Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Mặt trăng”
Dòng 162: Dòng 162:
 
{{main |Nước trên Mặt Trăng}}
 
{{main |Nước trên Mặt Trăng}}
 
Nước lỏng không tồn tại trên bề mặt Mặt trăng. Khi bức xạ Mặt trời chiếu vào, nước lỏng sẽ bị [[phân ly quang học]] thành các chất khí. Ở nhiệt độ bề mặt của Mặt trăng, các chất khí thoát khỏi trường hấp dẫn yếu của thiên thể này và thoát vào khoảng không vũ trụ. Tuy nhiên, từ những năm 1960, đã có giả thuyết về sự tồn tại của nước đá, có thể mang đến Mặt trăng bởi các [[sao chổi]], hoặc được sinh ra từ phản ứng hóa học giữa đá Mặt trăng chứa nhiều [[oxy]] với [[hydro]] đến từ [[gió Mặt trời]], tích lũy lại thành lượng nhỏ nước đá ở các hố va chạm lạnh lẽo và luôn bị khuất trong bóng tối ở hai cực.<ref name="Margot1999" /><ref>{{cite journal |first=William R. |last=Ward |title=Past Orientation of the Lunar Spin Axis |journal=[[Science (journal)|Science]] |date=1 August 1975 |volume=189 |issue=4200 |pages=377–379 |doi=10.1126/science.189.4200.377 |pmid=17840827 |bibcode=1975Sci...189..377W|s2cid=21185695 }}</ref> Các mô phỏng trên máy tính gợi ý có khoảng 14.000 kilomét vuông diện tích Mặt trăng có thể nằm trong bóng tối vĩnh cửu.<ref name="M03" /> Việc có được lượng nước đáng kể trên Mặt trăng ảnh hưởng quan trọng đến các kế hoạch [[định cư trên Mặt trăng]] của con người, do việc vận chuyển nước từ Trái đất lên Mặt trăng sẽ có thể quá tốn kém.<ref name="seedhouse2009" />
 
Nước lỏng không tồn tại trên bề mặt Mặt trăng. Khi bức xạ Mặt trời chiếu vào, nước lỏng sẽ bị [[phân ly quang học]] thành các chất khí. Ở nhiệt độ bề mặt của Mặt trăng, các chất khí thoát khỏi trường hấp dẫn yếu của thiên thể này và thoát vào khoảng không vũ trụ. Tuy nhiên, từ những năm 1960, đã có giả thuyết về sự tồn tại của nước đá, có thể mang đến Mặt trăng bởi các [[sao chổi]], hoặc được sinh ra từ phản ứng hóa học giữa đá Mặt trăng chứa nhiều [[oxy]] với [[hydro]] đến từ [[gió Mặt trời]], tích lũy lại thành lượng nhỏ nước đá ở các hố va chạm lạnh lẽo và luôn bị khuất trong bóng tối ở hai cực.<ref name="Margot1999" /><ref>{{cite journal |first=William R. |last=Ward |title=Past Orientation of the Lunar Spin Axis |journal=[[Science (journal)|Science]] |date=1 August 1975 |volume=189 |issue=4200 |pages=377–379 |doi=10.1126/science.189.4200.377 |pmid=17840827 |bibcode=1975Sci...189..377W|s2cid=21185695 }}</ref> Các mô phỏng trên máy tính gợi ý có khoảng 14.000 kilomét vuông diện tích Mặt trăng có thể nằm trong bóng tối vĩnh cửu.<ref name="M03" /> Việc có được lượng nước đáng kể trên Mặt trăng ảnh hưởng quan trọng đến các kế hoạch [[định cư trên Mặt trăng]] của con người, do việc vận chuyển nước từ Trái đất lên Mặt trăng sẽ có thể quá tốn kém.<ref name="seedhouse2009" />
 +
 +
Đã có các dấu hiệu của sự tồn tại nước đá trên bề mặt Mặt trăng.<ref name="moonwater_18032010" /> Năm 1994, thí nghiệm radar song tĩnh trên tàu vũ trụ ''[[Clementine (tàu vũ trụ)|Clementine]]'' đã cho thấy các khu vực nhỏ có nước đá ở gần bề mặt Mặt trăng. Tuy nhiên các quan sát radar sau này của [[Đài thiên văn Arecibo]] cho thấy kết quả của tàu Clementine có thể là tín hiệu từ tảng đá bị văng ra bởi các vụ va chạm gần đây.<ref>{{cite web |last=Spudis |first=P. |title=Ice on the Moon |url=http://www.thespacereview.com/article/740/1 |publisher=[[The Space Review]] |date=6 November 2006 |access-date=12 April 2007 |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20070222083000/http://www.thespacereview.com/article/740/1 |archive-date=22 February 2007 }}</ref> Năm 1998, phổ kế neutron trên tàu vũ trụ ''[[Lunar Prospector]]'' cho thấy mật độ hydro cao trong khoảng một mét trên cùng của lớp đất mặt gần các vùng cực.<ref name="Feldman1998" /> Các hạt dung nham núi lửa, do Apollo 15 mang về, cũng đã cho thấy lượng nước nhỏ ở bên trong.<ref name="Saal2008" />
  
