Ung thư tụy | |
---|---|
Giản đồ mô tả vị trí của tụy, nằm sau dạ dày. | |
Chuyên khoa | Vị tràng học, gan học, ung thư học |
Triệu chứng | Vàng da, đau bụng hoặc đau lưng, sụt cân không rõ nguyên nhân, phân nhạt màu, nước tiểu đậm, chán ăn[1] |
Khởi phát | Sau 40 tuổi[2] |
Yếu tố nguy cơ | Hút thuốc lá, lạm dụng đồ uống có cồn, béo phì, tiểu đường, tình trạng di truyền hiếm gặp[2] |
Chẩn đoán | Tạo ảnh y khoa, xét nghiệm máu, sinh thiết mô[3][4] |
Phòng ngừa | Không hút thuốc, giảm tiêu thụ đồ uống có cồn, duy trì cân nặng phù hợp, chế độ ăn ít thịt đỏ[5] |
Điều trị | Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, chăm sóc giảm nhẹ[1] |
Tiên lượng | Tỷ lệ sống năm năm 6%[6] |
Số người mắc | 393.800 (2015)[7] |
Số người chết | 411.600 (2015)[8] |
Ung thư tụy phát sinh khi các tế bào ở tụy, một cơ quan phía sau dạ dày, bắt đầu nhân lên vượt tầm kiểm soát và tạo thành khối u. Các tế bào ung thư này có khả năng xâm lấn những bộ phận khác của cơ thể.[9] Cho đến nay con người đã biết đến một số loại ung thư tụy.[10]
Trong đó, ung thư biểu mô tuyến tụy là loại phổ biến nhất, chiếm đến 90% số ca[11] và thuật ngữ "ung thư tụy" đôi khi được dùng chỉ để nói đến loại này.[10] Ung thư biểu mô tuyến khởi phát trong phần tụy mà tạo ra enzyme tiêu hóa.[10] Một vài loại ung thư khác mà tựu chung chiếm chủ yếu ngoài ung thư biểu mô tuyến cũng có thể phát sinh từ những tế bào này.[10] Khoảng 1–2% trường hợp ung thư tụy là u thần kinh nội tiết khởi nguồn từ các tế bào tụy sản sinh hormone.[10] Những loại này nhìn chung không nguy hiểm bằng ung thư biểu mô tuyến tụy.[10]
Dấu hiệu và triệu chứng của dạng ung thư tụy phổ biến nhất có thể là vàng da, đau bụng hoặc đau lưng, sụt cân không rõ nguyên nhân, phân nhạt màu, nước tiểu đậm, và chán ăn.[1] Thông thường, không có triệu chứng nào biểu hiện vào giai đoạn sớm và những triệu chứng đặc trưng đủ để gợi đến ung thư tụy thường chỉ thấy khi bệnh đã bước vào giai đoạn muộn.[1][2] Bởi vậy tại thời điểm chẩn đoán, ung thư tụy thường đã di căn sang những bộ phận khác của cơ thể.[10][12]
Ung thư tụy hiếm khi xảy ra với người dưới 40 tuổi và hơn nửa số ca ung thư biểu mô tuyến tụy là ở người trên 70 tuổi.[2] Yếu tố nguy cơ gồm hút thuốc lá, béo phì, tiểu đường, và một số tình trạng di truyền hiếm gặp.[2] Khoảng 25% ca liên quan đến hút thuốc lá[3] và 5–10% liên quan đến gen thừa hưởng.[2] Ung thư tụy thường được chẩn đoán bằng cách kết hợp các kỹ thuật tạo ảnh y khoa như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính, xét nghiệm máu, khám nghiệm các mẫu mô (sinh thiết).[3][4] Căn bệnh được chia thành những giai đoạn, từ sớm (giai đoạn I) đến muộn (giai đoạn IV).[12] Tầm soát dân số nói chung không tỏ ra hiệu quả.[13]
Người không hút thuốc, người duy trì cân nặng phù hợp và hạn chế ăn thịt chế biến hay thịt đỏ có nguy cơ mắc bệnh thấp hơn.[5] Với người hút thuốc, nguy cơ mắc bệnh giảm xuống nếu ngừng hút và giảm đến ngang với người bình thường sau 20 năm bỏ thuốc.[10] Phương pháp điều trị ung thư tụy là phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, chăm sóc giảm nhẹ, hoặc kết hợp các cách này.[1] Chữa thế nào tùy thuộc một phần vào giai đoạn ung thư.[1] Chỉ có phẫu thuật mới đem đến cơ hội chữa khỏi ung thư biểu mô tuyến tụy[12] và cách này còn có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống nếu không bàn đến việc chữa khỏi.[1][12] Các thuốc giảm đau và cải thiện tiêu hóa đôi khi cần đến.[12] Chăm sóc giảm nhẹ sớm được khuyến cáo kể cả cho người điều trị hướng đến mục tiêu khỏi bệnh.[14]
Vào năm 2015, ung thư tụy mọi loại đã khiến 411.600 người tử vong trên thế giới.[8] Căn bệnh thường xảy ra ở các nước phát triển, một ví dụ là 70% ca mới thuộc nhóm nước này trong năm 2012.[10] Ung thư biểu mô tuyến tụy thường có tiên lượng rất xấu; sau chẩn đoán, 25% bệnh nhân sống được một năm và 5% bệnh nhân sống được năm năm.[6][10] Với trường hợp chẩn đoán sớm, tỷ lệ sống năm năm tăng đến khoảng 20%.[15] Ung thư thần kinh nội tiết có tiên lượng tốt hơn khi mà 65% số người được chẩn đoán sống sót sau năm năm, dẫu vậy còn có sự khác biệt đáng kể tùy vào loại khối u.[10]
Các loại
Nhiều loại ung thư tụy có thể được chia thành hai nhóm tổng quát. Hầu hết trường hợp (khoảng 95%) xảy ra ở phần tụy mà tạo ra enzyme tiêu hóa, gọi là thành phần ngoại tiết. Một vài loại con của ung thư tụy ngoại tiết đã được mô tả nhưng chúng có nhiều điểm chung về phương diện chẩn đoán và điều trị. Số ít ung thư phát sinh ở mô tụy sinh hormone có đặc điểm lâm sàng khác biệt và được gọi là u thần kinh nội tiết tụy, đôi khi viết tắt là "PanNET". Cả hai nhóm xảy ra chủ yếu ở người trên 40 tuổi và phổ biến ở nam hơn một chút, nhưng một số loại con hiếm gặp thì phụ nữ và trẻ em lại là đối tượng hay mắc.[16][17]
Ung thư ngoại tiết
Nổi bật trong nhóm ngoại tiết là ung thư biểu mô tuyến tụy (các biến thể của tên gọi có thể thêm "xâm lấn" và "ống"), cho đến nay là loại phổ biến nhất ứng với khoảng 85% mọi ca ung thư tụy.[2] Gần như tất cả trường hợp đều khởi đầu trong ống tụy, là ung thư biểu mô tuyến ống tụy (PDAC).[18] Điều này bất chấp thực tế là mô mà từ đó ung thư phát sinh (biểu mô ống tụy) chỉ chiếm chưa đến 10% khối lượng tế bào tụy, bởi nó chỉ cấu thành duy nhất các ống trong tụy.[19] Ung thư này có nguồn gốc từ các ống mà mang chất tiết (như enzyme và bicarbonate) ra khỏi tụy. Khoảng 60–70% trường hợp ung thư biểu mô tuyến xảy ra ở đầu tụy.[2]
Loại phổ biến thứ hai là ung thư biểu mô tế bào chùm nang, phát sinh ở các cụm tế bào sản sinh enzyme và chiếm 5% trường hợp ung thư tụy ngoại tiết.[20] Giống những ung thư nội tiết 'hoạt động', ung thư tế bào nang có thể khiến tạo ra quá nhiều những phân tử nhất định, trường hợp này là enzyme tiêu hóa, qua đó khả năng gây nên triệu chứng như ban da và đau khớp.
