Mục từ này cần được bình duyệt
Tiểu đường
(đổi hướng từ Đái tháo đường)
Tiểu đường
Blue circle for diabetes.svg
Vòng tròn màu xanh dương là biểu tượng của bệnh tiểu đường.[1]
Chuyên khoaNội tiết học
Triệu chứngTiểu nhiều, hay khát, hay đói[2]
Biến chứngNhiễm toan ceton, tăng thẩm thấu do tăng đường huyết, bệnh tim, đột quỵ, đau hay tê ngứa ở bàn tay hoặc bàn chân, loét bàn chân, suy thận mạn, suy giảm nhận thức, liệt nhẹ dạ dày[2][3][4][5]
Yếu tố nguy cơLoại 1: tiền sử gia đình[6]
Loại 2: béo phì, ít vận động, di truyền[2][7]
Chẩn đoánĐường huyết cao[2]
Điều trịChế độ ăn lành mạnh, thể dục[2]
ThuốcInsulin, thuốc trị tiểu đường như metformin[2][8][9]
Số người mắc463 triệu (8,8%)[10]
Số người chết4,2 triệu (2019)[10]

Tiểu đường hay đái tháo đường là một nhóm rối loạn chuyển hóa có đặc điểm lượng mức đường huyết cao trong thời gian dài hơn bình thường.[11] Triệu chứng thường bao gồm đi tiểu nhiều, hay khát nước, và hay thèm ăn.[2] Tiểu đường nếu không chữa trị có thể gây ra nhiều biến chứng.[2] Biến chứng cấp tính gồm nhiễm toan ceton (acid ketone) do tiểu đường, tăng thẩm thấu do tăng glucose huyết, hoặc tử vong.[3] Biến chứng lâu dài nghiêm trọng có bệnh tim mạch, đột quỵ, bệnh thận mạn tính, loét bàn chân, tổn thương dây thần kinh, tổn thương mắt, và suy giảm nhận thức.[2][5]

Nguyên nhân dẫn đến tiểu đường là tụy không sản xuất đủ insulin hoặc các tế bào của cơ thể không phản ứng phù hợp với insulin đã sản xuất.[12] Tiểu đường có ba loại chính:[2]

  • Tiểu đường loại 1 (tuýp 1) là hệ quả của việc tụy không sản sinh đủ insulin do mất tế bào beta.[2] Loại này trước đây được gọi là "đái tháo đường lệ thuộc insulin" (IDDM) hay "tiểu đường vị thành niên".[2] Tế bào beta bị mất là do một phản ứng tự miễn.[13] Con người chưa biết phản ứng tự miễn này từ đâu mà có.[2]

Tiêm insulin là giải pháp bắt buộc với tiểu đường loại 1.[2] Để chữa trị và phòng ngừa tiểu đường loại 2 cần duy trì chế độ ăn lành mạnh, vận động thường xuyên, trọng lượng cơ thể bình thường, và tránh hút thuốc lá.[2] Các loại thuốc như thuốc nhạy insulin không hoặc có insulin có thể giúp điều trị tiểu đường loại 2.[15] Kiểm soát huyết áp, duy trì chăm sóc mắt và bàn chân phù hợp là những việc làm quan trọng đối với bệnh nhân tiểu đường.[2] Insulin và một số thuốc uống có thể gây đường huyết thấp.[16] Ở người béo phì mà đồng thời bị tiểu đường loại 2, phẫu thuật giảm béo đôi khi tỏ ra hiệu quả.[17] Tiểu đường thai kỳ thường sẽ biến mất sau khi phụ nữ sinh em bé.[18]

Ước tính năm 2019 trên thế giới có 463 triệu người mắc tiểu đường (8,8% dân số trưởng thành), trong đó tiểu đường loại 2 chiếm đến 90%.[10] Tỷ lệ mắc ở nam và nữ là ngang bằng.[19] Chiều hướng gợi ý tỷ lệ sẽ tiếp tục tăng.[10] Tiểu đường làm tăng nguy cơ tử vong sớm ít nhất gấp đôi.[2] Căn bệnh đã lấy đi sinh mạng của khoảng 4,2 triệu người trong năm 2019[10] và là nguyên nhân gây tử vong xếp thứ 7 trên toàn cầu.[20][21] Trong năm 2017 ước tính phí tổn dành cho những vấn đề sức khỏe liên quan đến tiểu đường trên thế giới là 727 tỷ đô-la.[10]

Dấu hiệu và triệu chứng[sửa]

Tổng quan những triệu chứng đáng chú ý nhất của tiểu đường

Triệu chứng điển hình của tiểu đường không chữa trị là sụt cân ngoài ý muốn, tiểu nhiều (đa niệu), hay khát (đa khát), và hay đói (đa thực).[22] Ở tiểu đường loại 1 triệu chứng có thể nhanh chóng xuất hiện (hàng tuần hoặc hàng tháng) còn với tiểu đường loại 2 thì thường chậm hơn nhiều và có thể khó thấy hoặc không thấy.[23]

Còn một số dấu hiệu và triệu chứng khác có thể báo hiệu sự khởi phát của tiểu đường tuy nhiên chúng không phải đặc trưng của căn bệnh. Cụ thể bao gồm giảm thị lực (nhìn mờ đi), đau đầu, mệt mỏi, vết đứt lâu lành, ngứa da. Glucose huyết cao kéo dài có thể gây hấp thu glucose vào thủy tinh thể mắt dẫn đến biến dạng thủy tinh thể và hệ quả là những thay đổi trong khả năng nhìn. Một nguyên nhân gây mất thị lực lâu dài là bệnh võng mạc tiểu đường. Các ban trên da có thể xuất hiện ở người bị tiểu đường và được gọi chung là biểu hiện da của tiểu đường.[24]

Cấp cứu do tiểu đường[sửa]

Bệnh nhân (thường là tiểu đường loại 1) còn có nguy cơ bị nhiễm toan ceton do tiểu đường (DKA), một rối loạn chuyển hóa gây triệu chứng buồn nôn, nôn mửa, đau bụng, mùi aceton trong hơi thở, thở sâu hay gọi là thở Kussmaul, và ở những ca nặng là suy giảm mức độ nhận thức. Nhiễm toan ceton đòi hỏi chữa trị khẩn cấp trong bệnh viện.[25] Một tình trạng hiếm hơn nhưng nghiêm trọng không kém là tăng thẩm thấu do tăng glucose huyết (HHS) phổ biến hơn ở tiểu đường loại 2 có nguyên nhân chủ yếu từ mất nước bởi đường huyết cao.[25]

Đường huyết thấp liên quan đến (hay do) điều trị là phổ biến ở bệnh nhân tiểu đường loại 1 và 2, tùy vào dược phẩm sử dụng. Hầu hết trường hợp thuộc dạng nhẹ và không được xem là tình trạng cấp cứu. Tác động có thể rơi vào phạm vi từ cảm thấy khó chịu, đổ mồ hôi, run rẩy, và hay thèm ăn ở những ca bệnh nhẹ đến mức độ nghiêm trọng hơn như lú lẫn, thay đổi hành vi như trở nên hung hăng, động kinh, bất tỉnh, và hiếm khi là tổn thương não vĩnh viễn hoặc tử vong.[26][27] Thở nhanh, đổ mồ hôi, da lạnh nhợt nhạt là những đặc điểm của đường huyết thấp nhưng không phải chắc chắn.[28] Các ca nhẹ đến vừa tự chữa bằng cách ăn hoặc uống thứ gì đó có lượng đường cao. Ca nặng có thể dẫn đến bất tỉnh và phải được điều trị bằng truyền glucose tĩnh mạch hay tiêm glucagon.[29]

Biến chứng[sửa]

Bệnh võng mạc, bệnh thận, và bệnh thần kinh là những biến chứng tiềm tàng của tiểu đường

Tất cả các dạng tiểu đường đều làm tăng nguy cơ xảy ra những biến chứng lâu dài.[30] Chúng thường biểu hiện sau nhiều năm (10 đến 20 năm) nhưng có thể là triệu chứng đầu tiên đối với những người chưa được chẩn đoán.

Những biến chứng lâu dài đáng chú ý liên hệ với tổn thương mạch máu. Tiểu đường làm tăng gấp đôi nguy cơ bệnh tim mạch[31] và khoảng 75% bệnh nhân tiểu đường tử vong do bệnh động mạch vành.[32] Các bệnh mạch máu lớn khác gồm có đột quỵbệnh động mạch ngoại biên.[33]

Tổn thương ở mạch máu nhỏ cũng gây nên những biến chứng hàng đầu của tiểu đường như tổn thương mắt, thận, dây thần kinh.[34] Tổn thương đến mắt gọi là bệnh võng mạc tiểu đường xảy ra do mạch máu trong võng mạc bị hư hại có thể dẫn đến mất dần thị lực và cuối cùng mù lòa.[34] Tiểu đường còn làm tăng nguy cơ tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể, và những vấn đề về mắt khác.[35] Người bệnh tiểu đường được khuyến cáo đi gặp bác sĩ nhãn khoa một lần một năm.[36] Tổn thương đến thận gọi là bệnh thận tiểu đường có thể dẫn đến sẹo hóa mô (xơ cứng tiểu cầu), protein niệu, và cuối cùng là bệnh thận mạn tính mà đôi khi đòi hỏi thẩm tách hoặc cấy ghép thận.[34] Tổn thương đến dây thần kinh của cơ thể gọi là bệnh thần kinh tiểu đường là biến chứng phổ biến nhất của tiểu đường.[34] Triệu chứng của dạng này có thể là giảm cảm giác, dị cảm, loạn tiết mồ hôi, đau, cảm giác đau thay đổi và khả năng dẫn đến tổn thương da. Các vấn đề bàn chân liên hệ tiểu đường (như loét bàn chân tiểu đường) có thể xảy ra và không dễ chữa, thi thoảng đòi hỏi phải cắt cụt.[37] Ngoài ra chứng teo cơ tiểu đường còn khiến cơ teo nhỏ gây đau đớn và yếu nhược.