 
===Trường hấp dẫn===
 
===Trường hấp dẫn===

Phiên bản lúc 17:56, ngày 23 tháng 11 năm 2020

Mặt trăng Biểu tượng Mặt trăng
Mặt trăng trên bầu trời đêm, quan sát từ Trái đất, theo chu kỳ quay quanh Trái đất, thể hiện các pha và sự lắc lư. Bề mặt Mặt trăng có các vùng sáng tối, các đốm màu không đều và các hố va chạm nằm rải rác với các kích thước khác nhau.
Mặt trăng nhìn từ Trái đất, theo chu kỳ quay quanh Trái đất, thể hiện các phasự lắc lư.
Danh pháp
Danh pháp
Trái đất I
Tên khác
  • Hằng Nga
  • Chị Hằng (văn thơ)
  • Nguyệt (Hán Việt)
Đặc trưng quỹ đạo
Kỷ nguyên J2000
Cận điểm quỹ đạo362600 km
(356400370400 km)
Viễn điểm quỹ đạo405400 km
(404000406700 km)
384 399 km  (0,00257AU)[1]
Độ lệch tâm quỹ đạo0,0549[1]
27,321661 ngày
(27 ngày 7 giờ 43 phút 11,5 s[1])
29,530589 ngày
(29 ngày 12 giờ 44 phút 2,9 s)
1,022 km/s
Độ nghiêng quỹ đạo5,145° so với hoàng đạo[2][↓ 1]
Lùi lại một vòng trong 18,61 năm
Dịch lên một vòng trong 8,85 năm
Vệ tinh tự nhiênTrái đất[↓ 2][3]
Tính chất vật lý
Bán kính trung bình
1737,4 km  
(0,2727 giá trị Trái đất)
[1][4][5]
Bán kính xích đạo
1738,1 km  
(0,2725 giá trị Trái đất)
[4]
Bán kính cực
1736,0 km  
(0,2731 giá trị Trái đất)
[4]
Độ dẹt0,0012[4]
Chu vi10921 km  (xích đạo)
3,793×107 km²  
(0,074 giá trị Trái đất)
Thể tích2,1958×1010 km³  
(0,020 giá trị Trái đất)[4]
Khối lượng7,342×1022 kg  
(0,012300 giá trị Trái đất)[1][4]
[6]
Mật độ trung bình
3,344 g/cm3[1][4]
0,606 giá trị Trái Đất
1,62 m/s2  (0,1654 g)[4]
0,3929 ±0,0009[7]
2,38 km/s
Chu kỳ quay thiên văn
27,321661 ngày  (đồng bộ)
Tốc độ quay xích đạo
4,627 m/s
Xích kinh cực bắc
  •  17giờ 47phút 26giây
  • 266,86°[9]
Xích vĩ cực bắc
65,64°[9]
Suất phản chiếu0,136 [10]
Nhiệt độ mặt tối thiểu trung bình tối đa
Xích đạo 100 K 220 K 390 K
85°B  150 K 230 K[11]
29,3 đến 34,1 phút cung[4][↓ 4]
Khí quyển[12]
Áp suất bề mặt
Thành phần theo thể tích

