Ung thư phổi | |
---|---|
Tên khác | Ung thư biểu mô phổi (Caxinom phổi) |
Ảnh X quang ngực cho thấy một khối u ở phổi (mũi tên) | |
Chuyên khoa | Phổi học, ung thư học |
Triệu chứng | Ho (bao gồm ho ra máu), sụt cân, khó thở, đau ngực[1] |
Khởi phát | Thường ~70 tuổi[2] |
Loại | Ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC), ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC)[3] |
Yếu tố nguy cơ | |
Chẩn đoán | Hình ảnh y khoa, sinh thiết mô[6][7] |
Phòng ngừa | Không hút thuốc, tránh tiếp xúc với amiăng |
Điều trị | Phẫu thuật, hóa trị, xạ trị[7] |
Tiên lượng | Tỷ lệ sống 5 năm 19,4% (Mỹ)[2], 41,4% (Nhật Bản)[8] |
Số người mắc | 2,9 triệu ca mắc mới (2018)[9] |
Số người chết | 1,76 triệu (2018)[9] |
Ung thư phổi hay ung thư biểu mô phổi[7] là khối u ác tính có đặc điểm tế bào tăng sinh không kiểm soát trong mô phổi. Sự tăng sinh tế bào này có thể lan ra ngoài phổi bởi quá trình di căn vào mô gần kề hoặc những bộ phận khác của cơ thể.[10] Hầu hết ung thư khởi phát ở phổi, gọi là ung thư phổi nguyên phát, là ung thư biểu mô[11] với hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC) và ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC).[3] Triệu chứng phổ biến nhất là ho (bao gồm ho ra máu), sụt cân, khó thở, và đau ngực.[1]
Hút thuốc lá trong thời gian dài là nguyên nhân của đại đa số (85%) ca ung thư phổi.[4] Khoảng 10–15% ca xảy ra ở những người chưa từng hút thuốc,[12] khi đó nguyên nhân thường là sự kết hợp các yếu tố di truyền và tiếp xúc với khí radon, amiăng, hút thuốc thụ động, hay các loại hình ô nhiễm không khí khác.[4][5][13][14] Ung thư phổi có thể quan sát thấy trên ảnh X quang ngực và chụp cắt lớp vi tính (CT).[7] Sinh thiết giúp xác nhận chẩn đoán và thường được thực hiện nhờ soi phế quản hay chỉ dẫn CT.[6][15]
Cách thức phòng bệnh hàng đầu là tránh xa những nhân tố nguy cơ bao gồm ô nhiễm không khí và khói thuốc.[16] Việc chữa trị và kết quả lâu dài tùy thuộc vào loại ung thư, giai đoạn (mức độ lây lan), và sức khỏe tổng quan của bệnh nhân.[7] Đa số trường hợp là không chữa được.[3] Cách điều trị phổ biến bao gồm phẫu thuật, hóa trị, và xạ trị.[7] Ung thư phổi không tế bào nhỏ đôi khi được chữa bằng phẫu thuật còn với ung thư phổi tế bào nhỏ hóa trị và xạ trị thường hiệu quả hơn.[17]
Trong năm 2012 trên thế giới có 1,8 triệu người mắc ung thư phổi và 1,6 triệu người tử vong[11] khiến đây là nguyên nhân gây tử vong liên quan đến ung thư phổ biến nhất ở nam và thứ hai ở nữ sau ung thư vú.[18] Độ tuổi chẩn đoán thường gặp nhất là 70.[2] Tỷ lệ sống năm năm ở Mỹ là 19,4%[2] còn ở Nhật Bản là 41,4%.[8] Với các nước đang phát triển, kết quả nhìn chung là kém hơn.[19]
Dấu hiệu và triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng có thể là của ung thư phổi bao gồm:[1]
- Triệu chứng đường hô hấp: ho, ho ra máu, thở khò khè, khó thở
- Triệu chứng toàn thân: sụt cân, suy nhược, sốt, ngón tay dùi trống
- Triệu chứng do khối u chèn ép cơ quan kề bên: đau ngực, đau xương, tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên, khó nuốt
Nếu ung thư phát triển ở khí đạo, nó có thể chặn dòng khí khiến việc thở trở nên khó khăn. Sự cản trở còn có thể dẫn đến tích tụ chất tiết và làm tăng nguy cơ viêm phổi.[1]
