Sửa đổi Trung đại

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 31: Dòng 31:
 
==Văn hóa==
 
==Văn hóa==
 
Sự am hiểu [[lịch sử]] trung đại thường cứ theo các [[tùng thư]] còn sót lại qua thì gian, nhìn chung chỉ tồn tại ở [[Cựu Thế Giới]]. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn và [[ý thức hệ]] lại có sự nhận thức khác nhau, thậm chí tìm cách từ khước quá khứ.
 
Sự am hiểu [[lịch sử]] trung đại thường cứ theo các [[tùng thư]] còn sót lại qua thì gian, nhìn chung chỉ tồn tại ở [[Cựu Thế Giới]]. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn và [[ý thức hệ]] lại có sự nhận thức khác nhau, thậm chí tìm cách từ khước quá khứ.
{{cquote|''Đã nhiều lần tôi đề cập, các chính thể Lý-Trần-Lê-Nguyễn từng tự xưng "Trung Quốc", "Trung Châu", "Trung Hạ", "Trung Hoa", "Hoa Hạ", thậm chí là "Hán", với ngụ ý đất nước văn minh, cộng đồng người văn minh ở khu vực trung tâm, trước khi những từ này trở thành danh từ riêng đặc chỉ "China" từ cuối thể kỷ XIX. "Hán" hay "Việt" ở đây chỉ là vỏ khái niệm, ngầm ý cho biết sự nhận đồng về văn hóa của vua quan Việt Nam so với Trung Quốc. Các triều đại được lập nên ở bốn nước Việt-Trung-Hàn-Nhật đều là những cá thể riêng biệt, đặt định lễ giáo, vận dụng tư tưởng Nho gia, xử dụng văn tự chữ vuông sáng tác văn chương, ghi chép chính sử theo những phương thức riêng biệt.''<br>''"Văn bia Dụ lăng" [大越藍山裕陵碑] (tạc năm 1504) viết : "Trung Quốc mạnh mẽ, man di khiếp sợ".''<br>''"Đại Nam thực lục" [大南實錄] viết : "Đại Thanh, tổ tiên là người Mãn […]. Xét, Mãn là mọi rợ còn như thế, huống hồ nước ta là đất Nam Hà văn vật, không thể đem so với bọn ấy được" (Đệ nhị kỷ, quyển 26, trang 22) ; "Đất mọi đã lệ thuộc bản đồ của ta từ lâu, dân mọi cũng là con đỏ của ta, phải nên bảo ban dìu dắt, để ngày một nhiễm theo phong tục Hán […]. Phàm những thứ cần dùng đều phải học theo dân Hán, chăm việc làm lụng. Đến như ngôn ngữ thì bảo chúng dần tập nói tiếng Hán. Ăn uống và quần áo cũng dạy cho dần theo tục Hán…" (Đệ nhị kỷ, quyển 163, trang 22).''<br>''Những từ "Trung Quốc", "Hoa", "Hán" trong các bản dịch Việt ngữ lưu hành hiện nay, đã bị "đánh lận" và dịch thành "nước ta", "Việt ta", "trong nước". Và lâu nay, dưới nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, người ta luôn rao giảng về bản sắc văn hóa Việt, về tinh thần dân tộc Việt, song song với việc diễn giải lịch sử - văn hóa - tư tưởng của các triều đại phong kiến trước đây theo tinh thần mới này. Việc làm này thực chất là đang tự lừa dối chính mình ; nó sẽ ngày một nguy hiểm hơn, khi tư tưởng dân tộc đang có chiều hướng cực đoan và việc bài Hoa (Sinophobia) ngày càng trở nên quá khích.''<br>''Một người bạn tôi từng nói : "Trong lịch sử, lần đầu tiên người Việt chống xâm lăng phương Bắc bởi một thế hệ không biết tiếng Hán, bởi một thế hệ trí thức không thể đọc nổi các văn tự gốc viết về lịch sử của chính dân tộc mình !". Và, chính trong lúc sức đề kháng văn hóa - chính trị của người Việt yếu ớt như hiện nay, tôi lại càng nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc học chữ Hán, của việc học và đọc sử. Người Hàn Quốc, người Nhật Bản vẫn học chữ Hán, tuyệt đối không vì họ muốn sáp nhập vào Trung Quốc, mà bởi họ thấy cần hiểu lịch sử - văn hóa - tư tưởng của chính dân tộc họ viết nên trong hơn ngàn năm qua, để gạn đục khơi trong nền văn hóa Á Đông song song với việc áp dụng tư tưởng dân chủ - tiến bộ từ các nước Âu Mỹ. Và hơn nữa, họ hiểu được cách ứng xử của tổ tiên họ với Trung Quốc, cũng như hiểu hơn về chính người Trung Quốc.''|||[[Trần Quang Đức]], ''Trung Quốc được nhận diện thế nào trong ý thức hệ xưa ?'', [[Hà Nội]], 2015.}}