Mặt trăng là một thiên thể quay quanh Trái đất và là vệ tinh tự nhiên duy nhất của hành tinh này.[13][14][↓ 2] Trong Hệ Mặt trời, Mặt trăng là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm và nếu xét về tỷ lệ kích thước so với hành tinh mà nó quay quanh thì Mặt trăng đạt tỷ lệ này cao nhất.[↓ 6] Mặt trăng có mật độ khối lượng lớn thứ hai trong số các vệ tinh tự nhiên của Hệ Mặt trời, sau Io của Sao mộc.

Một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi cho rằng Mặt trăng hình thành vào khoảng 4,51 tỷ năm trước, không lâu sau khi Trái đất hình thành, từ vật chất bắn ra sau một vụ va chạm lớn giữa Trái đất và một thiên thể giả định mang tên Theia có kích thước cỡ Sao hỏa. Nghiên cứu mới về đất đá Mặt trăng, tuy không phủ nhận giả thuyết về Theia, gợi ý tuổi Mặt trăng già hơn so với số liệu trước đây.[15]

Mặt trăng ở trong quỹ đạo đồng bộ với Trái đất, tức là chu kỳ tự quay của Mặt trăng bằng với chu kỳ quay quanh Trái đất, do đó nó luôn quay một mặt về phía Trái đất, là mặt gần. Do Mặt trăng lắc qua lại theo thời gian nên nếu quan sát từ Trái đất sẽ thấy nhiều hơn một nửa diện tích Mặt trăng (59%).[16] Nửa gần của Mặt trăng có các biển Mặt trăng là các vùng vật chất màu tối, để lại bởi hoạt động núi lửa cũ, nằm giữa các vùng vỏ cũ cao sáng màu, và các hố va chạm. Mặt trăng là thiên thể xuất hiện thường xuyên có độ sáng cao thứ hai trên trên bầu trời, đứng sau Mặt trời. Mặc dù bề mặt Mặt trăng chủ yếu gồm các vật chất tối màu với suất phản chiếu chỉ cao hơn một chút so với nhựa đường mòn, nhưng trong bầu trời đêm, nó vẫn sáng khi phản chiếu lại ánh sáng Mặt trời. Lực hấp dẫn của Mặt trăng gây ra thủy triều trên đại dương ở Trái đất, đồng thời gây ra hiệu ứng tương tự cho phần vỏ và lõi đất đá của Trái đất, và làm cho một ngày ở Trái đất bị dài hơn một chút.

Khoảng cách trung bình từ Mặt trăng đến Trái đất là 384402 km,[17] tương đương 1,28 giây ánh sáng, hay khoảng 30 lần đường kính Trái đất. Đường kính góc của Mặt trăng trên bầu trời tương đương với Mặt trời; do đó trong nhật thực toàn phần, Mặt trăng che kín Mặt trời. Trong tương lai xa, khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất sẽ tăng dần, và Mặt trăng sẽ xuất hiện nhỏ dần.