Ung thư biểu mô nang tuyến chiếm 1% mọi ca ung thư tụy và có tiên lượng tốt hơn những loại ngoại tiết khác.[20]
U nguyên bào tụy là một dạng hiếm, chủ yếu xảy ra ở trẻ nhỏ và có tiên lượng tương đối tốt. Ung thư ngoại tiết khác gồm ung thư biểu mô tuyến vảy, ung thư biểu mô tế bào dấu nhẫn, ung thư biểu mô dạng gan, ung thư biểu mô dạng keo, ung thư biểu mô không biệt hóa, và ung thư biểu mô không biệt hóa với cự bào giống hủy cốt bào. U đặc giả nhú là một u cấp độ thấp hiếm thấy chủ yếu tác động phụ nữ trẻ và nhìn chung có tiên lượng rất tốt.[2][21]
U nang nhầy tụy là một nhóm u tụy đa dạng có tiềm năng ác tính khác nhau. Chúng đang được phát hiện ngày một nhiều nhờ sự hiệu quả và phổ biến gia tăng của chụp CT. Thẩm định và điều trị thế nào cho phù hợp là điều được tiếp tục bàn luận khi không ít trường hợp là lành tính.[22]
U thần kinh nội tiết
Thiểu số ung bướu phát sinh trong tụy là u thần kinh nội tiết tụy (PanNET).[23] U thần kinh nội tiết (NET) là một nhóm u lành tính hay ác tính đa dạng khởi nguồn từ tế bào thần kinh nội tiết của cơ thể đóng vai trò tích hợp hệ nội tiết và thần kinh. NET có thể xuất hiện ở nhiều bộ phận cơ thể, trong đó có tụy nhưng ở tụy thì những loại ác tính được xem là hiếm. PanNET được phân thành hai nhóm 'hoạt động' và 'bất hoạt', tùy vào mức độ sản sinh hormone của chúng. Loại hoạt động tiết ra hormone như insulin, gastrin, glucagon vào dòng máu, thường là nhiều, bởi vậy gây những triệu chứng nghiêm trọng như đường huyết thấp song mặt khác lại giúp phát hiện sớm vì thế. PanNET hoạt động phổ biến nhất là insulinoma và gastrinoma được đặt theo tên hormone chúng tiết ra. Các loại bất hoạt không tiết ra đủ lượng hormone để gây biểu hiện những triệu chứng lâm sàng, vậy nên PanNET bất hoạt thường chỉ được chẩn đoán sau khi ung thư đã lan sang bộ phận khác của cơ thể.[24]
Cũng như những ung bướu thần kinh nội tiết khác, PanNET có một lịch sử thuật ngữ và phân loại phức tạp.[23] Chúng đôi khi được gọi là "ung thư tế bào tiểu đảo" (tiểu đảo tụy),[25] dù vậy bây giờ con người đã biết chúng không thực sự phát sinh từ tế bào tiểu đảo như suy nghĩ trước kia.[24]
Dấu hiệu và triệu chứng
Vì không gây những triệu chứng giúp nhận biết ở giai đoạn sớm nên ung thư tụy thường không được chẩn đoán cho đến khi đã lan ra ngoài tụy.[4] Đây là một trong những lý do chính khiến tỷ lệ sống nhìn chung thấp. Có ngoại lệ là u thần kinh nội tiết tụy (PanNET) bởi sự sản sinh quá mức những hormone hoạt tính khác nhau có thể gây ra triệu chứng (còn phụ thuộc vào loại hormone).[26]
Các triệu chứng phổ biến của ung thư biểu mô tuyến tụy xảy ra trước chẩn đoán gồm:
- Đau ở bụng trên hoặc lưng, thường lan từ vùng dạ dày đến lưng. Vị trí đau có thể chỉ ra phần tụy có khối u. Cơn đau có thể nặng hơn vào ban đêm và gia tăng qua thời gian tới mức dữ dội và không ngừng.[20] Gập người về phía trước có thể giúp giảm đau một chút.
