Sửa đổi Lục địa

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 1: Dòng 1:
{{sơ}}
+
{{sơ}}'''Lục địa''' vùng rộng lớn của vỏ Trái đất, có phần phần lớn bề mặt cao hơn mực nước biển và được bao quanh bởi các đại dương.  
'''Lục địa''' vùng rộng lớn của vỏ Trái đất, có phần phần lớn bề mặt cao hơn mực nước biển và được bao quanh bởi các đại dương.  
 
  
Theo cấu tạo địa chất, lục địa là khối đất liền rộng hàng triệu km<sup>2</sup>, có biển và đại dương bao quanh. Lục địa có hai bộ phận, bộ phận nổi trên mặt nước biển và phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa là rìa lục địa (gồm: thềm lục địa, sườn dốc và bờ lục địa). Sự phân chia các Lục địa mang ý nghĩa về mặt tự nhiên là chính; trong kỷ nguyên địa chất hiện nay, có sáu lục địa: Á-Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Phi, Australia, Nam Cực. Theo nghĩa hẹp, lục địa là một vùng đất liền liên tục, phân bố thành những khối tách rời nhau. Lục địa khác biệt với đảo bởi có diện tích rất lớn: lục địa Australia nhỏ nhất cũng có diện tích lớn gấp 4 lần đảo Greenland và lớn gấp 10 lần đảo New Guinea. Hơn hai phần ba diện tích lục địa của thế giới nằm ở phía bắc của đường xích đạo và tất cả các lục địa, trừ Nam Cực, đều có hình nêm, phía bắc rộng hơn phía nam.  
+
Theo cấu tạo địa chất, Lục địa là khối đất liền rộng hàng triệu km2, có biển và đại dương bao quanh. Lục địa có hai bộ phận, bộ phận nổi trên mặt nước biển và phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa là rìa lục địa (gồm: thềm lục địa, sườn dốc và bờ lục địa). Sự phân chia các Lục địa mang ý nghĩa về mặt tự nhiên là chính; trong kỷ nguyên địa chất hiện nay, có sáu lục địa: Á - Âu, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Phi, Ôxtrâylia, Nam Cực. Theo nghĩa hẹp, Lục địa là một vùng đất liền liên tục, phân bố thành những khối tách rời nhau. Lục địa khác biệt với đảo bởi có diện tích rất lớn: lục địa Ôxtrâylia nhỏ nhất cũng có diện tích lớn gấp 4 lần đảo Greenland và lớn gấp 10 lần đảo New Guinea. Hơn hai phần ba diện tích đất Lục địa của thế giới nằm ở phía bắc của đường xích đạo và tất cả các Lục địa, trừ Nam Cực, đều có hình nêm, phía bắc rộng hơn phía nam.  
  
Lục địa có diện tích 148,94 triệu km<sup>2</sup> (chiếm 29,2% diện tích bề mặt Trái đất). Đặc trưng của lục địa là vỏ ngoài có kết cấu vững chắc, dày 30-70 km và lớp thạch quyển dày 200-300 km. Vỏ lục địa có cấu tạo hai lớp: lớp trên là lớp granit, lớp dưới thuộc loại bazan. Lớp trên chủ yếu chứa các loại đá nhẹ như granit, độ dày của lớp này khoảng chừng 25-30 km với mật độ trung bình khoảng 2,5-2,7 g/cm<sup>3</sup>; lớp bazan bên dưới dày tới 20 km, mật độ trung bình khoảng 2,7-2,9 g/cm<sup>3</sup>.  
+
Lục địa có diện tích 148,94 triệu km2 (chiếm 29,2% diện tích bề mặt Trái đất). Đặc trưng của Lục địa là vỏ ngoài có kết cấu vững chắc, dày 30-70 km và lớp thạch quyển dày 200-300 km. Vỏ Lục địa có cấu tạo hai lớp: lớp trên là lớp granit, lớp dưới thuộc loại bazan. Lớp trên chủ yếu chứa các loại đá nhẹ như granit, độ dày của lớp này khoảng chừng 25-30 km với mật độ trung bình khoảng 2,5-2,7 g/cm³; lớp bazan bên dưới dày tới 20 km, mật độ trung bình khoảng 2,7-2,9 g/cm³.  
  