Vật thể nhân tạo đầu tiên được con người đưa lên Mặt trăng là tàu không người lái Luna 2 của Liên Xô được cố ý cho đâm xuống bề mặt Mặt trăng vào tháng 9 năm 1959. Sau đó vào năm 1966, tàu Luna 9 đã hạ cánh an toàn lên Mặt trăng. Chương trình Apollo của Hoa Kỳ những năm tiếp theo đã mang được con người lên Mặt trăng, với Apollo 8 năm 1968 lần đầu đưa người bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng, rồi Apollo 11 vào tháng 7 năm 1969 cùng 5 chuyến bay khác sau đó đã hạ cánh với con người và thiết bị lên thiên thể này. Các chuyến thám hiểm này đã mang về Trái đất đá Mặt trăng được dùng để nghiên cứu và phát triển các hiểu biết về địa lý Mặt trăng, nguồn gốc hình thành Mặt trăngcấu trúc lõi Mặt trăng. Từ sau chuyến bay Apollo 17 năm 1972 đến hiện tại, chỉ có các tàu không người lái đến thám hiểm Mặt trăng.

Sự hiện diện của Mặt trăng trên bầu trời, theo chu kỳ pha Mặt trăng, đã để lại dấu ấn trong xã hội và văn hóa của loài người. Ảnh hưởng trong văn hóa xã hội thể hiện ở ngôn ngữ, hệ thống lịch Mặt trăng, nghệ thuật, và thần thoại.

Nguồn gốc hình thành

Mặt trăng hình thành vào 4,51 tỷ năm trước,[↓ 7] khoảng 60 triệu năm sau khi Hệ Mặt trời hình thành. Đã có nhiều giả thuyết về nguồn gốc hình thành Mặt trăng.[18]. Một giả thuyết cho rằng vật chất văng ra từ Trái đất trong thời kỳ đang hình thành bởi lực ly tâm, sau đó tập hợp lại thành Mặt trăng.[19]. Tuy nhiên giả thuyết này đòi hỏi Trái đất phải quay nhanh đến mức phi thực tế.[20] Một giả thuyết khác là trường hấp dẫn của Trái đất đã thu hút thiên thể Mặt trăng đến từ nơi khác,[21] nhưng giả thuyết này đòi hỏi một khí quyển Trái đất quá lớn để hấp thụ động năng của Mặt trăng khi nó bay tới Trái đất.[20] Giả thuyết khác nữa về sự hình thành cùng lúc của Trái đất và Mặt trăng từ đĩa bồi tụ khi Hệ Mặt trời đang hình thành.[20] Giả thuyết này không giải thích được tại sao Mặt trăng lại có ít kim loại hơn hẳn so với Trái đất.[20] Các giả thuyết trên cũng không tiên đoán được mômen động lượng khá lớn của hệ Trái đất - Mặt trăng.[22]

Giả thuyết được nhiều tác giả chấp nhận là hệ Trái đất - Mặt trăng được hình thành sau một vụ va chạm lớn giữa một thiên thể có kích thước vào cỡ Sao hỏa, tên là Theia, với thiên thể tiền Trái đất. Vụ va chạm đã làm văng nhiều vật liệu vào quỹ đạo của Trái đất và các vật liệu này bồi tụ lại dần dần, hình thành nên Mặt trăng.[23][24]

Nửa xa của Mặt trăng có vỏ dày hơn khoảng 50 km so với nửa gần. Điều này được cho là do Mặt trăng được ghép lại từ hai phần khác nhau.[25]

Giả thuyết này, tuy còn những điểm chưa hoàn hảo, có khả năng giải thích tốt nhất các bằng chứng thực nghiệm. 18 tháng trước khi diễn ra một hội nghị khoa học về nguồn gốc Mặt trăng tổ chức vào tháng 10 năm 1984, Bill Hartmann, Roger Phillips, và Jeff Taylor thách thức những người đồng nghiệp cùng nghiên cứu về Mặt trăng: "Các bạn có 18 tháng. Hãy xem lại dữ liệu thu được từ các chuyến thám hiểm của Apollo, dùng máy tính của các bạn, làm mọi thứ các bạn có thể làm, nhưng các bạn cần ra được kết quả. Đừng đến dự hội nghị nếu các bạn chưa có gì để nói về nguồn gốc Mặt trăng." Vào hội nghị năm 1984 ở Kona, Hawaii, giả thuyết vụ va chạm lớn bắt đầu được đa số tán thành là hợp lý nhất.