Tồn tại mối liên kết giữa thiếu hụt nhận thức và tiểu đường. Người bệnh tiểu đường có tỷ lệ suy giảm chức năng nhận thức gấp 1,2 đến 1,5 lần so với người bình thường.[38] Người cao tuổi mắc tiểu đường sẽ dễ bị ngã hơn.[39]

Nguyên nhân[sửa]

So sánh tiểu đường loại 1 và loại 2[40]
Tiểu đường loại 1 Tiểu đường loại 2
Khởi phát Đột ngột Từ từ
Tuổi khởi phát Đa phần ở trẻ em Đa phần ở người lớn
Hình thể Gầy hoặc bình thường[41] Thường béo phì
Nhiễm toan ceton Phổ biến Hiếm
Tự kháng thể Thường có Không có
Insulin nội sinh Thấp hoặc không có Bình thường, giảm
hoặc tăng
Cặp song sinh
giống hệt cùng bị
50% 90%
Tỷ lệ ~10% ~90%

Theo cách thức phân loại mới của WHO năm 2019 thì tiểu đường được chia thành: tiểu đường loại 1, tiểu đường loại 2, các dạng hỗn hợp, tăng đường huyết phát hiện lần đầu trong thai kỳ, tiểu đường không phân loại, và những loại đặc trưng khác.[42] "Các dạng hỗn hợp" gồm tiểu đường trung gian miễn dịch ở người lớn tiến triển chậm và tiểu đường loại 2 dễ nhiễm ceton. "Chứng tăng đường huyết phát hiện lần đầu trong thai kỳ" gồm tiểu đường thai kỳ và tiểu đường trong thai kỳ (tiểu đường loại 1 hoặc 2 được chẩn đoán lần đầu trong thai kỳ). "Những loại đặc trưng khác" là tập hợp của vài chục nguyên nhân riêng biệt. Tiểu đường là bệnh phức tạp hơn những gì con người nghĩ trước kia và bệnh nhân có thể mắc đồng thời các dạng.[43]

Tấn công tự miễn ở tiểu đường loại 1: tế bào beta sản xuất insulin của tụy giải phóng ngoại thể. Tế bào tua bắt lấy ngoại thể và trình diện nội hàm ngoại thể lên tế bào T. Tế bào T xem những protein là kẻ thù và tấn công tế bào beta sản sinh ra chúng

Tiểu đường loại 1[sửa]

Tiểu đường loại 1 có đặc điểm tế bào beta sản xuất insulin của tiểu đảo tụy biến mất dẫn đến thiếu hụt insulin. Loại này có thể được chia nhỏ thêm thành trung gian miễn dịch hay tự phát. Đa số trường hợp tiểu đường loại 1 có tính chất trung gian miễn dịch mà ở đó một cuộc tấn công tự miễn qua trung gian tế bào T dẫn đến mất đi tế bào beta kéo theo mất insulin.[44] Khoảng 10% ca đái tháo đường ở Bắc Mỹ và châu Âu là do nguyên nhân này. Số đông bệnh nhân khỏe mạnh và có trọng lượng phù hợp khi bệnh bắt đầu. Tính nhạy và tính phản ứng với insulin thường ở mức bình thường, nhất là vào những giai đoạn sớm. Mặc dù còn được gọi là "tiểu đường vị thành niên" vì hay khởi phát ở trẻ em song đa số bệnh nhân sống với tiểu đường dạng này hiện là người lớn.[6]

Tiểu đường dễ biến, còn gọi là tiểu đường không ổn định hay tiểu đường không kiểm soát, là những cách gọi truyền thống mô tả sự biến động tái lặp và đáng kể trong hàm lượng glucose, thường xảy ra mà không có lý do rõ ràng ở tiểu đường lệ thuộc insulin.[45] Tuy nhiên thuật ngữ này không có cơ sở sinh học và không nên sử dụng.[46] Tiểu đường loại 1 vẫn có thể kèm theo mức đường huyết cao không đều và không thể dự đoán, cùng tiềm năng nhiễm toan ceton hoặc mức đường huyết thấp nghiêm trọng. Những biến chứng khác gồm có phản ứng lỗi chống điều chỉnh đường huyết thấp, nhiễm trùng, liệt nhẹ dạ dày (dẫn đến hấp thu thất thường carbohydrate từ thực phẩm ăn vào), và các bệnh nội tiết (ví dụ như bệnh Addison).[46] Những hiện tượng này được tin chỉ xảy ra ở 1 đến 2% bệnh nhân tiểu đường loại 1.[47]

Tiểu đường loại 1 một phần là di truyền, với nhiều gen bao gồm những kiểu gen HLA nhất định được biết có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh.[48] Ở người nhạy cảm di truyền, một hoặc nhiều yếu tố môi trường có thể khơi gợi sự khởi phát của tiểu đường,[49] như là chế độ ăn hay nhiễm virus. Một số virus bị ám chỉ nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết này ở người.[49][50] Xét đến yếu tố ăn uống, dữ liệu gợi ý rằng gliadin (một protein có trong gluten) có thể góp phần làm hình thành tiểu đường loại 1, tuy nhiên con người vẫn chưa hiểu hết cơ chế.[51][52]

Tiểu đường loại 1 có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi,[53] trong đó một tỷ lệ đáng kể được chẩn đoán vào tuổi trưởng thành. Tiểu đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA) là thuật ngữ chẩn đoán được áp dụng khi tiểu đường loại 1 phát triển ở người lớn với sự khởi đầu chậm chạp hơn so với ở trẻ em. Vì sự khác biệt này, một số người đã sử dụng thuật ngữ không chính thức "tiểu đường loại 1,5" để đề cập tình trạng.[54] Người lớn mắc LADA ban đầu rất hay bị chẩn đoán sai là mắc tiểu đường loại 2 do căn cứ vào độ tuổi thay vì nguyên nhân.[55]

Tiểu đường loại 2[sửa]

Giảm tiết và hấp thu insulin dẫn đến lượng đường cao trong máu.

Tiểu đường loại 2 có đặc điểm là sự kháng insulin có thể đi kèm với giảm tiết insulin tương đối.[12] Việc các mô cơ thể đáp ứng thiếu sót với insulin được tin có dính líu đến thụ thể insulin. Tuy nhiên, những thiếu sót cụ thể là gì thì chưa biết. Các ca tiểu đường có nguyên nhân từ thiếu sót đã biết được xếp loại riêng. Tiểu đường loại 2 là dạng tiểu đường phổ biến nhất.[2] Nhiều người mắc tiểu đường loại 2 có bằng chứng tiền tiểu đường (loạn glucose lúc đói và/hoặc loạn dung nạp glucose) trước khi đáp ứng tiêu chí của tiểu đường loại 2.[56] Sự phát triển của tiền tiểu đường thành tiểu đường loại 2 có thể bị làm chậm hoặc đảo ngược bởi việc thay đổi lối sống hoặc các thuốc cải thiện tính nhạy insulin hay làm giảm hoạt động sản xuất glucose của gan.[57]

Các yếu tố lối sống và di truyền là nguyên nhân chủ yếu của tiểu đường loại 2.[58] Một số yếu tố lối sống đã được biết là quan trọng dẫn đến sự phát triển của tiểu đường loại 2 gồm béo phì (xác định bằng chỉ số khối cơ thể lớn hơn 30), thiếu hoạt động thể chất,[59] chế độ ăn không lành mạnh, căng thẳng, đô thị hóa.[40] Việc cơ thể dư thừa chất béo liên hệ với 30% ca ở người dòng dõi Nhật Bản và Trung Quốc, 60–80% ca ở người dòng dõi châu Phi và châu Âu, 100% người Pima và người dân các đảo Thái Bình Dương.[12]

Thói quen tiêu thụ đồ uống có đường là một yếu tố rủi ro.[60][61] Kiểu chất béo trong chế độ ăn cũng quan trọng, cụ thể chất béo bão hòachất béo chuyển hóa làm tăng nguy cơ còn chất béo không bão hòa đachất béo không bão hòa đơn làm giảm nguy cơ.[58] Ăn quá nhiều gạo trắng có thể làm tăng đáng kể nguy cơ tiểu đường, đặc biệt ở người châu Á.[62]

Trải nghiệm thời thơ ấu đau buồn, như là bị ngược đãi, thờ ơ, hay những khó khăn gia đình, làm tăng khả năng mắc tiểu đường loại 2 sau này trong đời lên 32%, trong đó sự thờ ơ có tác động lớn nhất.[63]

Tiểu đường thai kỳ[sửa]

Tiểu đường thai kỳ giống tiểu đường loại 2 ở một vài điểm, như là bao hàm cả phản ứng insulin lẫn tiết insulin tương đối không phù hợp. Tiểu đường dạng này xảy ra ở khoảng 2–10% phụ nữ có thai và có thể thuyên giảm hoặc biến mất sau khi sinh con.[64] Toàn bộ phụ nữ có thai được khuyến cáo xét nghiệm bắt đầu vào tuần thai 24–28.[65] Căn bệnh hay được chẩn đoán nhất vào kỳ ba tháng thứ hai hay thứ ba vì sự gia tăng lượng hormon đối kháng insulin xảy ra trong thời gian này.[65] Tuy nhiên, sau thai kỳ khoảng 5–10% phụ nữ từng bị tiểu đường thai kỳ lại mắc một dạng tiểu đường khác, phổ biến nhất là loại 2.[64] Tiểu đường thai kỳ hoàn toàn chữa được nhưng đòi hỏi giám sát y tế kỹ lưỡng suốt thời gian mang thai. Các biện pháp gồm thay đổi chế độ ăn, theo dõi đường huyết, và đôi khi cần đến insulin.[66]

Tiểu đường thai kỳ mặc dù có thể chỉ là nhất thời nhưng nếu không chữa thì có rủi ro làm hại đến sức khỏe của thai và mẹ. Trẻ sinh ra đối mặt những nguy cơ như chứng khổng lồ (trọng lượng lúc sinh cao), dị dạng cơ xương, dị tật tim bẩm sinhhệ thần kinh trung ương. Lượng insulin gia tăng trong máu của thai nhi có thể kìm hãm sự sản xuất chất diện hoạt thai và gây hội chứng suy hô hấp trẻ thơ. Hàm lượng bilirubin máu cao có khi là hệ quả của việc hồng cầu bị phá hủy. Ở những ca nặng tồn tại nguy cơ tử vong chu sinh (trước sau gần lúc sinh) mà nguyên nhân phổ biến nhất là tưới máu nhau thai kém do suy mạch. Chức năng nhau thai giảm có thể đòi hỏi khởi phát chuyển dạ (giục sinh). Nếu phát hiện suy thai hoặc rủi ro chấn thương gia tăng liên quan chứng khổng lồ như đẻ khó do kẹt vai thì nên tiến hành mổ đẻ.[67][68]

Loại khác[sửa]

Tiểu đường khởi phát ở người trẻ (MODY) là một dạng thừa hưởng tính trội nhiễm sắc thể thường hiếm do một trong một vài đột biến gen đơn gây ra những khiếm khuyết ở khâu sản xuất insulin.[69] Loại này ít phổ biến hơn nhiều ba loại chính khi chỉ thấy ở 1-2% ca. Tên của bệnh đề cập đến những giả thuyết ban đầu về bản chất của nó. Vì nguyên nhân là một gen khiếm khuyết, loại này đa dạng ở độ tuổi xuất hiện và tính nghiêm trọng tùy vào gen khuyết cụ thể, do đó tiểu đường khởi phát ở người trẻ có ít nhất 13 loại con. Người mắc MODY thường có thể kiểm soát được bệnh mà không cần dùng insulin.[70]

Một số trường hợp tiểu đường có nguyên nhân là những thụ thể mô của cơ thể không phản ứng với insulin (kể cả khi mức insulin là bình thường, đây là điểm phân biệt với tiểu đường loại 2), dạng này rất không phổ biến. Những đột biến gen (nhiễm sắc thể thường hay ty thể) có thể dẫn đến sai loạn chức năng tế bào beta. Hành xử insulin bất thường cũng có khi được xác định di truyền ở một số ca. Bất kỳ bệnh nào làm tổn thương tụy sâu rộng đều dễ dẫn tới tiểu đường (ví dụ như viêm tụy mạn tínhxơ nang tụy). Các bệnh liên quan đến sự tiết dư thừa hormone đối kháng insulin cũng có thể gây tiểu đường (thường được giải quyết khi loại bỏ hormon dư thừa). Có nhiều loại thuốc ảnh hưởng xấu đến sự tiết insulin và một số độc tố làm hại tế bào beta tụy, trong khi số khác làm tăng sự kháng insulin (nhất là glucocorticoid có thể kích thích "tiểu đường steroid"). "Tiểu đường liên hệ suy dinh dưỡng" (MRDM hay MMDM) có trong ICD-10 (1992) đã bị Tổ chức Y tế Thế giới loại bỏ trong phép phân loại mới năm 1999.[71] Tiểu đường kép là tiểu đường loại 1 cộng thêm tính kháng insulin được phát hiện lần đầu năm 1991.[72]

Dưới đây là danh sách rối loạn có thể làm tăng nguy cơ tiểu đường:

Sinh lý bệnh[sửa]

Sự biến động của đường huyết (đường màu đỏ) và insulin (đường xanh) ở người trong tiến trình một ngày với ba bữa ăn. Tác động của bữa ăn nhiều đường (đường đứt) so với bữa ăn nhiều tinh bột được mô tả.