Tùy thuộc vào loại khối u, hội chứng cận ung thư (triệu chứng không do sự có mặt cục bộ của khối u) có thể thu hút sự chú ý đến căn bệnh lúc đầu.[20] Ở ung thư phổi, hiện tượng này có thể bao gồm chứng tăng calci huyết, hội chứng tăng tiết hormone chống bài niệu không phù hợp (SIADH, nước tiểu đậm đặc và máu loãng bất thường), hormone vỏ thượng thận (ACTH) sản xuất lệch vị trí, hội chứng nhược cơ Lambert–Eaton (cơ bắp yếu đi do rối loạn tự miễn). Các khối u trên đỉnh phổi, gọi là khối u Pancoast, có thể xâm lấn hệ thần kinh giao cảm, dẫn tới hội chứng Horner (sụp mí mắt và co đồng tử cùng bên) và gây tổn hại đến đám rối thần kinh cánh tay.[1]
Nhiều triệu chứng của ung thư phổi (chán ăn, sụt cân, sốt, mệt mỏi) là không đặc biệt.[6] Với nhiều người, đến khi họ cảm thấy bất thường và đi khám thì ung thư đã lan ra ngoài địa điểm ban đầu.[21] Triệu chứng cho thấy ung thư đã di căn bao gồm sụt cân, đau xương và những triệu chứng thần kinh như đau đầu, ngất xỉu, co giật, yếu chi.[1] Địa điểm di căn phổ biến là não, xương, tuyến thượng thận, phổi còn lại, gan, màng ngoài tim, và thận.[21] Khoảng 10% người mắc ung thư phổi không thấy dấu hiệu lúc chẩn đoán và bệnh tình cờ được phát hiện trên ảnh X quang ngực định kỳ.[15]
Nguyên nhân
Ung thư phát triển do tổn thương DNA và những biến đổi ngoài gen. Sự biến đổi tác động đến những chức năng bình thường của tế bào bao gồm tăng sinh tế bào, chết tế bào lập trình (apoptosis), và sửa chữa DNA. Tổn thương tích lũy càng nhiều thì rủi ro ung thư càng tăng.[22]
Hút thuốc
Cho đến nay hút thuốc lá là nguyên nhân chủ yếu gây ung thư phổi.[4] Khói thuốc lá chứa ít nhất 73 chất gây ung thư đã biết[23] như là benzo[a]pyrene,[24] NNK, 1,3-butadiene, và một đồng vị phóng xạ của polonium là polonium-210.[23] Ở các nước phát triển, 90% số ca tử vong do ung thư phổi ở nam và 70% ở nữ trong năm 2000 được cho là do hút thuốc.[25] 85% ca mắc ung thư phổi cũng là do hút thuốc.[7] Một bài phân tích năm 2014 phát hiện thuốc lá điện tử có thể là yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư phổi nhưng không nguy hiểm bằng thuốc lá điếu.[26]
Hút thuốc thụ động hay việc hít phải khói thuốc của người khác là nguyên nhân gây ung thư phổi ở người không hút thuốc. Người hút thuốc thụ động có thể được định nghĩa là người sống hoặc làm việc cùng người hút thuốc. Nghiên cứu từ Mỹ,[27][28][29] Anh,[30] và các nước châu Âu khác[31] đều nhất quán chỉ ra nguy cơ gia tăng đáng kể đối với người hút thuốc thụ động.[32] Người sống với người hút thuốc có nguy cơ tăng 20–30% còn với người làm việc trong môi trường có khói thuốc thì nguy cơ tăng 16–19%.[33] Các cuộc điều tra gợi ý khói thuốc bay ngoài không khí nguy hiểm hơn nhiều khói người hút trực tiếp hút vào.[34] Hút thuốc thụ động dẫn đến khoảng 3.400 ca tử vong liên quan ung thư mỗi năm ở Mỹ.[29]
Khói cần sa chứa nhiều chất gây ung thư có trong khói thuốc lá,[35] tuy nhiên mối liên hệ giữa việc hút cần sa và nguy cơ ung thư phổi là không rõ ràng.[36][37] Một bài đánh giá năm 2013 không phát hiện nguy cơ gia tăng từ việc sử dụng cần sa ít đến vừa.[38] Trong khi bài đánh giá năm 2014 cho rằng hút cần sa làm tăng gấp đôi nguy cơ ung thư phổi, dù vậy ở nhiều nước cần sa thường được trộn với thuốc lá.[39]
Khí radon