Trước hội nghị này, có các lực lượng ủng hộ ba giả thuyết "truyền thống", cộng với vài người bắt đầu nghiêm túc xem xét lý thuyết va chạm lớn, và rất nhiều người khác không có quan điểm rõ ràng và cho rằng cuộc tranh luận sẽ không bao giờ kết thúc. Sau hội nghị, cơ bản chỉ còn có hai nhóm: phe va chạm lớn và phe bất khả tri.[26]

Các vụ va chạm lớn được cho là xảy ra thường xuyên trong thời kỳ hình thành của Hệ Mặt trời. Các mô phỏng trên máy tính của vụ va chạm lớn đã cho ra các kết quả phù hợp với quan sát về khối lượng của lõi Mặt trăng và mômen động lượng của hệ Trái đất – Mặt trăng. Các mô phỏng này cũng cho thấy phần lớn Mặt trăng được hình thành từ vật liệu của Theia, chứ không phải từ thiên thể tiền Trái đất.[27] Tuy nhiên, các mô phỏng mới nhất gợi ý tỷ lệ vật liệu đến từ tiền Trái đất cao hơn các mô phỏng trước đây.[28][29][30][31] Các thiên thể khác ở vòng trong Hệ Mặt trời, như Sao hỏa và Vesta có thành phần đồng vị oxy và wolfram rất khác so với Trái đất, dựa trên đo đạc các mẫu vẫn thạch từ các thiên thể đó. Tuy nhiên, Trái đất và Mặt trăng có các thành phần đồng vị gần như giống hệt nhau. Điều này có thể được giải thích bằng sự hòa trộn vật liệu bốc hơi sau sự kiện va chạm lớn, để thành nguyên liệu hình thành cho cả hai,[32] mặc dù giả định này vẫn còn gây tranh cãi.[33]

Vụ va chạm giải phóng rất nhiều năng lượng và sau đó vật chất văng ra được bồi tụ lại thành hệ Trái đất - Mặt trăng. Năng lượng này đủ để làm nóng chảy lớp vỏ Trái đất, và tạo nên đại dương dung nham.[34][35] Tương tự, Mặt trăng mới hình thành cũng có đại dương dung nham của nó; với độ sâu vào cỡ 500 km đến 1737 km.[34]

Tuy giả thuyết va chạm lớn có thể giải thích được nhiều kết quả quan sát, vẫn còn những câu hỏi chưa được giải đáp, đa số liên quan đến thành phần của Mặt trăng.[36] Năm 2001, một nhóm nghiên cứu ở Viện Carnegie tại Washington báo cáo kết quả đo đạc chính xác cao của đặc trưng đồng vị trong đá Mặt trăng.[37] Đá Mặt trăng, thu được sau chương trình Apollo, có đặc trưng đồng vị giống với đá trên Trái đất, và khác biệt với hầu hết các thiên thể khác trong Hệ Mặt trời. Kết quả này đã gây bất ngờ, vì phần lớn vật liệu hình thành Mặt trăng được cho là đến từ Theia và đã từng có báo cáo năm 2007 rằng có ít hơn 1% khả năng là Theia và Trái đất có cùng đặc trưng đồng vị.[38] Các mẫu vật chất Mặt trăng khác từ chương trình Apollo được nghiên cứu vào năm 2012 cũng có thành phần đồng vị titani giống với Trái đất,[39] một kết quả mâu thuẫn với giả thuyết cho rằng Mặt trăng được hình thành ở xa và độc lập với Trái đất, hoặc chủ yếu từ Theia. Các kết quả này vẫn có thể được giải thích bởi các lý thuyết cải tiến từ giả thuyết va chạm lớn.[cần dẫn nguồn]