Insulinhormone quan trọng điều chỉnh hấp thu glucose từ máu vào hầu hết tế bào của cơ thể, đặc biệt là gan, mô mỡ và cơ (trừ cơ trơn). Vì vậy việc thiếu hụt insulin hay những thụ thể insulin mất đi tính nhạy đóng vai trò trung tâm ở mọi dạng bệnh tiểu đường.[73]

Cơ thể thu thập glucose từ ba nguồn chính: hấp thu thực phẩm trong ruột; phân hủy glycogen, dạng glucose lưu trữ trong gan; và tân tạo glucose là sự sản sinh glucose từ chất nền không carbohydrate trong cơ thể.[74] Insulin có vai trò tối quan trọng trong việc điều chỉnh lượng glucose bên trong. Insulin có thể kìm hãm sự phân hủy glycogen hoặc quá trình tân tạo glucose, kích thích vận chuyển glucose vào tế bào cơ và mỡ, và kích thích lưu trữ glucose dưới dạng glycogen.[74]

Tế bào beta ở tiểu đảo Langerhans của tụy giải phóng insulin vào máu để đối phó sự gia tăng lượng glucose trong máu, thường là sau khi ăn. Khoảng hai phần ba tế bào của cơ thể sử dụng insulin để hấp thu glucose từ máu với mục đích dùng làm nhiên liệu, chuyển đổi thành những phân tử cần thiết hơn, hay lưu trữ. Lượng glucose thấp dẫn tới việc tế bào beta giảm thải insulin cùng sự phân hủy glycogen thành glucose. Quá trình này chủ yếu do hormone glucagon điều khiển. Glucagon hành xử theo kiểu trái ngược với insulin.[75]

Nếu lượng insulin sẵn có không đủ, hoặc nếu tế bào phản ứng kém với tác động của insulin (kháng insulin), hoặc nếu bản thân insulin có vấn đề, thì các tế bào của cơ thể cần đến glucose sẽ không hấp thu glucose một cách thích đáng và glucose sẽ không được lưu trữ đúng cách trong gan và cơ. Hệ quả là lượng glucose huyết cao dai dẳng, tổng hợp protein kém, và những xáo trộn chuyển hóa khác như là nhiễm toan chuyển hóa ở những trường hợp hoàn toàn thiếu insulin.[74]

Khi nồng độ glucose trong máu duy trì cao qua thời gian, thận sẽ đạt đến ngưỡng tái hấp thu và cơ thể sẽ bài tiết glucose vào nước tiểu.[76] Điều này làm tăng áp suất thẩm thấu của nước tiểu và kìm hãm thận tái hấp thu nước, dẫn đến gia tăng sản xuất nước tiểu và mất chất lỏng. Thể tích máu bị mất được thay thế bằng nước thẩm thấu từ tế bào và những khoang khác của cơ thể gây tình trạng mất nước và khát nhiều.[74] Thêm vào đó, sự thiếu hụt glucose nội bào còn kích thích cảm giác thèm ăn dẫn đến tiếp nhận dư thừa thực phẩm.[77]

Chẩn đoán[sửa]

Tiêu chí chẩn đoán tiểu đường của WHO[78][79]
Tình trạng Glucose 2-tiếng Glucose lúc đói HbA1c
Đơn vị mmol/L mg/dL mmol/L mg/dL mmol/mol DCCT %
Bình thường < 7.8 < 140 < 6.1 < 110 < 42 < 6.0
Loạn glucose lúc đói < 7.8 < 140 6.1–7.0 110–126 42–46 6.0–6.4
Loạn dung nạp glucose ≥ 7.8 ≥ 140 < 7.0 < 126 42–46 6.0–6.4
Tiểu đường ≥ 11.1 ≥ 200 ≥ 7.0 ≥ 126 ≥ 48 ≥ 6.5

Tiểu đường được chẩn đoán bằng xét nghiệm hàm lượng glucose trong máu rồi đối chiếu thỏa mãn một trong những điều kiện sau:[71]

  • Glucose huyết tương lúc đói ≥ 7,0 mmol/L (126 mg/dL)
  • Glucose huyết tương ≥ 11,1 mmol/L (200 mg/dL) hai giờ sau nạp 75 gam glucose đường miệng như trong xét nghiệm dung nạp glucose (OGTT)
  • Triệu chứng của đường huyết cao và glucose huyết tương ≥ 11,1 mmol/L (200 mg/dL) cho dù là đói hay không
  • Hemoglobin glycat hóa (HbA1C) ≥ 48 mmol/mol (≥ 6,5 DCCT %).[80]

Trường hợp không thấy đường huyết cao rõ ràng, để xác nhận kết quả dương tính cần tiến hành lại một trong những phương pháp trên vào một ngày khác. Cách được ưa chuộng hơn là đo glucose lúc đói vì dễ thực hiện, trong khi xét nghiệm dung nạp glucose đúng cách tốn thời gian khi mất hai giờ để hoàn thành mà không có ưu điểm nào hơn.[81] Theo định nghĩa hiện tại, hai lần đo glucose lúc đói trên 7,0 mmol/L (126 mg/dL) được xem là chẩn đoán cho tiểu đường.

Theo WHO, người có mức glucose lúc đói từ 6,1 đến 6,9 mmol/L (110 đến 125 mg/dL) được xem là loạn (bất thường) glucose lúc đói.[82] Người có glucose huyết tương lớn hơn hoặc bằng 7,8 mmol/L (140 mg/dL) và nhỏ hơn 11,1 mmol/L (200 mg/dL) hai giờ sau nạp 75 gam glucose đường miệng được xem là loạn dung nạp glucose. Trong số hai trạng thái tiền tiểu đường này thì dung nạp hỏng là một yếu tố nguy cơ lớn dẫn đến sự phát triển thành tiểu đường thực sự cũng như bệnh tim mạch.[83] Kể từ năm 2003, Hội Tiểu đường Hoa Kỳ (ADA) áp dụng một phạm vi hơi khác cho loạn glucose lúc đói là 5,6 đến 6,9 mmol/L (100 đến 125 mg/dL).[84]

Xét nghiệm hemoglobin glycat hóa tốt hơn glucose lúc đói trong xác định rủi ro bệnh tim mạch và tử vong từ bất kỳ nguyên nhân nào.[85]

Phòng ngừa[sửa]

Không có biện pháp phòng ngừa tiểu đường loại 1.[2] Tiểu đường loại 2, loại chiếm đến 85–90% tổng số ca toàn thế giới, thường có thể ngăn chặn hay làm trì hoãn[86] bằng cách duy trì trọng lượng cơ thể bình thường, tham gia hoạt động thể chất, ăn uống lành mạnh.[2] Vận động nhiều (hơn 90 phút mỗi ngày) làm giảm 28% nguy cơ tiểu đường.[87] Chế độ ăn phù hợp được biết có hiệu quả giúp ngăn ngừa tiểu đường, cụ thể là giàu ngũ cốc nguyên hạtchất xơ, chọn chất béo tốt như chất béo không bão hòa đa có trong quả cứng, dầu thực vật, cá.[88] Ăn ít thịt đỏ, hạn chế đồ uống có đường và những nguồn chất béo bão hòa khác cũng giúp phòng bệnh.[88] Hút thuốc lá liên hệ với gia tăng nguy cơ tiểu đường kèm những biến chứng, vậy nên cai thuốc cũng là một biện pháp phòng ngừa quan trọng.[89]

Mối quan hệ giữa tiểu đường loại 2 và các yếu tố nguy cơ sửa đổi được chính (thừa cân, chế độ ăn không lành mạnh, ít vận động, hút thuốc lá) là như nhau ở mọi nơi trên thế giới. Có bằng chứng ngày một rõ chỉ ra rằng những yếu tố quyết định căn bản của tiểu đường là một sự phản ánh những thế lực lớn điều vận thay đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa: toàn cầu hóa, đô thị hóa, già hóa dân số, và điều kiện chính sách sức khỏe tổng quan.[90]

Xử trị[sửa]

Kiểm soát tiểu đường tập trung vào việc giữ cho mức đường huyết gần như bình thường mà không gây đường huyết thấp. Biện pháp giúp đạt được điều này là thay đổi chế độ ăn,[91] thể dục, giảm cân, và sử dụng thuốc phù hợp (insulin, thuốc uống).

Tìm hiểu về căn bệnh và tích cực hợp tác điều trị là quan trọng vì những biến chứng ít phổ biến và ít nghiêm trọng hơn nhiều ở người có mức đường huyết được kiểm soát tốt.[92][93] Theo Hội Bác sĩ Hoa Kỳ, mục tiêu điều trị là mức HbA1C 7-8%.[94] Sự chú ý cũng được dành cho những vấn đề sức khỏe mà có thể thúc đẩy tác động tiêu cực của tiểu đường, bao gồm hút thuốc lá, huyết áp cao, béo phì, thiếu thể dục thường xuyên.[95] Giày dép chuyên biệt được sử dụng phổ biến để làm giảm nguy cơ loét ở bàn chân dù vậy bằng chứng cho tác dụng của việc làm này là không rõ ràng.[96]

Lối sống[sửa]

Giáo dục cho bệnh nhân tiểu đường về căn bệnh và hướng điều trị, việc thay đổi chế độ ăn, vận động cơ thể là cần làm với mục tiêu giữ cho mức đường huyết cả ngắn hạn lẫn dài hạn trong giới hạn chấp nhận được. Bên cạnh đó vì rủi ro bệnh tim mạch cao liên quan, bệnh nhân được khuyến cáo điều chỉnh lối sống để kiểm soát huyết áp.[97][98]