- Vàng da, củng mạc hoặc da chuyển màu vàng, có thể đau hoặc không và khả năng đi kèm với nước tiểu đậm. Lý do là khối u ở đầu tụy cản trở ống mật chủ đi qua.[27]
- Sụt cân không rõ nguyên nhân, bắt nguồn từ chán ăn hoặc mất chức năng ngoại tiết dẫn đến tiêu hóa kém.[12]
- Khối u có thể chèn ép các cơ quan lân cận, làm gián đoạn quá trình tiêu hóa và khiến dạ dày khó mà trống rỗng. Hệ quả là cảm giác buồn nôn và đầy bụng. Chất béo không được tiêu hóa sinh ra phân mỡ, mùi khó chịu và không dễ để rửa sạch.[12] Táo bón cũng là tình trạng phổ biến.[28]
- Ít nhất 50% người mắc ung thư biểu mô tuyến tụy bị tiểu đường lúc chẩn đoán.[2] Trong khi tiểu đường mãn tính là một yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư tụy thì chính ung thư tụy cũng có thể gây tiểu đường. Với trường hợp này thì việc mới mắc tiểu đường gần đây có thể được xem là dấu hiệu sớm của ung thư tụy.[29] Người trên 50 tuổi mắc tiểu đường có nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến tụy cao gấp 8 lần trong vòng ba năm, sau đó nguy cơ giảm đi.[12]
Những phát hiện khác
- Hội chứng Trousseau: tự dưng xuất hiện các cục máu đông trong mạch máu cửa (huyết khối tĩnh mạch cửa), tĩnh mạch sâu (huyết khối tĩnh mạch sâu), hay tĩnh mạch nông (huyết khối tĩnh mạch nông) ở bất kỳ đâu trên cơ thể. Hội chứng này có thể liên quan đến ung thư tụy và được phát hiện ở khoảng 10% ca.[3]
- Trầm cảm lâm sàng được báo cáo có liên hệ với ung thư tụy ở khoảng 10–20% ca và có thể gây trở ngại cho điều trị. Trầm cảm đôi khi xuất hiện trước chẩn đoán ung thư, gợi ý nó có thể do bản chất của căn bệnh gây nên.[3]
Những biểu hiện phổ biến khác của bệnh bao gồm dễ trở nên mệt mỏi và yếu đuối, khô miệng, các vấn đề về giấc ngủ, và một khối u ở bụng có thể sờ thấy.[28]
Di căn
Ung thư tụy lan sang cơ quan khác cũng có thể gây ra những triệu chứng. Thông thường, ung thư biểu mô tuyến tụy lan ra những hạch bạch huyết đầu tiên, sau đó đến gan hoặc khoang phúc mạc, ruột già, phổi.[3] Ít khi bệnh di căn đến xương và não.[30]
Ung thư ở tụy cũng có thể là thứ phát khởi nguồn từ ung thư ở những bộ phận khác của cơ thể. Trường hợp này không phổ biến, chỉ thấy ở 2% ca bệnh. Cho đến nay ung thư thận là nguồn gốc phổ biến nhất của ung thư tụy thứ phát, kế đến là ung thư đại trực tràng, những loại ung thư da, ung thư vú, và ung thư phổi. Những trường hợp này có thể thực hiện phẫu thuật ở tụy với hy vọng chữa khỏi hoặc giảm nhẹ triệu chứng.[31]
Yếu tố nguy cơ
Yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư biểu mô tuyến tụy gồm:[2][10][12][32][33]
- Giới tính, độ tuổi, sắc tộc. Tuổi càng cao thì càng có nguy cơ mắc bệnh; đa số ca mắc sau tuổi 65[10] trong khi tuổi dưới 40 không phổ biến. Ung thư tụy thường gặp ở nam hơn nữ một chút.[10] Ở Hoa Kỳ, số lượng người Mỹ gốc Phi bị bệnh cao hơn 1,5 lần nhưng tỷ lệ mắc ở châu Phi lại thấp.[10]
- Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ có thể tránh, nó khiến người hút thuốc thời gian dài dễ bị bệnh gấp đôi. Nguy cơ gia tăng theo tần suất và thời gian hút. Sau khi cai thuốc thì nguy cơ sẽ giảm chậm dần, mất tầm 20 năm để trở lại gần như người bình thường.[34]
- Béo phì. Chỉ số khối cơ thể lớn hơn 35 khiến nguy cơ tương đối tăng gấp rưỡi.[12][35]
- Tiền sử gia đình. 5–10% ca ung thư tụy có yếu tố thừa hưởng khi đã từng có người trong gia đình mắc bệnh.[2][36] Nguy cơ là đáng kể nếu có hai thân nhân bậc một trở lên mang bệnh và cao nhất nếu họ bị trước tuổi 50.[4] Hầu hết gen liên quan chưa được nhận biết.[2][37] Viêm tụy di truyền khiến nguy cơ trong đời tăng 30–40% (đến tuổi 70).[3] Những người bị viêm tụy di truyền được khuyến cáo tầm soát phát hiện sớm ung thư tụy.[38] Một số người có thể chọn phẫu thuật loại bỏ tụy để ngăn ung thư phát triển trong tương lai.[3]
- Ung thư tụy có liên hệ với những hội chứng di truyền hiếm gặp khác như: hội chứng Peutz–Jeghers do đột biến ở gen đè nén bướu STK11 (rất hiếm, nhưng là yếu tố nguy cơ rất lớn); hội chứng nevus loạn sản (hay hội chứng đa nốt ruồi và u melanin không điển hình gia đình, FAMMM-PC) do đột biến ở gen đè nén bướu CDKN2A; thất điều-giãn mạch gen lặn nhiễm sắc thể thường và những đột biến thừa hưởng ở gen BRCA2 và PALB2; ung thư ruột kết không polyp di truyền (hội chứng Lynch); và đa polyp tuyến gia đình. PanNET có liên hệ với đa u nội tiết loại 1 (MEN1) và hội chứng von Hippel Lindau.[2][3][4]
- Viêm tụy mạn tính khiến nguy cơ tăng cỡ gấp ba và viêm tụy mới, cũng như tiểu đường, có thể là dấu hiệu của khối u.[3] Người mang viêm tụy di truyền có nguy cơ mắc ung thư tụy đặc biệt cao.[3][37]
- Tiểu đường là một yếu tố nguy cơ và tiểu đường mới mắc cũng có thể là dấu hiệu sớm của ung thư tụy. Người được chẩn đoán tiểu đường loại 2 đã hơn 10 năm thì rủi ro tăng 50% so với những người không bị tiểu đường.[3]
Đồ uống có cồn
Uống quá nhiều đồ uống có cồn là nguyên nhân chính gây viêm tụy mạn tính và đó khả năng cao lại là tiền thân của ung thư tụy. Tuy nhiên nghiên cứu không thể chứng minh chắc chắn tiêu thụ đồ uống có cồn là yếu tố nguy cơ trực tiếp dẫn đến ung thư tụy. Nhìn chung, mối liên hệ nhất quán là mờ nhạt và đa số nghiên cứu không tìm ra liên hệ trong bối cảnh hút thuốc lá là yếu tố làm nhiễu đáng kể. Bằng chứng là mạnh hơn đối với hành vi uống nhiều, ít nhất 84 gam cồn một ngày.[3][39]
Sinh lý bệnh
Tiền ung thư
Ung thư ngoại tiết được cho phát sinh từ một số loại thương tổn tiền ung thư trong tụy, nhưng những thương tổn này không phải luôn luôn tiến triển thành ung thư.[3] Trừ u nang thanh dịch tụy gần như luôn luôn là lành tính, có bốn loại tổn thương tiền ung thư được công nhận.