Theo thuyết tĩnh, quá trình hình thành các lục địa là sự mở rộng các nhân tố bền vững trong quá trình hoạt động địa máng. Theo thuyết động (thuyết "lục địa trôi"), kiến tạo mảng là tiến trình địa chất chính trong việc gây ra va chạm, phân chia và chuyển động của các khối lục địa; tất cả các lục địa trên bề mặt Trái đất đều từ một lục địa thống nhất ban đầu (gọi là Toàn lục Pangaea), sau đó bị nứt tách thành nhiều mảng lớn, các mảng này chủ yếu được cấu tạo bởi vật chất sial (loại granit) ở trên, nhẹ hơn loại vỏ Sima (loại bazan) ở bên dưới, nên các mảng lớn sau khi bị tách có thể trôi từ từ trên bề mặt lớp sima rồi trở thành các lục địa riêng rẽ. Bằng chứng của giả thuyết trôi dạt lục địa căn cứ vào các tài liệu cổ sinh vật học và cấu trúc địa chất đã phát hiện ra sự khớp nhau của hai bờ đại dương. Hiện nay thuyết lục địa trôi được rất nhiều nhà địa lý sinh vật ủng hộ, vì có nhiều bằng chứng trong thực tế về sự giống nhau trong thành phần động vật và thực vật của một số lục địa. Hiện nay, quá trình trôi dạt của các lục địa này vẫn còn tiếp diễn. Lục địa Á-Âu là Lục địa lớn nhất trên Trái đất; trong kiến tạo địa tầng, bao gồm châu Âu và phần lớn châu Á, nhưng không bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, tiểu lục địa Ả Rập và khu vực phía đông của dãy Cherskiy tại Sakha.  
+
Theo thuyết tĩnh, quá trình hình thành các Lục địa là sự mở rộng các nhân tố bền vững trong quá trình hoạt động địa máng. Theo thuyết động (thuyết “Lục địa trôi"), kiến tạo mảng là tiến trình địa chất chính trong việc gây ra va chạm, phân chia và chuyển động của các khối lục địa; tất cả các lục địa trên bề mặt Trái đất đều từ một lục địa thống nhất ban đầu (gọi là Toàn lục Pangaea), sau đó bị nứt tách thành nhiều mảng lớn, các mảng này chủ yếu được cấu tạo bởi vật chất sial (loại granit) ở trên, nhẹ hơn loại vỏ Sima (loại bazan) ở bên dưới, nên các mảng lớn sau khi bị tách có thể trôi từ từ trên bề mặt lớp sima rồi trở thành các Lục địa riêng rẽ. Bằng chứng của giả thuyết trôi dạt lục địa căn cứ vào các tài liệu cổ sinh vật học và cấu trúc địa chất đã phát hiện ra sự khớp nhau của hai bờ đại dương. Hiện nay thuyết “Lục địa trôi” được rất nhiều nhà địa lý sinh vật ủng hộ, vì có nhiều bằng chứng trong thực tế về sự giống nhau trong thành phần động vật và thực vật của một số lục địa. Hiện nay, quá trình trôi dạt của các lục địa này vẫn còn tiếp diễn. Lục địa Á-Âu là Lục địa lớn nhất trên Trái đất; trong kiến tạo địa tầng, bao gồm châu Âu và phần lớn châu Á, nhưng không bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, tiểu lục địa Ả Rập và khu vực phía đông của dãy Cherskiy tại Sakha.  
  
Lãnh thổ Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á (thuộc lục địa Á - Âu), tiếp giáp Biển Đông; vừa có biên giới trên đất liền với Trung Quốc, Lào, Campuchia, có vùng biển chồng lấn với các quốc gia láng giềng như: Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Campuchia. Việc phân định biên giới trên đất liền và các vùng biển là một vấn đề quan trọng và phức tạp vì liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán cũng như lợi ích quốc gia. Trong quá trình phân định biên giới với các quốc gia, Việt Nam luôn tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.  
+
Lãnh thổ Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á (thuộc lục địa Á - Âu), tiếp giáp Biển Đông; vừa có biên giới trên đất liền với Trung Quốc, Lào, Campuchia, có vùng biển chồng lấn với các quốc gia láng giềng như: Trung Quốc, Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan và Campuchia. Việc phân định biên giới trên đất liền và các vùng biển là một vấn đề quan trọng và phức tạp vì liên quan đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán cũng như lợi ích quốc gia. Trong quá trình phân định biên giới với các quốc gia, Việt Nam luôn tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.  
  
 
== Tài liệu tham khảo ==
 
== Tài liệu tham khảo ==

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: