointestinal Oncology, 6 (10): 381–92, doi:10.4251/wjgo.v6.i10.381, PMC 4197429, PMID 25320654
  29. "Causes of pancreatic cancer", NHS Choices, National Health Service, England, ngày 7 tháng 10 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014
  30. Anderson, Laura N.; Cotterchio, Michelle; Gallinger, Steven (ngày 5 tháng 2 năm 2009), "Lifestyle, dietary, and medical history factors associated with pancreatic cancer risk in Ontario, Canada", Cancer Causes & Control, 20 (6): 825–34, doi:10.1007/s10552-009-9303-5, ISSN 0957-5243, PMC 3907069, PMID 19194662
  31. Bosetti C, Lucenteforte E, Silverman DT, Petersen G, Bracci PM, Ji BT, et al. (tháng 7 năm 2012), "Cigarette smoking and pancreatic cancer: an analysis from the International Pancreatic Cancer Case-Control Consortium (Panc4)", Annals of Oncology, 23 (7): 1880–88, doi:10.1093/annonc/mdr541, PMC 3387822, PMID 22104574
  32. De Rubeis, Vanessa; Cotterchio, Michelle; Smith, Brendan T.; Griffith, Lauren E.; Borgida, Ayelet; Gallinger, Steven; Cleary, Sean; Anderson, Laura N. (ngày 1 tháng 9 năm 2019), "Trajectories of body mass index, from adolescence to older adulthood, and pancreatic cancer risk; a population-based case–control study in Ontario, Canada", Cancer Causes & Control (trong English), 30 (9): 955–66, doi:10.1007/s10552-019-01197-9, ISSN 1573-7225, PMC 6685923, PMID 31230151
  33. Peters ML, Tseng JF, Miksad RA (tháng 7 năm 2016), "Genetic Testing in Pancreatic Ductal Adenocarcinoma: Implications for Prevention and Treatment", Clinical Therapeutics, 38 (7): 1622–35, doi:10.1016/j.clinthera.2016.03.006, PMID 27041411
  34. a b Reznik R, Hendifar AE, Tuli R (2014), "Genetic determinants and potential therapeutic targets for pancreatic adenocarcinoma", Frontiers in Physiology, 5: 87, doi:10.3389/fphys.2014.00087, PMC 3939680, PMID 24624093
  35. Greenhalf W, Grocock C, Harcus M, Neoptolemos J (tháng 5 năm 2009), "Screening of high-risk families for pancreatic cancer", Pancreatology, 9 (3): 215–22, doi:10.1159/000210262, PMID 19349734, S2CID 29100310
  36. Pericleous M, Rossi RE, Mandair D, Whyand T, Caplin ME (tháng 1 năm 2014), "Nutrition and pancreatic cancer", Anticancer Research, 34 (1): 9–21, PMID 24403441
  37. Delpu Y, Hanoun N, Lulka H, Sicard F, Selves J, Buscail L, et al. (tháng 3 năm 2011), "Genetic and epigenetic alterations in pancreatic carcinogenesis", Current Genomics, 12 (1): 15–24, doi:10.2174/138920211794520132, PMC 3129039, PMID 21886451
  38. Rooney SL, Shi J (tháng 10 năm 2016), "Intraductal Tubulopapillary Neoplasm of the Pancreas: An Update From a Pathologist's Perspective", Archives of Pathology & Laboratory Medicine, 140 (10): 1068–73, doi:10.5858/arpa.2016-0207-RA, PMID 27684978
  39. a b "The human pathology proteome in pancreatic cancer – The Human Protein Atlas", www.proteinatlas.org, truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017
  40. a b Uhlen M, Zhang C, Lee S, Sjöstedt E, Fagerberg L, Bidkhori G, et al. (tháng 8 năm 2017), "A pathology atlas of the human cancer transcriptome", Science, 357 (6352): eaan2507, doi:10.1126/science.aan2507, PMID 28818916
  41. Lewis MA, Yao JC (tháng 2 năm 2014), "Molecular pathology and genetics of gastrointestinal neuroendocrine tumours", Current Opinion in Endocrinology, Diabetes and Obesity, 21 (1): 22–27, doi:10.1097/MED.0000000000000033, PMID 24310147, S2CID 31094880
  42. Thakker RV, Newey PJ, Walls GV, Bilezikian J, Dralle H, Ebeling PR, et al. (tháng 9 năm 2012), "Clinical practice guidelines for multiple endocrine neoplasia type 1 (MEN1)", The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 97 (9): 2990–3011, doi:10.1210/jc.2012-1230, PMID 22723327
  43. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Burns2012
  44. a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cancer.org
  45. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên thota
  46. "Cancer Facts and Figures 2014" (PDF), American Cancer Society, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015, Table, p. 18, rates adjusted for normal life expectancy