Loại đầu tiên là tân sinh nội biểu mô tụy. Những tổn thương này là dị thường hiển vi trong tụy và thường được phát hiện khi khám nghiệm tử thi những người không có chẩn đoán ung thư. Chúng có thể phát triển từ cấp độ thấp đến cao rồi thành một khối u. Hơn 90% ca ở mọi cấp độ mang một gen KRAS hỏng, trong khi ở cấp độ 2 và 3 có thêm ba gen CDKN2A (p16), p53, SMAD4 thường thấy bị tổn hại hơn.[2]
Loại thứ hai là u nhú nhầy trong ống (IPMN). Đây là tổn thương vĩ mô thấy ở khoảng 2% người trưởng thành. Tỷ lệ này tăng đến khoảng 10% với độ tuổi 70. Tổn thương dạng này có 25% nguy cơ phát triển thành ung thư xâm lấn. Chúng có thể mang những đột biến gen KRAS (40–65% ca), GNAS và RNF43, tác động đường truyền tín hiệu Wnt.[2] Kể cả có phẫu thuật loại bỏ thì nguy cơ hình thành ung thư tụy sau đó vẫn tăng đáng kể.[3]
Loại thứ ba là u nang nhầy tụy (MCN), chủ yếu xảy ra ở nữ và có thể duy trì lành tính hoặc tiến triển thành ung thư.[40] Nếu những tổn thương này trở nên lớn, gây triệu chứng hoặc có những đặc điểm đáng ngờ, chúng thường được loại bỏ thành công bằng phẫu thuật.[3]
Loại thứ tư là u nhú ống trong ống. Loại này được WHO công nhận năm 2010 và chiếm khoảng 1–3% mọi dạng u tụy. Độ tuổi chẩn đoán trung bình là 61 (phạm vi 35 đến 78). Khoảng 50% tổn thương dạng này tiến triển xâm lấn. Chẩn đoán phụ thuộc vào mô học bởi những tổn thương này rất khó phân biệt với tổn thương khác trên cơ sở lâm sàng hay bức xạ học.[41]
Ung thư xâm lấn
Các sự kiện gen thấy ở ung thư biểu mô tuyến ống đã được mô tả rõ ràng và con người đã hoàn thành giải trình tự exome đối với những dạng ung bướu phổ biến. Bốn gen được phát hiện đột biến ở đa số ca ung thư biểu mô tuyến: KRAS (95% ca), CDKN2A (cũng 95%), TP53 (75%), và SMAD4 (55%). Trong đó SMAD4 đặc biệt liên hệ với tiên lượng xấu.[3] Khuyết thiếu hay đột biến SWI/SNF xảy ra ở khoảng 10–15% ca ung thư biểu mô tuyến.[2] Những sửa đổi gen ở một số loại ung thư tụy và thương tổn tiền ung thư cũng đã được nghiên cứu.[3] Các phân tích hệ phiên mã và giải trình tự mRNA cho những dạng ung thư tụy phổ biến phát hiện 75% gen người biểu hiện trong khối u, với khoảng 200 gen biểu hiện đặc trưng hơn ở ung thư tụy so với những loại ung bướu khác.[42][43]
PanNET
Các gen mà thường thấy đột biến ở PanNET khác với những gen ở ung thư tụy ngoại tiết.[44] Ví dụ, đột biến KRAS thường không có. Thay vào đó là những đột biến gen MEN1 di truyền gây ra hội chứng MEN1, ở đó u nguyên phát hình thành ở hai hay nhiều hơn tuyến nội tiết. Khoảng 40–70% người sinh ra mang đột biến MEN1 cuối cùng mắc một loại PanNET.[45] Các gen thường xuyên đột biến khác gồm DAXX, mTOR, và ATRX.[24]
Chẩn đoán
Các triệu chứng của ung thư biểu mô tuyến tụy thường không xuất hiện vào giai đoạn sớm và không phải đặc trưng riêng của căn bệnh.[3][12][27] Triệu chứng lúc chẩn đoán không giống nhau tùy vào vị trí của ung thư trong tụy mà các nhà giải phẫu phân thành (từ trái sang phải ở hầu hết biểu đồ) đầu dày, cổ, thân thon, và kết thúc ở đuôi.
Không bàn đến vị trí khối u, triệu chứng phổ biến nhất là sụt cân không rõ nguyên nhân và mức độ có thể đáng kể. 35 đến 47% người được chẩn đoán bệnh biểu hiện buồn nôn, nôn mửa, hoặc cảm giác suy nhược. Khối u ở đầu tụy thường gây vàng da, đau, chán ăn, nước tiểu đậm, phân nhạt màu. Khối u ở thân và đuôi tụy cũng thường gây đau.[27]
Có những người mới mắc tiểu đường loại 2 không điển hình khó kiểm soát, viêm mạch máu không rõ lý do gây bởi các cục máu đông (viêm tĩnh mạch huyết khối) gọi là dấu hiệu Trousseau, hoặc từng có lần bị viêm tụy.[27] Ung thư tụy có thể bị nghi ngờ khi tiểu đường khởi phát ở người trên 50 tuổi kèm theo những triệu chứng không điển hình như sụt cân không lý do, đau bụng hoặc đau lưng dai dẳng, khó tiêu, nôn mửa, hay phân mỡ.[12] Vàng da đi kèm với túi mật sưng, không đau (gọi là dấu hiệu Courvoisier) cũng có thể gây nghi ngờ và giúp phân biệt ung thư tụy với sỏi mật.[46]
Các kỹ thuật tạo ảnh y khoa như chụp cắt lớp vi tính (CT) và siêu âm nội soi (EUS) được áp dụng để xác nhận chẩn đoán và giúp đánh giá khối u có thể phẫu thuật loại bỏ được không.[12] Trong chụp CT tương phản, ung thư tụy thường biểu hiện tiếp nhận tăng dần chất bức xạ tương phản thay vì rửa trôi nhanh như ở tụy bình thường hoặc rửa trôi chậm như ở viêm tụy mạn tính.[47] Chụp cộng hưởng từ và chụp cắt lớp phát xạ positron cũng có thể được sử dụng[2], ngoài ra chụp cộng hưởng từ mật tụy hữu dụng trong một số trường hợp.[27] Siêu âm bụng kém nhạy và sẽ bỏ sót những khối u nhỏ nhưng có thể phát hiện ung thư đã lan sang gan cũng như dịch tích tụ trong khoang phúc mạc (cổ trướng).[12] Thủ tục này được áp dụng cho lần kiểm tra đầu tiên nhanh và rẻ trước những kỹ thuật khác.[48]
Sinh thiết nhờ chọc hút bằng kim nhỏ, thường dưới chỉ dẫn của siêu âm nội soi, có thể giúp giải đáp những khúc mắc trong chẩn đoán. Tuy nhiên phẫu thuật loại bỏ khối u thường không đòi hỏi chẩn đoán mô rồi mới thực hiện.[12]
Các xét nghiệm chức năng gan có thể cho ra những kết quả giúp phát hiện tắc nghẽn ống mật (hàm lượng bilirubin liên hợp, γ-glutamyl transpeptidase, và alkaline phosphatase tăng). CA19-9 là một dấu chỉ khối u thường gia tăng trong ung thư tụy. Tuy nhiên, nó thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu, đặc biệt là 5% người không có kháng nguyên Lewis (a) và không thể tạo ra CA19-9. CA19-9 có độ nhạy 80% và độ đặc hiệu 73% đối với ung thư biểu mô tuyến tụy, không được áp dụng cho chẩn đoán mà cho phát hiện bệnh tái phát.[2][12]
Mô bệnh
Loại ung thư tụy phổ biến nhất (ung thư biểu mô tuyến) thường có đặc điểm các cấu trúc tuyến biệt hóa kém đến vừa khi quan sát bằng kính hiển vi. Điển hình có sự tạo mô xơ đáng kể hay là sự hình thành chất nền xơ đặc hoặc mô cấu trúc bao gồm một số kiểu tế bào (nguyên bào sợi cơ, đại thực bào, bạch huyết bào, dưỡng bào) cùng vật liệu lắng (như collagen loại I và hyaluronic acid). Điều này tạo ra vi môi trường khối u thiếu các mạch máu do vậy thiếu oxy.[2] Đây được cho là nguyên nhân khiến nhiều thuốc hóa trị không đến được khối u và khiến ung thư rất khó chữa.[2][3]
Loại ung thư | Tỷ lệ tương đối[11] | Phát hiện hiển vi[11] | Ảnh hiển vi | Dấu chỉ hóa mô miễn dịch[11] | Biến đổi gen[11] |
---|---|---|---|---|---|
Ung thư biểu mô tuyến ống tụy (PDAC) | 90% | Các tuyến và tạo mô xơ | |||
Ung thư biểu mô tế bào chùm nang tụy (ACC) | 1% đến 2% | Diện mạo hạt | |||
Ung thư biểu mô tuyến vảy | 1% đến 4%[49] | Sự kết hợp các tế bào dạng tuyến và tế bào biểu mô vảy | Dương tính với:
Âm tính với: |
| |
U thần kinh nội tiết tụy | 5% | U đa ổ | Gastrinoma | ||
Tiền ung thư phía dưới để so sánh: | |||||
Tiền ung thư: U nhú nhầy trong ống (IPMN) |
3% | Tế bào biểu mô nhầy.[50] Sinh sôi trong ống tụy.[51] |
|
Giai đoạn
Ung thư ngoại tiết
Ung thư tụy thường được xác định giai đoạn sau một lần chụp CT.[27] Hệ thống phân giai đoạn ung thư tụy được sử dụng rộng rãi nhất do Ủy ban Hỗn hợp Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) và Liên minh Kiểm soát Ung thư Quốc tế (UICC) lập nên. Trong đó có bốn giai đoạn chính ứng với từng mức độ tiến triển của bệnh, dựa vào phân loại TNM kích cỡ khối u (T), sự lây lan đến hạch bạch huyết (N), và di căn (M).[52]
Để hỗ trợ quyết định điều trị, khối u còn được phân thành ba loại lớn dựa vào tính khả thi của phẫu thuật loại bỏ. Theo đó khối u được đánh giá là "có thể cắt bỏ", "50/50", hoặc "không thể cắt bỏ".[53] Khi bệnh vẫn còn ở giai đoạn sớm (I hoặc II), chưa ảnh hưởng các mạch máu lớn hay cơ quan xa như gan hoặc phổi, phẫu thuật cắt bỏ khối u có thể được thực hiện nếu bệnh nhân đáp ứng yêu cầu và sẵn sàng trải qua cuộc đại phẫu này.[12]
Hệ thống phân giai đoạn AJCC-UICC có sự phân biệt các khối u giai đoạn III là "sít sao có thể phẫu thuật" (khi phẫu thuật còn có thể vì động mạch bụng và động mạch mạc treo tràng trên vẫn chưa dính líu) và "không thể phẫu thuật" (do bệnh tiến triển cục bộ thêm). Trong phân loại TNM chi tiết hơn thì hai nhóm này tương ứng lần lượt là T3 và T4.[3]
Tầm soát và phòng ngừa
Hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo không hút thuốc, giữ cân nặng phù hợp, ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc toàn phần, giảm tiêu thụ thịt đỏ và thịt chế biến. Mặc dù vậy không có bằng chứng chắc chắn chỉ ra những hành động này sẽ giúp ngăn ngừa hay làm giảm nguy cơ mắc ung thư tụy.[54] Một đánh giá nghiên cứu năm 2014 kết luận có bằng chứng cho thấy tiêu thụ trái cây giống cam chanh và curcumin làm giảm nguy cơ, trong khi ngũ cốc toàn phần, folate, selenium, và cá không chiên có thể đem lại hiệu ứng có lợi.[39]
Với dân số nói chung, tầm soát những nhóm đông không được xem là hiệu quả và có thể có hại,[55] dù vậy công nghệ mới hơn và việc sàng lọc những nhóm mục tiêu chặt chẽ đang được đánh giá.[56][57] Tuy nhiên, người có nguy cơ cao liên quan đến di truyền được khuyến cáo tầm soát định kỳ bằng siêu âm nội soi và chụp MRI/CT.[4][48][57][58]
Tiên lượng
Giai đoạn lâm sàng | Tỷ lệ sống 5 năm (%) với những ca được chẩn đoán ở Mỹ (1992–1998) | |
---|---|---|
Ung thư tụy ngoại tiết | U nội tiết chữa được bằng phẫu thuật | |
IA / I | 14 | 61 |
IB | 12 | |
IIA / II | 7 | 52 |
IIB | 5 | |
III | 3 | 41 |
IV | 1 | 16 |
Ung thư biểu mô tuyến tụy và những ung thư ngoại tiết ít phổ biến hơn khác có tiên lượng rất xấu bởi chúng thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn khi mà ung thư đã phát triển cục bộ hoặc lan sang bộ phận khác của cơ thể.[2] Với PanNET thì kết cục tốt hơn nhiều, đa số là lành tính, hoàn toàn không có triệu chứng lâm sàng và kể cả những trường hợp không chữa được bằng phẫu thuật vẫn có tỷ lệ sống năm năm trung bình 16%.[53] Mặc dù vậy triển vọng là khác biệt đáng kể tùy vào loại bệnh.[26]
Đối với ung thư biểu mô tuyến tụy đã tiến triển cục bộ và di căn chiếm hơn 80% ca, nhiều thử nghiệm so sánh những chế độ hóa trị cho thấy cải thiện thời gian sống, tuy nhiên không hơn được một năm.[2][59] Ở Mỹ, tỷ lệ sống năm năm tổng quát của ung thư tụy đã tăng từ 2% ở những ca được chẩn đoán năm 1975–1977 lên 4% năm 1987–1989 và 6% năm 2003–2009.[60] Trong số chưa đến 20% ca ung thư biểu mô tuyến tụy có chẩn đoán khối u nhỏ và cục bộ (dưới 2 cm ở giai đoạn T1), thì khoảng 20% người Mỹ sống được năm năm.[15]
Khoảng 1500 gen có liên quan đến kết cục của ung thư biểu mô tuyến tụy. Trong đó bao gồm những gen bất lợi, tức gen mà nếu biểu hiện cao sẽ dẫn đến kết cục xấu, ví dụ C-Met và MUC-1. Ngược lại có những gen có lợi hay gen mà biểu hiện cao sẽ gia tăng cơ hội sống sót, ví dụ là yếu tố phiên mã PELP1.[42][43]
Tham khảo
- ↑ a b c d e f g "Pancreatic Cancer Treatment (PDQ®) Patient Version", National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 17 tháng 4 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 7 năm 2014, truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2014
- ↑ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w Ryan DP, Hong TS, Bardeesy N (tháng 9 năm 2014), "Pancreatic adenocarcinoma", The New England Journal of Medicine, 371 (11): 1039–49, doi:10.1056/NEJMra1404198, PMID 25207767
- ↑ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Wolfgang CL, Herman JM, Laheru DA, Klein AP, Erdek MA, Fishman EK, Hruban RH (tháng 9 năm 2013), "Recent progress in pancreatic cancer", CA: A Cancer Journal for Clinicians, 63 (5): 318–48, doi:10.3322/caac.21190, PMC 3769458, PMID 23856911
- ↑ a b c d e f Vincent A, Herman J, Schulick R, Hruban RH, Goggins M (tháng 8 năm 2011), "Pancreatic cancer" (PDF), Lancet, 378 (9791): 607–20, doi:10.1016/S0140-6736(10)62307-0, PMC 3062508, PMID 21620466, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) 12 tháng 1 2015
- ↑ a b "Can pancreatic cancer be prevented?", American Cancer Society, ngày 11 tháng 6 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014, truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014
- ↑ a b "Cancer Facts & Figures 2010" (PDF), American Cancer Society, 2010, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) 14 tháng 1 2015, truy cập 5 tháng 12 2014 See p. 4 for incidence estimates, and p. 19 for survival percentages.
- ↑ Vos T, Allen C, Arora M, Barber RM, Bhutta ZA, Brown A, et al. (GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990–2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1545–1602, doi:10.1016/S0140-6736(16)31678-6, PMC 5055577, PMID 27733282
- ↑ a b Wang H, Naghavi M, Allen C, Barber RM, Bhutta ZA, Carter A, et al. (GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980–2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1459–1544, doi:10.1016/s0140-6736(16)31012-1, PMC 5388903, PMID 27733281
- ↑ What is Cancer? Defining Cancer, National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 7 tháng 3 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 6 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014
- ↑ a b c d e f g h i j k l m n o World Cancer Report, World Health Organization, 2014, Chapter 5.7, ISBN 978-92-832-0429-9
- ↑ a b c d e Unless otherwise specified in boxes, reference is: Pishvaian MJ, Brody JR (tháng 3 năm 2017), "Therapeutic Implications of Molecular Subtyping for Pancreatic Cancer", Oncology, 31 (3): 159–66, 168, PMID 28299752
- ↑ a b c d e f g h i j k l m n o p q Bond-Smith G, Banga N, Hammond TM, Imber CJ (tháng 5 năm 2012), "Pancreatic adenocarcinoma", BMJ, 344 (may16 1): e2476, doi:10.1136/bmj.e2476, PMID 22592847, S2CID 206894869
- ↑ "Draft Recommendation Statement: Pancreatic Cancer: Screening – US Preventive Services Task Force", www.uspreventiveservicestaskforce.org, truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2019
- ↑ Bardou M, Le Ray I (tháng 12 năm 2013), "Treatment of pancreatic cancer: A narrative review of cost-effectiveness studies", Best Practice & Research. Clinical Gastroenterology, 27 (6): 881–92, doi:10.1016/j.bpg.2013.09.006, PMID 24182608
- ↑ a b "Pancreatic Cancer Treatment (PDQ®) Health Professional Version", National Cancer Institute, National Institutes of Health, ngày 21 tháng 2 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 22 tháng 10 năm 2014, truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014 "Tỷ lệ chữa khỏi cao nhất là khi khối u thực sự khu biệt ở tụy; tuy nhiên chỉ chưa đến 20% số ca là ở giai đoạn này. Trong trường hợp khối u cục bộ và nhỏ (dưới 2 cm), không có di căn hạch bạch huyết và không vượt ngoài bao tụy, phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vẫn cho ra tỷ lệ sống năm năm thấp từ 18 đến 24%."
- ↑ Harris RE (2013), "Epidemiology of pancreatic cancer", Epidemiology of Chronic Disease, Jones & Bartlett, tr. 181–190, ISBN 978-0-7637-8047-0, lưu trữ từ tài liệu gốc 24 tháng 6 2016
- ↑ Öberg K, Knigge U, Kwekkeboom D, Perren A, et al. (ESMO Guidelines Working Group) (tháng 10 năm 2012), "Neuroendocrine gastro-entero-pancreatic tumors: ESMO Clinical Practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up", Annals of Oncology, 23 Suppl 7 (suppl 7): vii124-30, doi:10.1093/annonc/mds295, PMID 22997445 (Table 5 outlines the proposed TNM staging system for PanNETs.)
- ↑ Handbook of Pancreatic Cancer, New York: Springer, 2009, tr. 288, ISBN 978-0-387-77497-8, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 9 năm 2017, truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2016
- ↑ Govindan R (2011), DeVita, Hellman, and Rosenberg's Cancer: Cancer: Principles & Practice of Oncology (lxb. 9th), Lippincott Williams & Wilkins, Chapter 35: Cancer of the Pancreas: Surgical Management, ISBN 978-1-4511-0545-2 Online edition, with updates to 2014
- ↑ a b c Tobias JS, Hochhauser D (2014), Cancer and its Management (lxb. 7th), tr. 297, ISBN 978-1-118-46871-5
- ↑ "Types of Pancreas Tumors", The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center, Johns Hopkins Medicine, 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc 8 tháng 10 2014, truy cập 18 tháng 11 2014
- ↑ Farrell JJ, Fernández-del Castillo C (tháng 6 năm 2013), "Pancreatic cystic neoplasms: management and unanswered questions", Gastroenterology, 144 (6): 1303–15, doi:10.1053/j.gastro.2013.01.073, PMID 23622140
- ↑ a b The PanNET denomination is in line with WHO guidelines for the classification of tumors of the digestive system WHO classification of tumours of the digestive system – NLM Catalog – NCBI, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 9 tháng 9 năm 2017, truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2017 published in 2010. Historically, PanNETs have also been referred to by a variety of terms, and are still commonly called "pancreatic endocrine tumors". See: Klimstra DS, Modlin IR, Coppola D, Lloyd RV, Suster S (tháng 8 năm 2010), "The pathologic classification of neuroendocrine tumors: a review of nomenclature, grading, and staging systems", Pancreas, 39 (6): 707–12, doi:10.1097/MPA.0b013e3181ec124e, PMID 20664470, S2CID 3735444
- ↑ a b c Burns WR, Edil BH (tháng 3 năm 2012), "Neuroendocrine pancreatic tumors: guidelines for management and update", Current Treatment Options in Oncology, 13 (1): 24–34, doi:10.1007/s11864-011-0172-2, PMID 22198808, S2CID 7329783
- ↑ Hệ thống lập chỉ mục MeSH đề cập đến "ung thư biểu mô tế bào tiểu đảo" được phân thành gastrinoma, glucagonoma, somatostatinoma, và VIPoma. Xem: 2014 MeSH tree at "Pancreatic Neoplasms [C04.588.322.475]" Lưu trữ 19 tháng 3 2016 tại Wayback Machine 16 October 2014
- ↑ a b "Islet Cell Tumors of the Pancreas / Endocrine Neoplasms of the Pancreas", The Sol Goldman Pancreas Cancer Research Center, Johns Hopkins Medicine, 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc 5 tháng 1 2015, truy cập 5 tháng 1 2015
- ↑ a b c d e f De La Cruz MS, Young AP, Ruffin MT (tháng 4 năm 2014), "Diagnosis and management of pancreatic cancer", American Family Physician, 89 (8): 626–32, PMID 24784121
- ↑ a b Alberts SR, Goldberg RM (2009), "Chapter 9: Gastrointestinal tract cancers", trong Casciato DA, Territo MC (bt.), Manual of clinical oncology, Lippincott Williams & Wilkins, tr. 188–236, ISBN 978-0-7817-6884-9
- ↑ Pannala R, Basu A, Petersen GM, Chari ST (tháng 1 năm 2009), "New-onset diabetes: a potential clue to the early diagnosis of pancreatic cancer", The Lancet. Oncology, 10 (1): 88–95, doi:10.1016/S1470-2045(08)70337-1, PMC 2795483, PMID 19111249
- ↑ "Chapter 15; Pancreas" (PDF), Manual for Staging of Cancer (lxb. 2nd), American Joint Committee on Cancer, tr. 95–98, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc 29 tháng 11 2014 See p. 95 for citation regarding "... lesser degree of involvement of bones and brain and other anatomical sites."
- ↑ Sperti C, Moletta L, Patanè G (tháng 10 năm 2014), "Metastatic tumors to the pancreas: The role of surgery", World Journal of Gastrointestinal Oncology, 6 (10): 381–92, doi:10.4251/wjgo.v6.i10.381, PMC 4197429, PMID 25320654
- ↑ "Causes of pancreatic cancer", NHS Choices, National Health Service, England, ngày 7 tháng 10 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2014
- ↑ Anderson, Laura N.; Cotterchio, Michelle; Gallinger, Steven (ngày 5 tháng 2 năm 2009), "Lifestyle, dietary, and medical history factors associated with pancreatic cancer risk in Ontario, Canada", Cancer Causes & Control, 20 (6): 825–34, doi:10.1007/s10552-009-9303-5, ISSN 0957-5243, PMC 3907069, PMID 19194662
- ↑ Bosetti C, Lucenteforte E, Silverman DT, Petersen G, Bracci PM, Ji BT, et al. (tháng 7 năm 2012), "Cigarette smoking and pancreatic cancer: an analysis from the International Pancreatic Cancer Case-Control Consortium (Panc4)", Annals of Oncology, 23 (7): 1880–88, doi:10.1093/annonc/mdr541, PMC 3387822, PMID 22104574
- ↑ De Rubeis, Vanessa; Cotterchio, Michelle; Smith, Brendan T.; Griffith, Lauren E.; Borgida, Ayelet; Gallinger, Steven; Cleary, Sean; Anderson, Laura N. (ngày 1 tháng 9 năm 2019), "Trajectories of body mass index, from adolescence to older adulthood, and pancreatic cancer risk; a population-based case–control study in Ontario, Canada", Cancer Causes & Control (trong English), 30 (9): 955–66, doi:10.1007/s10552-019-01197-9, ISSN 1573-7225, PMC 6685923, PMID 31230151
- ↑ Peters ML, Tseng JF, Miksad RA (tháng 7 năm 2016), "Genetic Testing in Pancreatic Ductal Adenocarcinoma: Implications for Prevention and Treatment", Clinical Therapeutics, 38 (7): 1622–35, doi:10.1016/j.clinthera.2016.03.006, PMID 27041411
- ↑ a b Reznik R, Hendifar AE, Tuli R (2014), "Genetic determinants and potential therapeutic targets for pancreatic adenocarcinoma", Frontiers in Physiology, 5: 87, doi:10.3389/fphys.2014.00087, PMC 3939680, PMID 24624093