Radon là chất khí không màu, không mùi sinh ra từ sự phân rã của radium phóng xạ là sản phẩm phân rã của uranium được tìm thấy trong vỏ Trái Đất. Hiện tượng phát xạ ion hóa vật chất di truyền, gây nên những đột biến mà đôi khi trở thành ung thư. Ở Mỹ, radon là tác nhân ung thư phổi phổ biến thứ hai[40] gây ra khoảng 21.000 cái chết mỗi năm.[41] Nguy cơ ung thư phổi tăng 8–16% ứng với nồng độ radon tăng 100 Bq/m³.[42] Hàm lượng khí radon dao động tùy vào địa điểm và thành phần đất đá nằm bên dưới. Ở Mỹ cứ 15 hộ thì có một hộ có hàm lượng radon cao hơn mức khuyến cáo 4 pCi/l (148 Bq/m³).[43]
Amiăng
Amiăng có thể gây ra những bệnh phổi khác nhau trong đó có ung thư phổi. Hút thuốc lá và amiăng có hiệu ứng cộng dồn trong sự phát triển của ung thư phổi.[5] Ở người hút thuốc mà làm việc với amiăng, nguy cơ ung thư phổi tăng gấp 45 lần so với người bình thường.[44] Amiăng còn có thể gây ra ung thư màng phổi gọi là u trung biểu mô, loại này tách biệt với ung thư phổi.[45]
Ô nhiễm không khí
Các chất gây ô nhiễm không khí ngoài trời nhất là chất hóa học sinh ra từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch làm tăng nguy cơ ung thư phổi.[4] Các hạt mịn (PM 2.5) và sol khí sulfate mà có thể đến từ khí thải xe cộ liên hệ với sự gia tăng nguy cơ nhẹ.[4][46] Lượng nitrogen dioxide tăng lên 10 phần tỷ sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh lên 14%.[47] Ước tính ô nhiễm không khí ngoài trời là nguyên nhân của 1–2% ca ung thư phổi.[4]
Có bằng chứng không chắc chắn ủng hộ ô nhiễm không khí trong nhà liên quan tới việc đốt củi, than, phân, hay tàn dư thực vật phục vụ nấu nướng và sưởi ấm làm tăng nguy cơ ung thư phổi.[48] Phụ nữ tiếp xúc với khói than trong nhà có nguy cơ khoảng chừng gấp đôi và nhiều sản phẩm phụ của việc đốt cháy sinh khối là tác nhân gây ung thư đã biết hoặc nghi ngờ.[49] Nguy cơ này tác động đến khoảng 2,4 tỷ người trên toàn cầu[48] và được tin là nguyên nhân của 1,5% số ca tử vong do ung thư phổi.[49]
Di truyền
Khoảng 8% số ca ung thư phổi khởi nguồn từ những yếu tố thừa hưởng.[50] Người thân của người được chẩn đoán ung thư phổi có nguy cơ tăng gấp đôi, khả năng do sự kết hợp gen.[51] Tính đa hình của các nhiễm sắc thể 5, 6 và 15 có tác động đến nguy cơ mắc ung thư phổi.[52] Cũng liên quan là đa hình nucleotide đơn của các gen mã hóa thụ thể nicotinic acetylcholine (nAChR) như CHRNA5, CHRNA3, CHRNB4; cùng RGS17, một gen điều chỉnh ra hiệu protein G.[52]
Nguyên nhân khác
Còn nhiều chất, nghề nghiệp, kiểu tiếp xúc môi trường khác có liên hệ với ung thư phổi. Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) phát biểu có "bằng chứng đầy đủ" chỉ ra những yếu tố dưới đây là tác nhân gây ung thư ở phổi:[53]
- Một số kim loại (sản phẩm nhôm, cadmi và hợp chất cadmi, hợp chất chromi(VI), berylli và hợp chất berylli, sắt và thép nóng chảy, hợp chất nickel, asenic và hợp chất asenic vô cơ, hematite khai thác dưới mặt đất)
- Một số sản phẩm của sự cháy (cháy không hoàn toàn, than đá (khí thải trong nhà từ việc đốt than), khí hóa than, dầu nhựa than, than cốc, bồ hóng, khí thải động cơ diesel)
- Bức xạ ion hóa (tia X và tia gamma)
- Một số khí độc (methyl ether, bis-(chloromethyl) ether, mù tạc lưu huỳnh, MOPP (hỗn hợp vincristine-prednisone-nitrogen mustard-procarbazine), hơi sơn)
- Sản phẩm cao su và bụi silic kết tinh
- Nguy cơ ung thư phổi tăng nhẹ ở người mắc xơ cứng bì hệ thống.