Giảm cân có thể ngăn chặn quá trình phát triển từ tiền tiểu đường thành tiểu đường loại 2, làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch, hay giúp thuyên giảm tình trạng phần nào ở người mắc tiểu đường.[99][100] Không có kiểu chế độ ăn chỉ một nào là tốt nhất cho tất cả bệnh nhân tiểu đường.[101] Những kiểu thực đơn lành mạnh như Địa Trung Hải, carbohydrate thấp, hay DASH thường được khuyến cáo và bằng chứng không cho rằng loại nào tốt hơn loại nào.[99][100] Theo Hội Tiểu đường Hoa Kỳ, giảm tổng lượng carbohydrate tiếp nhận cho người mắc tiểu đường đã chứng minh cải thiện glucose huyết và đối với bệnh nhân tiểu đường loại 2 mà không thể đáp ứng mục tiêu glucose huyết hoặc trường hợp ưu tiên giảm các thuốc chống glucose huyết, chế độ ăn carbohydrate thấp hoặc rất thấp là phương án khả thi.[100] Mọi chế độ ăn mà giúp giảm cân đều hiệu quả cho người thừa cân mắc tiểu đường loại 2.[101][102]

Thuốc[sửa]

Kiểm soát glucose[sửa]

Đa số thuốc được dùng để chữa tiểu đường đều có tác dụng hạ thấp mức đường huyết thông qua những cơ chế khác nhau. Có sự đồng thuận phổ quát rằng nếu bệnh nhân tiểu đường duy trì kiểm soát glucose chặt chẽ, tức là giữ lượng glucose trong máu thuộc phạm vi bình thường, thì họ sẽ ít gặp phải biến chứng như những vấn đề về mắt và thận hơn.[103][104] Tuy nhiên tồn tại tranh luận rằng liệu điều này có đúng đắn và hiệu quả chi phí cho cuộc đời sau này khi mà rủi ro hạ glucose huyết có thể đáng kể hơn.[105]

Tiểu đường loại 1 được chữa bằng liệu pháp thay thế insulin lâu dài, tiêm đa mũi hàng ngày hoặc sử dụng bơm insulin.[106] Tuy nhiên cách này không giải quyết được hết mọi vấn đề và nên có thêm liệu pháp bổ trợ.[107] Thay thế insulin từng là giải pháp duy nhất cho hầu hết người mắc tiểu đường loại 1 trong gần một thế kỷ.[108] Tuy nhiên tiến bộ khoa học ngày nay đã mang đến nhiều phương án mới triển vọng, như liệu pháp miễn dịch nhắm tế bào T.[108]

Metformin nhìn chung được khuyến cáo là phép chữa hàng đầu cho tiểu đường loại 2 vì có bằng chứng ổn chỉ ra nó làm giảm tỷ lệ tử vong.[8] Thuốc này phát huy tác dụng qua việc khiến gan giảm sản xuất glucose.[109] Một số nhóm thuốc khác, chủ yếu là thuốc uống, cũng có thể giúp hạ đường huyết ở tiểu đường loại 2. Chúng bao gồm các chất làm tăng cường giải phóng insulin (sulfonylurea), chất làm giảm hấp thu đường từ ruột (acarbose), chất ức chế enzyme dipeptidyl peptidase-4 (DPP-4) làm bất hoạt những incretin như GLP-1 và GIP (sitagliptin), chất khiến cơ thể nhạy hơn với insulin (thiazolidinedione), và chất thúc đẩy bài tiết glucose vào nước tiểu (chất ức chế SGLT2).[109] Khi dùng insulin cho tiểu đường loại 2 thì ban đầu thường thêm một công thức có tác dụng lâu dài trong khi tiếp tục dùng thuốc uống,[8] sau đó gia tăng liều lượng insulin đến khi đạt mục tiêu glucose.[8][110]

Hạ huyết áp[sửa]

Bệnh tim mạch là biến chứng nghiêm trọng liên hệ với tiểu đường và nhiều chỉ dẫn quốc tế khuyến nghị mục tiêu điều trị huyết áp là thấp hơn 140/90 mmHg cho người bị tiểu đường.[111] Tuy nhiên, một phân tích tổng hợp năm 2016 phát hiện tiềm năng nguy hại của việc điều trị đến mục tiêu thấp hơn 140 mmHg.[112] Sau này một phân tích tổng hợp năm 2019 chỉ ra hạ huyết áp xuống mức 130-140 mmHg không đem lại lợi ích cho tim mạch mà còn làm tăng rủi ro những hậu quả bất lợi.[113]

Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ khuyến nghị người mắc tiểu đường và albumin niệu nên nhận chất ức chế hệ thống renin-angiotensin để làm giảm nguy cơ bệnh thận, bệnh tim mạch tiến triển và tử vong.[114] Có một số bằng chứng chỉ ra các chất ức chế enzyme chuyển đổi angiotensin (ACEI) tác dụng hơn các chất ức chế hệ thống renin-angiotensin như chất chặn thụ thể angiotensin (ARB)[115] hay aliskiren trong phòng ngừa bệnh tim mạch.[116] Mặc dù vậy một đánh giá mới đây hơn phát hiện ACEI và ARB có hiệu quả hỗ trợ thận và tim mạch tương đương.[117] Không có bằng chứng chứng minh kết hợp ACEI và ARB cho nhiều lợi ích hơn.[117]

Aspirin[sửa]

Việc sử dụng aspirin để ngăn ngừa bệnh tim mạch do tiểu đường gây tranh cãi.[114] Aspirin được khuyến cáo cho người nguy cơ bệnh tim mạch cao, tuy nhiên sử dụng aspirin thường xuyên không giúp cải thiện kết quả ở tiểu đường không biến chứng.[118] Khuyến cáo của Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ năm 2015 về aspirin (dựa trên đồng thuận chuyên gia hay kinh nghiệm lâm sàng) là người lớn mắc tiểu đường có rủi ro bệnh tim mạch trung bình (5–10% trong 10 năm) nên sử dụng aspirin liều thấp.[114]

Phẫu thuật[sửa]

Phẫu thuật giảm béo ở người đồng thời bị béo phì và tiểu đường loại 2 thường là giải pháp hiệu quả.[17] Nhiều bệnh nhân có thể duy trì mức đường huyết bình thường mà không hay ít cần đến thuốc sau phẫu thuật[119] và tỷ lệ tử vong dài hạn giảm xuống.[120] Tuy nhiên, tồn tại tỷ lệ tử vong ngắn hạn dưới 1% từ phẫu thuật.[121] Không rõ chỉ số khối cơ thể tầm nào thì thích hợp để phẫu thuật.[120] Biện pháp này được khuyến cáo xem xét ở người không thể kiểm soát cả trọng lượng lẫn đường huyết.[122]

Cấy ghép tụy thi thoảng được cân nhắc cho người mắc tiểu đường loại 1 và có những biến chứng nghiêm trọng của bệnh.[123]

Hỗ trợ[sửa]

Ở các nước áp dụng hệ thống bác sĩ đa khoa như Vương quốc Anh, người bệnh có thể được chăm sóc chủ yếu bên ngoài bệnh viện, trong khi chăm sóc chuyên khoa tại bệnh viện chỉ dành cho các ca biến chứng, khó kiểm soát đường huyết, hay những dự án nghiên cứu. Trong những tình huống khác, bác sĩ đa khoa và chuyên khoa chung tay trong một phương pháp nhóm. Hỗ trợ sức khỏe từ xa có thể là một công nghệ quản lý hiệu quả.[124]

Dịch tễ[sửa]

Tỷ lệ tử vong do tiểu đường trên mỗi triệu người trên thế giới năm 2012
  28–91
  92–114
  115–141
  142–163
  164–184
  185–209
  210–247
  248–309
  310–404
  405–1879

Trong năm 2017 trên thế giới có 425 triệu người mắc tiểu đường,[125] tăng từ ước tính 382 triệu người năm 2013[126] và 108 triệu người năm 1980.[127] Vì sự thay đổi cấu trúc độ tuổi của dân số thế giới, tỷ lệ tiểu đường ở người lớn là 8,8%, gần gấp đôi năm 1980 là 4,7%.[125][127] Tiểu đường loại 2 chiếm đến khoảng 90% trường hợp.[19][40] Một số dữ liệu chỉ ra tỷ lệ giữa nam và nữ là gần ngang bằng[19] song ở nhiều quần thể nam mắc tiểu đường loại 2 nhiều hơn nữ, khả năng do những khác biệt trong tính nhạy insulin liên quan giới tính, hậu quả của béo phì và tích lũy chất béo cơ thể, và những yếu tố góp phần khác như huyết áp cao, hút thuốc lá, uống đồ uống có cồn.[128][129]

WHO ước tính 1,5 triệu người đã chết vì tiểu đường trong năm 2019 khiến đây là nguyên nhân gây tử vong xếp thứ 9.[15] Tuy nhiên còn 2,2 triệu ca tử vong khác trên thế giới được quy do glucose huyết cao, bệnh tim mạch, những biến chứng liên quan khác (ví dụ như suy thận) mà thường dẫn đến tử vong sớm và thường được liệt là nguyên nhân căn bản gây tử vong chứ không phải tiểu đường.[127][130] Ví dụ vào năm 2017, Liên đoàn Tiểu đường Quốc tế (IDF) ước tính tiểu đường gây ra 4 triệu cái chết trên toàn cầu bao hàm cả trực tiếp lẫn gián tiếp.[125]

Tiểu đường xảy ra ở khắp nơi trên thế giới nhưng phổ biến hơn ở các nước phát triển hơn (nhất là loại 2). Tuy nhiên tốc độ gia tăng lớn nhất lại được thấy ở các nước thu nhập thấp và trung bình,[127] nơi số ca tử vong vì tiểu đường chiếm tới hơn 80%.[131] Châu Á và châu Phi có tỷ lệ tăng nhanh nhất và dự kiến đến năm 2030 đa số người bệnh tiểu đường sẽ là ở những khu vực này.[132] Sự gia tăng số bệnh nhân ở các nước đang phát triển đi theo xu hướng đô thị hóa và thay đổi lối sống, bao gồm lối sống ít vận động ngày càng phổ biến, ít công việc đòi hỏi vận động, và chuyển đổi dinh dưỡng toàn cầu biểu lộ bởi việc tiếp nhận ngày một nhiều thực phẩm giàu năng lượng nhưng nghèo dinh dưỡng (thường nhiều đường và chất béo bão hòa, đôi khi gọi là chế độ ăn "kiểu Tây").[127][132] Số ca tiểu đường toàn cầu có thể tăng 48% trong khoảng 2017 và 2045.[125]

Việt Nam[sửa]

Trong năm 2020 ước tính Việt Nam có 5,76 triệu người bị tiểu đường,[133] chiếm tỷ lệ gần 6% dân số.[134] Tỷ lệ mắc ở người lớn năm 2015 cũng là gần 6%,[135] trong khi số ca tử vong là 53.458, chủ yếu vì những biến chứng nghiêm trọng như bệnh tim mạch và bệnh thận.[136] Đây là căn bệnh khiến nhiều người chết thứ ba trong năm 2019, sau bệnh tim thiếu máu cục bộ và đột quỵ.[137] Số ca tiểu đường loại 2 có chiều hướng gia tăng đáng kể, tăng gấp đôi từ 2,7% năm 2002 lên 5,4% năm 2012.[138] Một nghiên cứu dự đoán tỷ lệ tiểu đường và tiền tiểu đường sẽ tăng lần lượt từ 6% và 13,5% năm 2015 lên 7% và 15,7% năm 2035 bởi già hóa dân số.[139] Vào năm 2020, tỷ lệ này đang gia tăng nhanh chóng, đặc biệt ở người trên 45 tuổi.[140] Chi phí điều trị trung bình hàng năm của mỗi bệnh nhân ước tính khoảng 5,5 triệu VNĐ.[141]