- ↑ Greenhalf W, Grocock C, Harcus M, Neoptolemos J (tháng 5 năm 2009), "Screening of high-risk families for pancreatic cancer", Pancreatology, 9 (3): 215–22, doi:10.1159/000210262, PMID 19349734, S2CID 29100310
- ↑ a b Pericleous M, Rossi RE, Mandair D, Whyand T, Caplin ME (tháng 1 năm 2014), "Nutrition and pancreatic cancer", Anticancer Research, 34 (1): 9–21, PMID 24403441
- ↑ Delpu Y, Hanoun N, Lulka H, Sicard F, Selves J, Buscail L, et al. (tháng 3 năm 2011), "Genetic and epigenetic alterations in pancreatic carcinogenesis", Current Genomics, 12 (1): 15–24, doi:10.2174/138920211794520132, PMC 3129039, PMID 21886451
- ↑ Rooney SL, Shi J (tháng 10 năm 2016), "Intraductal Tubulopapillary Neoplasm of the Pancreas: An Update From a Pathologist's Perspective", Archives of Pathology & Laboratory Medicine, 140 (10): 1068–73, doi:10.5858/arpa.2016-0207-RA, PMID 27684978
- ↑ a b "The human pathology proteome in pancreatic cancer – The Human Protein Atlas", www.proteinatlas.org, truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2017
- ↑ a b Uhlen M, Zhang C, Lee S, Sjöstedt E, Fagerberg L, Bidkhori G, et al. (tháng 8 năm 2017), "A pathology atlas of the human cancer transcriptome", Science, 357 (6352): eaan2507, doi:10.1126/science.aan2507, PMID 28818916
- ↑ Lewis MA, Yao JC (tháng 2 năm 2014), "Molecular pathology and genetics of gastrointestinal neuroendocrine tumours", Current Opinion in Endocrinology, Diabetes and Obesity, 21 (1): 22–27, doi:10.1097/MED.0000000000000033, PMID 24310147, S2CID 31094880
- ↑ Thakker RV, Newey PJ, Walls GV, Bilezikian J, Dralle H, Ebeling PR, et al. (tháng 9 năm 2012), "Clinical practice guidelines for multiple endocrine neoplasia type 1 (MEN1)", The Journal of Clinical Endocrinology and Metabolism, 97 (9): 2990–3011, doi:10.1210/jc.2012-1230, PMID 22723327
- ↑ Fitzgerald JE, White MJ, Lobo DN (tháng 4 năm 2009), "Courvoisier's gallbladder: law or sign?", World Journal of Surgery, 33 (4): 886–91, doi:10.1007/s00268-008-9908-y, PMID 19190960, S2CID 21799234
- ↑ Piraka C, Scheiman JM (tháng 9 năm 2011), "New diagnostic imaging modalities for pancreatic disease", Current Opinion in Gastroenterology, 27 (5): 475–80, doi:10.1097/MOG.0b013e328349e30c, PMID 21743318, S2CID 38963685
- ↑ a b Seufferlein T, Bachet JB, Van Cutsem E, Rougier P (tháng 10 năm 2012), "Pancreatic adenocarcinoma: ESMO-ESDO Clinical Practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up", Annals of Oncology, 23 Suppl 7: vii33–40, doi:10.1093/annonc/mds224, PMID 22997452
- ↑ Skafida E, Grammatoglou X, Glava C, Zissis D, Paschalidis N, Katsamagkou E, et al. (tháng 2 năm 2010), "Adenosquamous carcinoma of the pancreas: a case report", Cases Journal, 3 (1): 41, doi:10.1186/1757-1626-3-41, PMC 2825199, PMID 20205828
- ↑ Diana Agostini-Vulaj, "Pancreas – Exocrine tumors / carcinomas – Intraductal papillary mucinous neoplasm (IPMN)", Pathology Outlines Topic Completed: 1 July 2018. Revised: 9 March 2020
- ↑ Adsay V, Mino-Kenudson M, Furukawa T, Basturk O, Zamboni G, Marchegiani G, et al. (tháng 1 năm 2016), "Pathologic Evaluation and Reporting of Intraductal Papillary Mucinous Neoplasms of the Pancreas and Other Tumoral Intraepithelial Neoplasms of Pancreatobiliary Tract: Recommendations of Verona Consensus Meeting", Annals of Surgery, 263 (1): 162–77, doi:10.1097/SLA.0000000000001173, PMC 4568174, PMID 25775066
- ↑ Cascinu S, Falconi M, Valentini V, Jelic S (tháng 5 năm 2010), "Pancreatic cancer: ESMO Clinical Practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up", Annals of Oncology, 21 Suppl 5 (Supplement 5): v55–58, doi:10.1093/annonc/mdq165, PMID 20555103
- ↑ a b c "Staging of pancreatic cancer", American Cancer Society, ngày 11 tháng 6 năm 2014, truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2014
- ↑ "Diet and activity factors that affect risks for certain cancers: Pancreatic cancer section", American Cancer Society, ngày 20 tháng 8 năm 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 11 năm 2014, truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014
- ↑ Owens DK, Davidson KW, Krist AH, Barry MJ, Cabana M, Caughey AB, et al. (tháng 8 năm 2019), "Screening for Pancreatic Cancer: US Preventive Services Task Force Reaffirmation Recommendation Statement", JAMA, 322 (5): 438–44, doi:10.1001/jama.2019.10232, PMID 31386141
- ↑ He XY, Yuan YZ (tháng 8 năm 2014), "Advances in pancreatic cancer research: moving towards early detection", World Journal of Gastroenterology, 20 (32): 11241–48, doi:10.3748/wjg.v20.i32.11241, PMC 4145762, PMID 25170208
- ↑ a b Okano K, Suzuki Y (tháng 8 năm 2014), "Strategies for early detection of resectable pancreatic cancer", World Journal of Gastroenterology, 20 (32): 11230–40, doi:10.3748/wjg.v20.i32.11230, PMC 4145761, PMID 25170207
- ↑ Goggins M, Overbeek KA, Brand R, Syngal S, Del Chiaro M, Bartsch DK, et al. (tháng 1 năm 2020), "Management of patients with increased risk for familial pancreatic cancer: updated recommendations from the International Cancer of the Pancreas Screening (CAPS) Consortium", Gut, 69 (1): 7–17, doi:10.1136/gutjnl-2019-319352, PMC 7295005, PMID 31672839
- ↑ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênthota
- ↑ "Cancer Facts and Figures 2014" (PDF), American Cancer Society, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 12 năm 2014, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015, Table, p. 18, rates adjusted for normal life expectancy