Bệnh sinh
Cũng như nhiều loại ung thư khác, ung thư phổi khởi phát do gen sinh ung hoạt hóa hoặc gen đè nén bướu bất hoạt.[54] Tác nhân gây ung thư gây đột biến ở những gen này mở đường cho bệnh phát triển.[55]
Đột biến ở tiền-gen sinh ung K-ras gây ra khoảng 10–30% số ca ung thư biểu mô tuyến phổi.[56][57] Gần 4% số ca ung thư phổi không tế bào nhỏ có dính dáng đến gen dung hợp EML4-ALK.[58]
Biến đổi ngoài gen như quá trình methyl hóa ADN thay đổi, sửa đổi đuôi histone, hoặc điều chỉnh microRNA có thể làm bất hoạt gen đè nén bướu.[59] Quan trọng, tế bào ung thư phát triển kháng kích ứng oxy hóa cho phép chúng trụ được và làm trầm trọng tình trạng viêm, điều cản trở hệ miễn dịch đối phó với khối u.[60][61]
Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR) điều chỉnh tăng sinh tế bào, chết rụng tế bào, sự tạo mạch, và sự xâm lấn của khối u.[56] Việc EGFR bị đột biến và khuếch đại phổ biến ở ung thư phổi không tế bào nhỏ cung cấp cơ sở cho điều trị bằng các chất ức chế EGFR. Her2/neu không thường xuyên bị tác động.[56] Các gen thường bị đột biến hoặc khuếch đại khác gồm c-MET, NKX2-1, LKB1, PIK3CA, và BRAF.[56]
Con người chưa hiểu hết về các dòng tế bào gốc.[1] Cơ chế có thể liên quan đến việc tế bào gốc hoạt hóa một cách bất thường. Ở đường thở gần, tế bào gốc biểu hiện keratin 5 dễ bị tác động thường dẫn đến ung thư phổi tế bào vảy. Ở đường thở giữa, tế bào gốc liên can gồm tế bào club và tế bào thần kinh biểu mô biểu hiện SCGB1A1. Ung thư phổi tế bào nhỏ có thể khởi nguồn từ những dòng tế bào này[62] hoặc tế bào thần kinh nội tiết[1] và có thể biểu hiện kháng nguyên CD44.[62]
Di căn ở ung thư phổi đòi hỏi sự chuyển đổi kiểu tế bào từ biểu mô thành trung mô. Điều này có thể xảy ra thông qua sự hoạt hóa các đường truyền tín hiệu như Akt/GSK3Beta, MEK-ERK, Fas, và Par6.[63]
Chẩn đoán
Chụp X quang ngực là một trong những bước khảo sát đầu tiên nếu người bệnh thông báo những triệu chứng có thể là của ung thư phổi. Cách làm này có thể phát hiện trung thất to, xẹp phổi, viêm phổi, hoặc tràn dịch màng phổi.[7] Chụp CT ngực có thể cho thấy u gai khả năng cao là dấu hiệu ung thư phổi, ngoài ra còn cung cấp thêm thông tin về loại và mức độ bệnh. Soi phế quản hay sinh thiết theo chỉ dẫn CT thường được áp dụng để lấy mẫu khối u phục vụ khám nghiệm mô.[15]
Ung thư phổi xuất hiện thường là một nốt phổi đơn độc trên ảnh X quang ngực. Tuy nhiên chẩn đoán phân biệt là rộng, nhiều bệnh cũng có thể gây ra đặc điểm này như ung thư di căn, u mô thừa, u hạt nhiễm khuẩn do lao, nhiễm nấm Histoplasma, hoặc nấm Coccidioides.[64] Ung thư phổi có thể tình cờ được phát hiện khi đi chụp X quang hay CT vì lý do không liên quan.[65] Chẩn đoán kết luận dựa vào công tác khám nghiệm mô nghi ngờ[1] khi đã có những đặc điểm lâm sàng và X quang.[6]
Chỉ dẫn y tế khuyên giám sát nốt phổi thường xuyên.[66] Chụp CT không nên thực hiện nhiều hoặc lâu hơn chỉ định do phơi nhiễm bức xạ gia tăng và tốn kém.[66]
Phân loại
Kiểu mô | Tỷ lệ mắc trên 100.000 người một năm |
---|---|
Tất cả | 66,9 |
Ung thư biểu mô tuyến | 22,1 |