Những nguyên nhân hàng đầu khiến người Việt Nam bị tiểu đường là đô thị hóa, già hóa dân số, béo phì, lười vận động, chế độ ăn thay đổi, tỷ số eo-hông cao.[135][142][140] Các yếu tố này ngày một phổ biến phản ánh sự chuyển biến về kinh tế và văn hóa,[142] như là lối sống Tây hóa và thu nhập cải thiện.[140] Tuổi cao (trên 60) và chỉ số khối cơ thể liên hệ mật thiết với tiểu đường loại 2.[143][140] Trong khi hút thuốc lá chưa được đồng thuận là yếu tố nguy cơ[144] thì có nghiên cứu nêu rằng đây là nguyên nhân của 22% ca bệnh.[142]

Lịch sử[sửa]

Tiểu đường là một trong những bệnh đầu tiên được mô tả[145] khi một bản viết Ai Cập từ khoảng năm 1500 trước CN nói đến việc đi tiểu quá nhiều.[146] Trong papyrus Ebers có khuyến cáo một món đồ uống cho những trường hợp như vậy.[147] Các ca được mô tả đầu tiên được tin là mắc tiểu đường loại 1.[146] Các bác sĩ Ấn Độ thời kỳ ấy đã nhận ra căn bệnh và gọi nó là madhumeha hay "nước tiểu mật ong", lưu ý rằng nước tiểu sẽ thu hút kiến.[146][147]

Tác phẩm xưa nhất còn tồn tại mà đề cập chi tiết đến tiểu đường là của Aretaeus (thế kỷ 2 hoặc đầu thế kỷ 3). Aretaeus mô tả triệu chứng và diễn tiến của căn bệnh mà ông cho bắt nguồn từ môi trường ẩm và lạnh, phản ánh tín ngưỡng của "trường phái linh hồn". Aretaeus giả định một mối tương quan giữa tiểu đường và những bệnh khác, bàn luận chẩn đoán phân biệt với rắn cắn cũng là nguyên nhân gây khát nhiều. Người phương Tây không biết đến tác phẩm của Aretaeus cho đến năm 1552 khi bản tiếng Latinh đầu tiên được xuất bản ở Venice.[148]

Vào năm 400–500, hai bác sĩ Ấn Độ Sushruta và Charaka đã lần đầu tiên phân biệt hai loại tiểu đường với một loại liên hệ người trẻ và loại kia liên hệ người thừa cân.[146] Con người chưa tìm ra phép chữa trị hiệu quả cho đến đầu thế kỷ 20 khi những người Canada là Frederick Banting và Charles Herbert Best phân lập và tinh chế được insulin vào năm 1921 và 1922.[146] Tiếp đó là sự phát triển insulin NPH trong thập niên 1940.[146]

Tham khảo[sửa]

  1. Diabetes Blue Circle Symbol, International Diabetes Federation, ngày 17 tháng 3 năm 2006, lưu trữ từ nguyên tác ngày 5 tháng 8 năm 2007
  2. a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x "Diabetes Fact sheet N°312", WHO, tháng 10 năm 2013, lưu trữ từ nguyên tác ngày 26 tháng 8 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2014
  3. a b Kitabchi AE, Umpierrez GE, Miles JM, Fisher JN (tháng 7 năm 2009), "Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes", Diabetes Care, 32 (7): 1335–43, doi:10.2337/dc09-9032, PMC 2699725, PMID 19564476
  4. Krishnasamy S, Abell TL (tháng 7 năm 2018), "Diabetic Gastroparesis: Principles and Current Trends in Management", Diabetes Therapy, 9 (Suppl 1): 1–42, doi:10.1007/s13300-018-0454-9, PMC 6028327, PMID 29934758
  5. a b Saedi, E; Gheini, MR; Faiz, F; Arami, MA (ngày 15 tháng 9 năm 2016), "Diabetes mellitus and cognitive impairments.", World Journal of Diabetes, 7 (17): 412–22, doi:10.4239/wjd.v7.i17.412, PMC 5027005, PMID 27660698
  6. a b Chiang JL, Kirkman MS, Laffel LM, Peters AL (tháng 7 năm 2014), "Type 1 diabetes through the life span: a position statement of the American Diabetes Association", Diabetes Care, 37 (7): 2034–54, doi:10.2337/dc14-1140, PMC 5865481, PMID 24935775
  7. "Causes of Diabetes", National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases, tháng 6 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 2 tháng 2 năm 2016, truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2016
  8. a b c d Ripsin, CM; Kang, H; Urban, RJ (tháng 1 năm 2009), "Management of blood glucose in type 2 diabetes mellitus" (PDF), American Family Physician, 79 (1): 29–36, PMID 19145963, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 5 năm 2013
  9. Brutsaert, Erika F. (tháng 2 năm 2017), "Drug Treatment of Diabetes Mellitus", MSDManuals.com, truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2018
  10. a b c d e f "IDF DIABETES ATLAS Ninth Edition 2019" (PDF), www.diabetesatlas.org (trong English), truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
  11. About diabetes, World Health Organization, lưu trữ từ nguyên tác ngày 31 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014
  12. a b c Shoback DG, Gardner D, bt. (2011), "Chapter 17", Greenspan's basic & clinical endocrinology (lxb. 9th), New York: McGraw-Hill Medical, ISBN 978-0-07-162243-1
  13. Norman, Anthony; Henry, Helen (2015), Hormones, Elsevier, tr. 136–137, ISBN 9780123694447 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  14. RSSDI textbook of diabetes mellitus (lxb. Revised 2nd), Jaypee Brothers Medical Publishers, 2012, tr. 235, ISBN 978-93-5025-489-9, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 10 năm 2015
  15. a b The top 10 causes of death Fact sheet N°310, World Health Organization, tháng 10 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 30 tháng 5 năm 2017
  16. Rippe RS, Irwin JM, bt. (2010), Manual of intensive care medicine (lxb. 5th), Wolters Kluwer Health/Lippincott Williams & Wilkins, tr. 549, ISBN 978-0-7817-9992-8
  17. a b Picot J, Jones J, Colquitt JL, Gospodarevskaya E, Loveman E, Baxter L, Clegg AJ (tháng 9 năm 2009), "The clinical effectiveness and cost-effectiveness of bariatric (weight loss) surgery for obesity: a systematic review and economic evaluation", Health Technology Assessment, 13 (41): 1–190, 215–357, iii–iv, doi:10.3310/hta13410, hdl:10536/DRO/DU:30064294, PMID 19726018
  18. Cash, Jill (2014), Family Practice Guidelines (lxb. 3rd), Springer, tr. 396, ISBN 978-0-8261-6875-7, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 31 tháng 10 năm 2015
  19. a b c Vos T, et al. (tháng 12 năm 2012), "Years lived with disability (YLDs) for 1160 sequelae of 289 diseases and injuries 1990–2010: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2010", Lancet, 380 (9859): 2163–96, doi:10.1016/S0140-6736(12)61729-2, PMC 6350784, PMID 23245607CS1 maint: display-authors (link)
  20. "What is Diabetes?", Centers for Disease Control and Prevention (trong English), ngày 11 tháng 3 năm 2020, truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
  21. "The top 10 causes of death", www.who.int (trong English), truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020
  22. Cooke DW, Plotnick L (tháng 11 năm 2008), "Type 1 diabetes mellitus in pediatrics", Pediatrics in Review, 29 (11): 374–84, quiz 385, doi:10.1542/pir.29-11-374, PMID 18977856, S2CID 20528207
  23. "WHO | Diabetes mellitus", WHO, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019
  24. Rockefeller, J.D. (2015), Diabetes: Symptoms, Causes, Treatment and Prevention (trong English), ISBN 978-1-5146-0305-5
  25. a b Kitabchi AE, Umpierrez GE, Miles JM, Fisher JN (tháng 7 năm 2009), "Hyperglycemic crises in adult patients with diabetes", Diabetes Care, 32 (7): 1335–43, doi:10.2337/dc09-9032, PMC 2699725, PMID 19564476, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 6 năm 2016
  26. Kenny C (tháng 4 năm 2014), "When hypoglycemia is not obvious: diagnosing and treating under-recognized and undisclosed hypoglycemia", Primary Care Diabetes, 8 (1): 3–11, doi:10.1016/j.pcd.2013.09.002, PMID 24100231
  27. Verrotti A, Scaparrotta A, Olivieri C, Chiarelli F (tháng 12 năm 2012), "Seizures and type 1 diabetes mellitus: current state of knowledge", European Journal of Endocrinology, 167 (6): 749–58, doi:10.1530/EJE-12-0699, PMID 22956556
  28. "Symptoms of Low Blood Sugar", WebMD, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 6 năm 2016, truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016
  29. "Glucagon–Injection side effects, medical uses, and drug interactions.", MedicineNet (trong English), truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018
  30. Nathan, DAvid M. (ngày 10 tháng 6 năm 1993), "Long-Term Complications of Diabetes Mellitus", The New England Journal of Medicine, 328 (23): 1676–1685, doi:10.1056/NEJM199306103282306, PMID 8487827
  31. Sarwar N, Gao P, Seshasai SR, Gobin R, Kaptoge S, Di Angelantonio E, Ingelsson E, Lawlor DA, Selvin E, Stampfer M, Stehouwer CD, Lewington S, Pennells L, Thompson A, Sattar N, White IR, Ray KK, Danesh J (tháng 6 năm 2010), "Diabetes mellitus, fasting blood glucose concentration, and risk of vascular disease: a collaborative meta-analysis of 102 prospective studies", Lancet, 375 (9733): 2215–22, doi:10.1016/S0140-6736(10)60484-9, PMC 2904878, PMID 20609967
  32. O'Gara PT, Kushner FG, Ascheim DD, Casey DE, Chung MK, de Lemos JA, Ettinger SM, Fang JC, Fesmire FM, Franklin BA, Granger CB, Krumholz HM, Linderbaum JA, Morrow DA, Newby LK, Ornato JP, Ou N, Radford MJ, Tamis-Holland JE, Tommaso CL, Tracy CM, Woo YJ, Zhao DX, Anderson JL, Jacobs AK, Halperin JL, Albert NM, Brindis RG, Creager MA, DeMets D, Guyton RA, Hochman JS, Kovacs RJ, Kushner FG, Ohman EM, Stevenson WG, Yancy CW (tháng 1 năm 2013), "2013 ACCF/AHA guideline for the management of ST-elevation myocardial infarction: a report of the American College of Cardiology Foundation/American Heart Association Task Force on Practice Guidelines", Circulation, 127 (4): e362–425, doi:10.1161/CIR.0b013e3182742cf6, PMID 23247304
  33. Papatheodorou, Konstantinos; Banach, Maciej; Bekiari, Eleni; Rizzo, Manfredi; Edmonds, Michael (ngày 11 tháng 3 năm 2018), "Complications of Diabetes 2017", Journal of Diabetes Research, 2018, doi:10.1155/2018/3086167, PMC 5866895, PMID 29713648
  34. a b c d Diabetes Programme, World Health Organization, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 26 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014
  35. Sayin, Nihat; Kara, Necip; Pekel, Gökhan (ngày 15 tháng 2 năm 2015), "Ocular complications of diabetes mellitus", World Journal of Diabetes, 6 (1): 92–108, doi:10.4239/wjd.v6.i1.92, PMC 4317321, PMID 25685281
  36. "Diabetes – eye care: MedlinePlus Medical Encyclopedia", medlineplus.gov (trong English), truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2018
  37. Shojaie Fard, A.; Esmaelzadeh, M.; Larijani, B. (ngày 10 tháng 10 năm 2007), "Assessment and treatment of diabetic foot ulcer", The International Journal of Clinical Practice, 61 (11): 1931–1938, doi:10.1111/j.1742-1241.2007.01534.x, PMID 17935551
  38. Cukierman, T (ngày 8 tháng 11 năm 2005), "Cognitive decline and dementia in diabetes – systematic overview of prospective observational studies", Diabetologia, 48 (12): 2460–69, doi:10.1007/s00125-005-0023-4, PMID 16283246
  39. Yang Y, Hu X, Zhang Q, Zou R (tháng 11 năm 2016), "Diabetes mellitus and risk of falls in older adults: a systematic review and meta-analysis", Age and Ageing, 45 (6): 761–67, doi:10.1093/ageing/afw140, PMID 27515679
  40. a b c Williams textbook of endocrinology (lxb. 12th), Elsevier/Saunders, 2011, tr. 1371–1435, ISBN 978-1-4377-0324-5
  41. Lambert P, Bingley PJ (2002), "What is Type 1 Diabetes?", Medicine, 30: 1–5, doi:10.1383/medc.30.1.1.28264
  42. "Classification of Diabetes mellitus 2019", WHO (trong English), truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2020
  43. Tuomi T, Santoro N, Caprio S, Cai M, Weng J, Groop L (tháng 3 năm 2014), "The many faces of diabetes: a disease with increasing heterogeneity", Lancet, 383 (9922): 1084–94, doi:10.1016/S0140-6736(13)62219-9, PMID 24315621, S2CID 12679248
  44. Rother KI (tháng 4 năm 2007), "Diabetes treatment—bridging the divide", The New England Journal of Medicine, 356 (15): 1499–501, doi:10.1056/NEJMp078030, PMC 4152979, PMID 17429082
  45. Amiel, SA (ngày 3 tháng 8 năm 1991), ""Brittle" diabetes", BMJ, 303 (6797): 260–261, doi:10.1136/bmj.303.6797.260, PMC 1670479, PMID 1888921
  46. a b Diabetes Mellitus (DM): Diabetes Mellitus and Disorders of Carbohydrate Metabolism: Merck Manual Professional, Merck Publishing, tháng 4 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 28 tháng 7 năm 2010, truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2010
  47. Dorner M, Pinget M, Brogard JM (tháng 5 năm 1977), "[Essential labile diabetes (author's transl)]", MMW, Munchener Medizinische Wochenschrift (trong Deutsch), 119 (19): 671–74, PMID 406527
  48. Noble, Janelle A (tháng 11 năm 2015), "Immunogenetics of type 1 diabetes: A comprehensive review", Journal of Autoimmunity, 64: 101–112, doi:10.1016/j.jaut.2015.07.014, PMID 26272854
  49. a b Petzold A, Solimena M, Knoch KP (tháng 10 năm 2015), "Mechanisms of Beta Cell Dysfunction Associated With Viral Infection", Current Diabetes Reports (Review), 15 (10): 73, doi:10.1007/s11892-015-0654-x, PMC 4539350, PMID 26280364, So far, none of the hypotheses accounting for virus-induced beta cell autoimmunity has been supported by stringent evidence in humans, and the involvement of several mechanisms rather than just one is also plausible.
  50. Butalia S, Kaplan GG, Khokhar B, Rabi DM (tháng 12 năm 2016), "Environmental Risk Factors and Type 1 Diabetes: Past, Present, and Future", Canadian Journal of Diabetes (Review), 40 (6): 586–93, doi:10.1016/j.jcjd.2016.05.002, PMID 27545597
  51. Serena G, Camhi S, Sturgeon C, Yan S, Fasano A (tháng 8 năm 2015), "The Role of Gluten in Celiac Disease and Type 1 Diabetes", Nutrients, 7 (9): 7143–62, doi:10.3390/nu7095329, PMC 4586524, PMID 26343710
  52. Visser J, Rozing J, Sapone A, Lammers K, Fasano A (tháng 5 năm 2009), "Tight junctions, intestinal permeability, and autoimmunity: celiac disease and type 1 diabetes paradigms", Annals of the New York Academy of Sciences, 1165 (1): 195–205, Bibcode:2009NYASA1165..195V, doi:10.1111/j.1749-6632.2009.04037.x, PMC 2886850, PMID 19538307
  53. Harjutsalo, Valma; Lammi, Niina; Karvonen, Marjatta; Groop, Per-Henrik (tháng 1 năm 2010), "Age at Onset of Type 1 Diabetes in Parents and Recurrence Risk in Offspring", Diabetes, 59 (1): 210–214, doi:10.2337/db09-0344, PMC 2797923, PMID 19833881
  54. Palmer, Jerry P; Hampe, Christiane S; Chiu, Harvey; Goel, Amit; Brooks-Worrell, Barbara M (tháng 12 năm 2005), "Is latent autoimmune diabetes in adults distinct from type 1 diabetes or just type 1 diabetes at an older age?", Diabetes, 54, doi:10.2337/diabetes.54.suppl_2.s62, PMID 16306342