+
{{cquote|''Đã nhiều lần tôi đề cập, các chính thể Lý-Trần-Lê-Nguyễn từng tự xưng "Trung Quốc", "Trung Châu", "Trung Hạ", "Trung Hoa", "Hoa Hạ", thậm chí là "Hán", với ngụ ý đất nước văn minh, cộng đồng người văn minh ở khu vực trung tâm, trước khi những từ này trở thành danh từ riêng đặc chỉ "China" từ cuối thể kỷ XIX [*]. "Hán" hay "Việt" ở đây chỉ là vỏ khái niệm, ngầm ý cho biết sự nhận đồng về văn hóa của vua quan Việt Nam so với Trung Quốc. Các triều đại được lập nên ở bốn nước Việt-Trung-Hàn-Nhật đều là những cá thể riêng biệt, đặt định lễ giáo, vận dụng tư tưởng Nho gia, xử dụng văn tự chữ vuông sáng tác văn chương, ghi chép chính sử theo những phương thức riêng biệt.''<br>''"Văn bia Dụ lăng" [大越藍山裕陵碑] (tạc năm 1504) viết : "Trung Quốc mạnh mẽ, man di khiếp sợ".''<br>''"Đại Nam thực lục" [大南實錄] viết : "Đại Thanh, tổ tiên là người Mãn […]. Xét, Mãn là mọi rợ còn như thế, huống hồ nước ta là đất Nam Hà văn vật, không thể đem so với bọn ấy được" (Đệ nhị kỷ, quyển 26, trang 22) ; "Đất mọi đã lệ thuộc bản đồ của ta từ lâu, dân mọi cũng là con đỏ của ta, phải nên bảo ban dìu dắt, để ngày một nhiễm theo phong tục Hán […]. Phàm những thứ cần dùng đều phải học theo dân Hán, chăm việc làm lụng. Đến như ngôn ngữ thì bảo chúng dần tập nói tiếng Hán. Ăn uống và quần áo cũng dạy cho dần theo tục Hán…" (Đệ nhị kỷ, quyển 163, trang 22).''<br>''Những từ "Trung Quốc", "Hoa", "Hán" trong các bản dịch Việt ngữ lưu hành hiện nay, đã bị "đánh lận" và dịch thành "nước ta", "Việt ta", "trong nước". Và lâu nay, dưới nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, người ta luôn rao giảng về bản sắc văn hóa Việt, về tinh thần dân tộc Việt, song song với việc diễn giải lịch sử - văn hóa - tư tưởng của các triều đại phong kiến trước đây theo tinh thần mới này. Việc làm này thực chất là đang tự lừa dối chính mình ; nó sẽ ngày một nguy hiểm hơn, khi tư tưởng dân tộc đang có chiều hướng cực đoan và việc bài Hoa (Sinophobia) ngày càng trở nên quá khích.''<br>''Một người bạn tôi từng nói : "Trong lịch sử, lần đầu tiên người Việt chống xâm lăng phương Bắc bởi một thế hệ không biết tiếng Hán, bởi một thế hệ trí thức không thể đọc nổi các văn tự gốc viết về lịch sử của chính dân tộc mình !". Và, chính trong lúc sức đề kháng văn hóa - chính trị của người Việt yếu ớt như hiện nay, tôi lại càng nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc học chữ Hán, của việc học và đọc sử. Người Hàn Quốc, người Nhật Bản vẫn học chữ Hán, tuyệt đối không vì họ muốn sáp nhập vào Trung Quốc, mà bởi họ thấy cần hiểu lịch sử - văn hóa - tư tưởng của chính dân tộc họ viết nên trong hơn ngàn năm qua, để gạn đục khơi trong nền văn hóa Á Đông song song với việc áp dụng tư tưởng dân chủ - tiến bộ từ các nước Âu Mỹ. Và hơn nữa, họ hiểu được cách ứng xử của tổ tiên họ với Trung Quốc, cũng như hiểu hơn về chính người Trung Quốc.''|||[[Trần Quang Đức]], ''Trung Quốc được nhận diện thế nào trong ý thức hệ xưa ?'', [[Hà Nội]], 2015.}}
 
==Tham khảo==
 
==Tham khảo==
 
* [[Văn học trung đại]]
 
* [[Văn học trung đại]]

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)