Sửa đổi Sốt
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 49: | Dòng 49: | ||
| Sốt rất cao || >41,1 || >41 | | Sốt rất cao || >41,1 || >41 | ||
|} | |} | ||
− | Căn cứ theo thời gian, sốt có thể được phân thành cấp tính (dưới 7 ngày), cận cấp tính (không quá 2 tuần), và mạn tính (trên 2 tuần).<ref name="Ogoina"/> Theo nhiệt độ cơ thể thì có sốt nhẹ, sốt vừa, sốt cao, và sốt rất cao (''hyperpyrexia'').<ref name="Ogoina"/> Nhiệt độ sốt đôi khi tương quan với tính nghiêm trọng của bệnh, nhưng cũng không là chỉ báo bệnh tình hữu | + | Căn cứ theo thời gian, sốt có thể được phân thành cấp tính (dưới 7 ngày), cận cấp tính (không quá 2 tuần), và mạn tính (trên 2 tuần).<ref name="Ogoina"/> Theo nhiệt độ cơ thể thì có sốt nhẹ, sốt vừa, sốt cao, và sốt rất cao (''hyperpyrexia'').<ref name="Ogoina"/> Nhiệt độ sốt đôi khi tương quan với tính nghiêm trọng của bệnh, nhưng cũng không là chỉ báo bệnh tình hữu hiệu.<ref name="Ogoina"/> Trừ người mắc bệnh tim thì sốt vừa không có hại gì.{{sfn|Dall|Stanford|1990|p=947}} Tuy nhiên sốt cao có thể nguy hiểm cho hệ thần kinh trung ương, nhất là ở trẻ em.{{sfn|Dall|Stanford|1990|p=947}} Trẻ em sốt trên 41 °C thường hay bị co giật.{{sfn|Dall|Stanford|1990|p=947}} Thân nhiệt duy trì trên 42 °C có thể dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn.{{sfn|Dall|Stanford|1990|p=947}} Người sốt trên 43 °C hiếm khi sống sót.{{sfn|Dall|Stanford|1990|p=947}} |
Thân nhiệt của bệnh nhân được ghi lại sau mỗi quãng thời gian đều nhau và nối các điểm lại cho ra đường cong nhiệt độ.{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4}} Các mô hình dao động nhiệt độ có thể là manh mối hữu ích cho chẩn đoán hoặc chẩn đoán phân biệt tình trạng bệnh.{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4}} Dựa vào đó sốt được phân thành các dạng:{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4–6}} | Thân nhiệt của bệnh nhân được ghi lại sau mỗi quãng thời gian đều nhau và nối các điểm lại cho ra đường cong nhiệt độ.{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4}} Các mô hình dao động nhiệt độ có thể là manh mối hữu ích cho chẩn đoán hoặc chẩn đoán phân biệt tình trạng bệnh.{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4}} Dựa vào đó sốt được phân thành các dạng:{{sfn|Wan|Zeng|2020|p=4–6}} |