  55. Laugesen E, Østergaard JA, Leslie RD (tháng 7 năm 2015), "Latent autoimmune diabetes of the adult: current knowledge and uncertainty", Diabetic Medicine, 32 (7): 843–52, doi:10.1111/dme.12700, PMC 4676295, PMID 25601320
  56. American Diabetes Association (tháng 1 năm 2017), "2. Classification and Diagnosis of Diabetes", Diabetes Care, 40 (Suppl 1): S11–S24, doi:10.2337/dc17-S005, PMID 27979889
  57. Carris NW, Magness RR, Labovitz AJ (tháng 2 năm 2019), "Prevention of Diabetes Mellitus in Patients With Prediabetes", The American Journal of Cardiology, 123 (3): 507–512, doi:10.1016/j.amjcard.2018.10.032, PMC 6350898, PMID 30528418
  58. a b Risérus U, Willett WC, Hu FB (tháng 1 năm 2009), "Dietary fats and prevention of type 2 diabetes", Progress in Lipid Research, 48 (1): 44–51, doi:10.1016/j.plipres.2008.10.002, PMC 2654180, PMID 19032965
  59. Lee IM, Shiroma EJ, Lobelo F, Puska P, Blair SN, Katzmarzyk PT (tháng 7 năm 2012), "Effect of physical inactivity on major non-communicable diseases worldwide: an analysis of burden of disease and life expectancy", Lancet, 380 (9838): 219–29, doi:10.1016/S0140-6736(12)61031-9, PMC 3645500, PMID 22818936
  60. Malik VS, Popkin BM, Bray GA, Després JP, Hu FB (tháng 3 năm 2010), "Sugar-sweetened beverages, obesity, type 2 diabetes mellitus, and cardiovascular disease risk", Circulation, 121 (11): 1356–64, doi:10.1161/CIRCULATIONAHA.109.876185, PMC 2862465, PMID 20308626
  61. Malik VS, Popkin BM, Bray GA, Després JP, Willett WC, Hu FB (tháng 11 năm 2010), "Sugar-sweetened beverages and risk of metabolic syndrome and type 2 diabetes: a meta-analysis", Diabetes Care, 33 (11): 2477–83, doi:10.2337/dc10-1079, PMC 2963518, PMID 20693348
  62. Hu EA, Pan A, Malik V, Sun Q (tháng 3 năm 2012), "White rice consumption and risk of type 2 diabetes: meta-analysis and systematic review", BMJ, 344: e1454, doi:10.1136/bmj.e1454, PMC 3307808, PMID 22422870
  63. Huang, Hao; Yan, Peipei; Shan, Zhilei; Chen, Sijing; Li, Moying; Luo, Cheng; Gao, Hui; Hao, Liping; Liu, Liegang (ngày 1 tháng 11 năm 2015), "Adverse childhood experiences and risk of type 2 diabetes: A systematic review and meta-analysis", Metabolism: Clinical and Experimental (trong English), 64 (11): 1408–1418, doi:10.1016/j.metabol.2015.08.019, ISSN 0026-0495, PMID 26404480
  64. a b National Diabetes Clearinghouse (NDIC): National Diabetes Statistics 2011, U.S. Department of Health and Human Services, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014
  65. a b Soldavini, Jessica (tháng 11 năm 2019), "Krause's Food & The Nutrition Care Process", Journal of Nutrition Education and Behavior, 51 (10): 1225, doi:10.1016/j.jneb.2019.06.022, ISSN 1499-4046
  66. "Managing & Treating Gestational Diabetes | NIDDK", National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases (trong English), truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019
  67. Tarvonen M, Hovi P, Sainio S, Vuorela P, Andersson S, Teramo K (2021), "Intrapartal cardiotocographic patterns and hypoxia-related perinatal outcomes in pregnancies complicated by gestational diabetes mellitus", Acta Diabetologica, doi:10.1007/s00592-021-01756-0, PMID 34151398, S2CID 235487220CS1 maint: multiple names: authors list (link)
  68. National Collaborating Centre for Women's and Children's Health (tháng 2 năm 2015), "Intrapartum care", Diabetes in Pregnancy: Management of diabetes and its complications from preconception to the postnatal period (trong English), National Institute for Health and Care Excellence (UK)
  69. "Monogenic Forms of Diabetes", National institute of diabetes and digestive and kidney diseases, US NIH, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 3 năm 2017, truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2017
  70. Thanabalasingham G, Owen KR (tháng 10 năm 2011), "Diagnosis and management of maturity onset diabetes of the young (MODY)", BMJ, 343 (oct19 3): d6044, doi:10.1136/bmj.d6044, PMID 22012810, S2CID 44891167
  71. a b Definition, Diagnosis and Classification of Diabetes Mellitus and its Complications (PDF), World Health Organization, 1999, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 3 năm 2003
  72. Cleland, S. J.; Fisher, B. M.; Colhoun, H. M.; Sattar, N.; Petrie, J. R. (2013), "Insulin Resistance in Type 1 Diabetes", Diabetologia, National Library of Medicine, 56 (7): 1462–1470, doi:10.1007/s00125-013-2904-2, PMC 3671104, PMID 23613085
  73. Insulin Basics, American Diabetes Association, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 2 năm 2014, truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2014
  74. a b c d Shoback DG, Gardner D, bt. (2011), Greenspan's basic & clinical endocrinology (lxb. 9th), McGraw-Hill Medical, ISBN 978-0-07-162243-1
  75. Barrett KE, et al. (2012), Ganong's review of medical physiology (lxb. 24th), McGraw-Hill Medical, ISBN 978-0-07-178003-2
  76. Murray RK, et al. (2012), Harper's illustrated biochemistry (lxb. 29th), McGraw-Hill Medical, ISBN 978-0-07-176576-3
  77. Mogotlane, Sophie (2013), Juta's Complete Textbook of Medical Surgical Nursing, Cape Town: Juta, tr. 839
  78. Definition and diagnosis of diabetes mellitus and intermediate hyperglycemia: Report of a WHO/IDF consultation (PDF), Geneva: World Health Organization, 2006, tr. 21, ISBN 978-92-4-159493-6
  79. Vijan, S (tháng 3 năm 2010), "Type 2 diabetes", Annals of Internal Medicine, 152 (5): ITC31-15, doi:10.7326/0003-4819-152-5-201003020-01003, PMID 20194231
  80. ""Diabetes Care" January 2010", Diabetes Care, 33: S3, 2009, doi:10.2337/dc10-S003, PMC 2797388, PMID 20042773, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 13 tháng 1 năm 2010, truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2010
  81. Saydah SH, Miret M, Sung J, Varas C, Gause D, Brancati FL (tháng 8 năm 2001), "Post-challenge hyperglycemia and mortality in a national sample of U.S. adults", Diabetes Care, 24 (8): 1397–402, doi:10.2337/diacare.24.8.1397, PMID 11473076
  82. Definition and diagnosis of diabetes mellitus and intermediate hyperglycemia : report of a WHO/IDF consultation (PDF), World Health Organization, 2006, tr. 21, ISBN 978-92-4-159493-6, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 5 năm 2012
  83. Santaguida PL, Balion C, Hunt D, Morrison K, Gerstein H, Raina P, Booker L, Yazdi H (2005), "Diagnosis, Prognosis, and Treatment of Impaired Glucose Tolerance and Impaired Fasting Glucose", Evidence Report/Technology Assessment (Summary), Agency for Healthcare Research and Quality (128): 1–11, PMC 4780988, PMID 16194123, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 9 năm 2008, truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2008
  84. Bartoli E, Fra GP, Carnevale Schianca GP (tháng 2 năm 2011), "The oral glucose tolerance test (OGTT) revisited", European Journal of Internal Medicine, 22 (1): 8–12, doi:10.1016/j.ejim.2010.07.008, PMID 21238885
  85. Selvin E, Steffes MW, Zhu H, Matsushita K, Wagenknecht L, Pankow J, Coresh J, Brancati FL (tháng 3 năm 2010), "Glycated hemoglobin, diabetes, and cardiovascular risk in nondiabetic adults", The New England Journal of Medicine, 362 (9): 800–11, CiteSeerX 10.1.1.589.1658, doi:10.1056/NEJMoa0908359, PMC 2872990, PMID 20200384
  86. Alustiza, Elena (2020), "Tackling risk factors for type 2 diabetes in adolescents: PRE-STARt study in Euskadi", Anales de Pediatria (Barcelona, Spain : 2003), Madrid: Anales de Pediatría, doi:10.1016/j.anpedi.2020.11.001
  87. Kyu HH, Bachman VF, Alexander LT, Mumford JE, Afshin A, Estep K, Veerman JL, Delwiche K, Iannarone ML, Moyer ML, Cercy K, Vos T, Murray CJ, Forouzanfar MH (tháng 8 năm 2016), "Physical activity and risk of breast cancer, colon cancer, diabetes, ischemic heart disease, and ischemic stroke events: systematic review and dose-response meta-analysis for the Global Burden of Disease Study 2013", BMJ, 354: i3857, doi:10.1136/bmj.i3857, PMC 4979358, PMID 27510511
  88. a b "Simple Steps to Preventing Diabetes", The Nutrition Source, Harvard T.H. Chan School of Public Health, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 4 năm 2014
  89. Willi C, Bodenmann P, Ghali WA, Faris PD, Cornuz J (tháng 12 năm 2007), "Active smoking and the risk of type 2 diabetes: a systematic review and meta-analysis", JAMA, 298 (22): 2654–64, doi:10.1001/jama.298.22.2654, PMID 18073361
  90. Chronic diseases and their common risk factors (PDF), World Health Organization, 2005, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 10 năm 2016, truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2016
  91. Toumpanakis, Anastasios; Turnbull, Triece; Alba-Barba, Isaura (ngày 30 tháng 10 năm 2018), "Effectiveness of plant-based diets in promoting well-being in the management of type 2 diabetes: a systematic review", BMJ Open Diabetes Research & Care, 6 (1): e000534, doi:10.1136/bmjdrc-2018-000534, ISSN 2052-4897, PMC 6235058, PMID 30487971
  92. Nathan DM, Cleary PA, Backlund JY, Genuth SM, Lachin JM, Orchard TJ, Raskin P, Zinman B (tháng 12 năm 2005), "Intensive diabetes treatment and cardiovascular disease in patients with type 1 diabetes", The New England Journal of Medicine, 353 (25): 2643–53, doi:10.1056/NEJMoa052187, PMC 2637991, PMID 16371630
  93. "The effect of intensive diabetes therapy on the development and progression of neuropathy. The Diabetes Control and Complications Trial Research Group", Annals of Internal Medicine, 122 (8): 561–68, tháng 4 năm 1995, doi:10.7326/0003-4819-122-8-199504150-00001, PMID 7887548, S2CID 24754081
  94. Qaseem A, Wilt TJ, Kansagara D, Horwitch C, Barry MJ, Forciea MA (tháng 4 năm 2018), "Hemoglobin A1c Targets for Glycemic Control With Pharmacologic Therapy for Nonpregnant Adults With Type 2 Diabetes Mellitus: A Guidance Statement Update From the American College of Physicians", Annals of Internal Medicine, 168 (8): 569–576, doi:10.7326/M17-0939, PMID 29507945
  95. Bản mẫu:NICE
  96. Cavanagh PR (2004), "Therapeutic footwear for people with diabetes", Diabetes/Metabolism Research and Reviews, 20 Suppl 1 (Suppl 1): S51–55, doi:10.1002/dmrr.435, PMID 15150815, S2CID 33268734
  97. Haw JS, Galaviz KI, Straus AN, Kowalski AJ, Magee MJ, Weber MB, Wei J, Narayan KM, Ali MK (tháng 12 năm 2017), "Long-term Sustainability of Diabetes Prevention Approaches: A Systematic Review and Meta-analysis of Randomized Clinical Trials", JAMA Internal Medicine, 177 (12): 1808–17, doi:10.1001/jamainternmed.2017.6040, PMC 5820728, PMID 29114778
  98. Mottalib A, Kasetty M, Mar JY, Elseaidy T, Ashrafzadeh S, Hamdy O (tháng 8 năm 2017), "Weight Management in Patients with Type 1 Diabetes and Obesity", Current Diabetes Reports, 17 (10): 92, doi:10.1007/s11892-017-0918-8, PMC 5569154, PMID 28836234
  99. a b American Diabetes, Association. (tháng 1 năm 2019), "5. Lifestyle Management: Standards of Medical Care in Diabetes-2019.", Diabetes Care, 42 (Suppl 1): S46–S60, doi:10.2337/dc19-S005, PMID 30559231
  100. a b c Evert AB, Dennison M, Gardner CD, Garvey WT, Lau KH, MacLeod J, et al. (tháng 5 năm 2019), "Nutrition Therapy for Adults With Diabetes or Prediabetes: A Consensus Report", Diabetes Care (Professional society guidelines), 42 (5): 731–754, doi:10.2337/dci19-0014, PMC 7011201, PMID 31000505
  101. a b Emadian A, Andrews RC, England CY, Wallace V, Thompson JL (tháng 11 năm 2015), "The effect of macronutrients on glycaemic control: a systematic review of dietary randomised controlled trials in overweight and obese adults with type 2 diabetes in which there was no difference in weight loss between treatment groups", The British Journal of Nutrition, 114 (10): 1656–66, doi:10.1017/S0007114515003475, PMC 4657029, PMID 26411958