Ung thư biểu mô tế bào vảy | 14,4 |
Ung thư biểu mô tế bào nhỏ | 9,8 |
Ung thư phổi được phân loại theo kiểu mô.[6] Việc phân loại là quan trọng để quyết định cách xử trị và dự đoán kết cục bệnh. Ung thư phổi là ung thư biểu mô – những khối u ác tính phát sinh từ tế bào biểu mô. Cơ sở phân loại là kích cỡ và diện mạo của các tế bào ác tính quan sát dưới kính hiển vi. Vì mục đích điều trị, người ta chia ung thư phổi làm hai loại phổ quát: ung thư phổi không tế bào nhỏ và ung thư phổi tế bào nhỏ.[67]
Ung thư phổi không tế bào nhỏ
Ung thư phổi không tế bào nhỏ có ba loại chính là ung thư biểu mô tuyến, ung thư biểu mô tế bào vảy, và ung thư biểu mô tế bào lớn.[1]
Gần 40% trường hợp ung thư phổi là ung thư biểu mô tuyến thường xuất phát từ mô phổi ngoại biên.[6] Mặc dù đa số ca ung thư biểu mô tuyến có liên hệ với việc hút thuốc nhưng đây còn là dạng ung thư phổi phổ biến nhất ở nhóm người hút ít hơn 100 điếu thuốc trong đời[1][68] và người đã bỏ thuốc có tiền sử hút thuốc không nhiều.[1] Một loại ung thư biểu mô tuyến là ung thư phế quản phế nang phổ biến hơn ở nữ giới không bao giờ hút thuốc và cơ hội sống lâu dài với loại này có thể cao hơn.[69]
Ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm khoảng 30% số ca ung thư phổi và thường xảy ra gần đường khí lớn. Một hốc rỗng và tế bào chết hay được thấy ở tâm khối u.[6]
Khoảng 10 đến 15% số ca ung thư phổi là ung thư biểu mô tế bào lớn.[70] Tên gọi như vậy bởi tế bào ung thư là lớn với tế bào chất thừa thãi, nhân tế bào to và hạch nhân dễ thấy.[6]
Ung thư phổi tế bào nhỏ
Ở ung thư phổi tế bào nhỏ, các tế bào chứa dày đặc những hạt thần kinh bài tiết (túi chứa hormone thần kinh nội tiết) khiến khối u có liên hệ với hội chứng cận ung thư hoặc nội tiết.[71] Loại này đa phần phát sinh ở đường khí lớn (phế quản chính và phụ).[15] 60 đến 70% trường hợp bệnh đã lan rộng (không thể xạ trị một vùng) khi phát hiện.[1]
Di căn
Loại | Napsin-A | TTF-1 |
---|---|---|
Ung thư biểu mô tế bào vảy | Âm | Âm |
Ung thư biểu mô tuyến | Dương | Dương |
Ung thư biểu mô tế bào nhỏ | Âm | Dương |
Phổi là nơi mà khối u từ bộ phận khác của cơ thể thường lan sang. Ung thư thứ phát được phân định theo địa điểm gốc, ví dụ ung thư vú lan sang phổi gọi là ung thư vú di căn. U di căn thường có diện mạo tròn trên ảnh X quang ngực.[72]
Ung thư phổi nguyên phát cũng hay di căn đến não, xương, gan, và tuyến thượng thận.[6] Một cách để xác định nguồn gốc là nhuộm miễn dịch mẫu sinh thiết.[73] Sự hiện diện của Napsin-A, TTF-1, CK7, và CK20 giúp nhận biết loại ung thư phổi. Ung thư phổi tế bào nhỏ khởi phát từ tế bào thần kinh nội tiết có thể biểu hiện CD56, phân tử kết dính tế bào thần kinh, synaptophysin, hoặc chromogranin.[1]
Phân giai đoạn
Ung thư phổi được phân định giai đoạn để đánh giá mức độ lây lan của bệnh từ điểm ban đầu.[74] Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và điều trị bệnh.[1][74]
Phân loại TNM (u, hạch, di căn) áp dụng cho ung thư phổi không tế bào nhỏ dựa trên kích cỡ u nguyên phát, sự liên đới của hạch bạch huyết, và di căn xa.[1]
|
|
Tham khảo
|