  102. Grams J, Garvey WT (tháng 6 năm 2015), "Weight Loss and the Prevention and Treatment of Type 2 Diabetes Using Lifestyle Therapy, Pharmacotherapy, and Bariatric Surgery: Mechanisms of Action", Current Obesity Reports, 4 (2): 287–302, doi:10.1007/s13679-015-0155-x, PMID 26627223, S2CID 207474124
  103. Rosberger, DF (tháng 12 năm 2013), "Diabetic retinopathy: current concepts and emerging therapy", Endocrinology and Metabolism Clinics of North America, 42 (4): 721–45, doi:10.1016/j.ecl.2013.08.001, PMID 24286948
  104. MacIsaac, RJ; Jerums, G; Ekinci, EI (tháng 3 năm 2018), "Glycemic Control as Primary Prevention for Diabetic Kidney Disease", Advances in Chronic Kidney Disease, 25 (2): 141–148, doi:10.1053/j.ackd.2017.11.003, PMID 29580578
  105. Pozzilli, P; Strollo, R; Bonora, E (tháng 3 năm 2014), "One size does not fit all glycemic targets for type 2 diabetes", Journal of Diabetes Investigation, 5 (2): 134–41, doi:10.1111/jdi.12206, PMC 4023573, PMID 24843750
  106. Pathak, Varun; Pathak, Nupur Madhur; O’Neill, Christina L; Guduric-Fuchs, Jasenka; Medina1, Reinhold J (ngày 3 tháng 5 năm 2019), "Therapies for Type 1 Diabetes: Current Scenario and Future Perspectives", Clinical Medicine Insights: Endocrinology and Diabetes, 12, doi:10.1177/1179551419844521, PMC 6501476, PMID 31105434
  107. Otto-Buczkowska, Ewa; Jainta, Natalia (ngày 20 tháng 11 năm 2017), "Pharmacological Treatment in Diabetes Mellitus Type 1 – Insulin and What Else?", International Journal of Endocrinology and Metabolism, 16 (1), doi:10.5812/ijem.13008, PMC 5903388, PMID 29696037
  108. a b Warshauer, Jeremy T; Bluestone, Jeffrey A; Anderson, Mark S (ngày 7 tháng 1 năm 2020), "New Frontiers in the Treatment of Type 1 Diabetes", Cell Metabolism, 31 (1): 46–61, doi:10.1016/j.cmet.2019.11.017, PMC 6986815, PMID 31839487
  109. a b Krentz, AJ; Bailey, CJ (2005), "Oral antidiabetic agents: current role in type 2 diabetes mellitus", Drugs, 65 (3): 385–411, doi:10.2165/00003495-200565030-00005, PMID 15669880, S2CID 29670619
  110. Consumer Reports; American College of Physicians (tháng 4 năm 2012), "Choosing a type 2 diabetes drug – Why the best first choice is often the oldest drug" (PDF), High Value Care, Consumer Reports, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 2 tháng 7 năm 2014, truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2012
  111. Mitchell, Sharon; Malanda, Belma; Damasceno, Albertino; Eckel, Robert H.; Gaita, Dan; Kotseva, Kornelia; Januzzi, James L.; Mensah, George; Plutzky, Jorge; Prystupiuk, Maksym; Ryden, Lars (tháng 9 năm 2019), "A Roadmap on the Prevention of Cardiovascular Disease Among People Living With Diabetes", Global Heart, 14 (3): 215–240, doi:10.1016/j.gheart.2019.07.009, ISSN 2211-8179, PMID 31451236
  112. Brunström M, Carlberg B (tháng 2 năm 2016), "Effect of antihypertensive treatment at different blood pressure levels in patients with diabetes mellitus: systematic review and meta-analyses", BMJ, 352: i717, doi:10.1136/bmj.i717, PMC 4770818, PMID 26920333
  113. Brunström, Mattias; Carlberg, Bo (ngày 30 tháng 9 năm 2019), "Benefits and harms of lower blood pressure treatment targets: systematic review and meta-analysis of randomised placebo-controlled trials", BMJ Open, 9 (9): e026686, doi:10.1136/bmjopen-2018-026686, ISSN 2044-6055, PMC 6773352, PMID 31575567
  114. a b c Fox, Caroline S.; Golden, Sherita Hill; Anderson, Cheryl; Bray, George A.; Burke, Lora E.; Boer, Ian H. de; Deedwania, Prakash; Eckel, Robert H.; Ershow, Abby G.; Fradkin, Judith; Inzucchi, Silvio E. (ngày 1 tháng 9 năm 2015), "Update on Prevention of Cardiovascular Disease in Adults With Type 2 Diabetes Mellitus in Light of Recent Evidence: A Scientific Statement From the American Heart Association and the American Diabetes Association", Diabetes Care (trong English), 38 (9): 1777–1803, doi:10.2337/dci15-0012, ISSN 0149-5992, PMC 4876675, PMID 26246459
  115. Cheng J, Zhang W, Zhang X, Han F, Li X, He X, Li Q, Chen J (tháng 5 năm 2014), "Effect of angiotensin-converting enzyme inhibitors and angiotensin II receptor blockers on all-cause mortality, cardiovascular deaths, and cardiovascular events in patients with diabetes mellitus: a meta-analysis", JAMA Internal Medicine, 174 (5): 773–85, doi:10.1001/jamainternmed.2014.348, PMID 24687000
  116. Zheng, Sean L.; Roddick, Alistair J.; Ayis, Salma (tháng 9 năm 2017), "Effects of aliskiren on mortality, cardiovascular outcomes and adverse events in patients with diabetes and cardiovascular disease or risk: A systematic review and meta-analysis of 13,395 patients", Diabetes & Vascular Disease Research, 14 (5): 400–406, doi:10.1177/1479164117715854, ISSN 1752-8984, PMC 5600262, PMID 28844155
  117. a b Catalá-López, Ferrán; Macías Saint-Gerons, Diego; González-Bermejo, Diana; Rosano, Giuseppe M.; Davis, Barry R.; Ridao, Manuel; Zaragoza, Abel; Montero-Corominas, Dolores; Tobías, Aurelio; de la Fuente-Honrubia, César; Tabarés-Seisdedos, Rafael (tháng 3 năm 2016), "Cardiovascular and Renal Outcomes of Renin-Angiotensin System Blockade in Adult Patients with Diabetes Mellitus: A Systematic Review with Network Meta-Analyses", PLOS Medicine, 13 (3): e1001971, doi:10.1371/journal.pmed.1001971, ISSN 1549-1676, PMC 4783064, PMID 26954482
  118. Pignone M, Alberts MJ, Colwell JA, Cushman M, Inzucchi SE, Mukherjee D, Rosenson RS, Williams CD, Wilson PW, Kirkman MS (tháng 6 năm 2010), "Aspirin for primary prevention of cardiovascular events in people with diabetes: a position statement of the American Diabetes Association, a scientific statement of the American Heart Association, and an expert consensus document of the American College of Cardiology Foundation", Diabetes Care, 33 (6): 1395–402, doi:10.2337/dc10-0555, PMC 2875463, PMID 20508233
  119. Frachetti KJ, Goldfine AB (tháng 4 năm 2009), "Bariatric surgery for diabetes management", Current Opinion in Endocrinology, Diabetes and Obesity, 16 (2): 119–24, doi:10.1097/MED.0b013e32832912e7, PMID 19276974, S2CID 31797748
  120. a b Schulman AP, del Genio F, Sinha N, Rubino F (tháng 9–tháng 10 năm 2009), ""Metabolic" surgery for treatment of type 2 diabetes mellitus", Endocrine Practice, 15 (6): 624–31, doi:10.4158/EP09170.RAR, PMID 19625245
  121. Colucci RA (tháng 1 năm 2011), "Bariatric surgery in patients with type 2 diabetes: a viable option", Postgraduate Medicine, 123 (1): 24–33, doi:10.3810/pgm.2011.01.2242, PMID 21293081, S2CID 207551737
  122. Dixon JB, le Roux CW, Rubino F, Zimmet P (tháng 6 năm 2012), "Bariatric surgery for type 2 diabetes", Lancet, 379 (9833): 2300–11, doi:10.1016/S0140-6736(12)60401-2, PMID 22683132, S2CID 5198462
  123. Pancreas Transplantation, American Diabetes Association, lưu trữ từ nguyên tác ngày 13 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2014
  124. Polisena J, Tran K, Cimon K, Hutton B, McGill S, Palmer K (tháng 10 năm 2009), "Home telehealth for diabetes management: a systematic review and meta-analysis", Diabetes, Obesity & Metabolism, 11 (10): 913–30, doi:10.1111/j.1463-1326.2009.01057.x, PMID 19531058, S2CID 44260857
  125. a b c d Elflein, John (ngày 10 tháng 12 năm 2019), Estimated number diabetics worldwideCS1 maint: date and year (link)
  126. Shi Y, Hu FB (tháng 6 năm 2014), "The global implications of diabetes and cancer", Lancet, 383 (9933): 1947–48, doi:10.1016/S0140-6736(14)60886-2, PMID 24910221, S2CID 7496891
  127. a b c d e Global Report on Diabetes (PDF), World Health Organization, 2016, truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2018
  128. Gale EA, Gillespie KM (tháng 1 năm 2001), "Diabetes and gender", Diabetologia, 44 (1): 3–15, doi:10.1007/s001250051573, PMID 11206408
  129. Meisinger C, Thorand B, Schneider A, et al. (2002), "Sex differences in risk factors for incident type 2 Diabetes Mellitus: The MONICA Augsburg Cohort Study", JAMA Internal Medicine, 162 (1): 82–89, doi:10.1001/archinte.162.1.82, PMID 11784224
  130. Public Health Agency of Canada, Diabetes in Canada: Facts and figures from a public health perspective. Ottawa, 2011.
  131. Mathers CD, Loncar D (tháng 11 năm 2006), "Projections of global mortality and burden of disease from 2002 to 2030", PLOS Medicine, 3 (11): e442, doi:10.1371/journal.pmed.0030442, PMC 1664601, PMID 17132052
  132. a b Wild S, Roglic G, Green A, Sicree R, King H (tháng 5 năm 2004), "Global prevalence of diabetes: estimates for the year 2000 and projections for 2030", Diabetes Care, 27 (5): 1047–53, doi:10.2337/diacare.27.5.1047, PMID 15111519
  133. Nguyen, Ngoc Bich; Lin, Zhou Lu; Ahmed, Waqas (ngày 2 tháng 1 năm 2020), "Diabetes: What Challenges Lie Ahead for Vietnam?", Annals of Global Health, 86 (1): 1, doi:10.5334/aogh.2526, PMC 6952858, PMID 31934549
  134. "Infographic dân số, lao động và việc làm năm 2020", gso.gov.vn, Tổng cục Thống kê, ngày 19 tháng 1 năm 2021, truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021
  135. a b Pham, Ngoc Minh; Eggleston, Karen, "Diabetes Prevalence and Risk Factors Among Vietnamese Adults: Findings From Community-Based Screening Programs", Diabetes Care, 38 (5): e77-8, doi:10.2337/dc14-3093, PMID 25908162
  136. "The growing burden of diabetes in Viet Nam", who.int, ngày 7 tháng 4 năm 2016, truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2021
  137. "Viet Nam", healthdata.org, 2019, truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2021
  138. Nguyen, Chung Thanh; Pham, Ngoc Minh; Lee, Andy H; Binns, Colin W (ngày 17 tháng 7 năm 2015), "Prevalence of and Risk Factors for Type 2 Diabetes Mellitus in Vietnam: A Systematic Review", Asia Pacific Journal of Public Health, 27 (6): 588–600, doi:10.1177/1010539515595860, PMID 26187848
  139. Pham, Ngoc Minh; Eggleston, Karen (ngày 1 tháng 3 năm 2016), Prevalence and determinants of diabetes and prediabetes among Vietnamese adults, 113, tr. 116–124, doi:10.1016/j.diabres.2015.12.009, PMID 26795973
  140. a b c d Ton, That Thanh; Tran, Anh Thi Ngoc; Do, Ich Thanh; Nguyen, Hoa; Nguyen, Thi Thanh Binh; Nguyen, Minh Tu; Ha, Van Anh Bao; Hoang, Huu Khoi; Tran, Binh Thang (ngày 11 tháng 5 năm 2020), "Trends in prediabetes and diabetes prevalence and associated risk factors in Vietnamese adults", Epidemiology and Health, 42 (e2020029), doi:10.4178/epih.e2020029, PMID 32512669
  141. Le, Nguyen Tu Dang; Pham, Luyen Dinh; Vo, Trung Quang (ngày 29 tháng 8 năm 2017), Type 2 diabetes in Vietnam: a cross-sectional, prevalence-based cost-of-illness study, 2017, tr. 363–374, doi:10.2147/DMSO.S145152, PMC 5587014, PMID 28919795
  142. a b c Nguyen, Khue Thi (ngày 22 tháng 4 năm 2016), "Diabetes in Vietnam", Annals of Global Health, 81 (6): 870–873, doi:10.1016/j.aogh.2016.01.003, ISSN 2214-9996, PMID 27108154
  143. Nguyen, C T; Pham, N M; Nguyen, Q V; Nguyen, V Q; La, Q N; Lee, A H (tháng 9 năm 2016), "Menopausal status and type 2 diabetes: a nationwide epidemiological survey in Vietnam", Public Health, 138: 168–169, doi:10.1016/j.puhe.2016.04.010, PMID 27193910
  144. Maddatu, Judith; Anderson-Baucum, Emily; Evans-Molina, Carmella (ngày 1 tháng 6 năm 2017), "Smoking and the Risk of Type 2 Diabetes", Translational Research, 184: 101–107, doi:10.1016/j.trsl.2017.02.004, PMC 5429867, PMID 28336465
  145. Ripoll, Brian C. Leutholtz, Ignacio (ngày 25 tháng 4 năm 2011), Exercise and disease management (lxb. 2nd), Boca Raton: CRC Press, tr. 25, ISBN 978-1-4398-2759-8, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 3 tháng 4 năm 2016
  146. a b c d e f Poretsky, Leonid, bt. (2009), Principles of diabetes mellitus (lxb. 2nd), New York: Springer, tr. 3, ISBN 978-0-387-09840-1, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016
  147. a b Roberts, Jacob (2015), "Sickening sweet", Distillations, vol. 1 no. 4, tr. 12–15, truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018
  148. Laios K, Karamanou M, Saridaki Z, Androutsos G (2012), "Aretaeus of Cappadocia and the first description of diabetes" (PDF), Hormones, 11 (1): 109–13, doi:10.1007/BF03401545, PMID 22450352, S2CID 4730719, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 1 năm 2017