Minh họa giả thuyết va chạm lớn
  • Giản đồ giả thuyết va chạm lớn
  • Minh họa cận cảnh

Đặc tính vật lý

Thành phần hóa học bề mặt[40]
Hợp chất Công thức Thành phần
Biển Vùng cao
Silic dioxide SiO2 45,4% 45,5%
Nhôm oxit Al2O3 14,9% 24,0%
Calci oxit CaO 11,8% 15,9%
Sắt(II) oxit FeO 14,1% 5,9%
Magnesi oxit MgO 9,2% 7,5%
Titani dioxide TiO2 3,9% 0,6%
Natri oxit Na2O 0,6% 0,6%
  99,9% 100,0%

Mặt trăng có hình dạng hơi ellipsoid lệch do tác động của lực thủy triều, với trục lớn của nó lệch khoảng 30° so với phương nối đến Trái đất gây ra bởi các bất thường trong trường hấp dẫn ở các bồn địa để lại bởi các vụ va chạm. Hình dạng của nó hơi méo hơn so với mức gây ra bởi lực thủy triều hiện tại. Hóa thạch hình dạng này gợi ý về lịch sử của Mặt trăng. Mặt trăng đã nguội và đông cứng khi lực thủy triều còn mạnh, khi nó ở khoảng cách đến Trái đất bằng khoảng nửa so với giá trị hiện nay. Ngày nay, nó đã quá lạnh và cứng đến mức không thể điều chỉnh hình dạng lại cho phù hợp với lực thủy triều yếu hơn ở quỹ đạo hiện tại.[41]

Cấu trúc bên trong

Cấu trúc bên trong của Mặt trăng được phân tách thành ba thành phần khác biệt về mặt hóa địa chấtlớp vỏ, lớp phủlõi. Lõi của Mặt trăng gồm có phần lõi trong ở trạng thái rắn chứa nhiều sắt, bán kính có thể vào cỡ 240 km, và phần lõi ngoài lỏng chủ yếu gồm sắt nóng chảy với bán kính vào cỡ 300 km. Bao quanh lõi là phần trong của lớp phủ có bán kính khoảng 500 km, một phần cũng bị nóng chảy.[42][43] Cấu trúc này được cho là đã hình thành theo cơ chế kết tinh phân đoạn từ một đại dương dung nham tồn tại ngay sau khi Mặt trăng hình thành vào khoảng 4,5 tỷ năm trước.[44]

Việc kết tinh đại dương dung nham đã tạo ra lớp phủ mafic do các khoáng chất olivin, clinopyroxeneorthopyroxene chìm xuống và kết tủa. Sau khi khoảng ba phần tư đại dương dung nham đã tinh thể hóa, các khoáng chất plagioclase nhẹ hơn bắt đầu hình thành và nổi lên trên tạo thành lớp vỏ.[45] Những phần chất lỏng cuối cùng hóa rắn nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ, chứa nhiều các thành phần tỏa nhiệt và không tương thích nhau về mặt hóa địa chất.[1]

Quá trình hình thành nêu trên tiên đoán ra lớp vỏ anorthosite, một kết quả phù hợp với các bản đồ đo đạc hóa địa chất, từ các phép đo của các thiết bị bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng.[12] Lớp vỏ dày khoảng 50 km.[1] Các mẫu đá Mặt trăng lấy từ các phần dung nham hóa rắn, vốn từng phun trào ra bề mặt từ vùng lớp phủ nóng chảy một phần, cũng xác nhận thành phần lớp phủ mafic chứa nhiều sắt hơn so với Trái đất.[1]

Mặt trăng là vệ tinh tự nhiên có mật độ khối lượng đứng thứ nhì trong Hệ Mặt trời, chỉ sau Io,[46] dù cho phần lõi nặng nhất khá nhỏ, chỉ chiếm 20% bán kính Mặt trăng.[1]. Thành phần hóa học của lõi vẫn chưa được xác định chính xác, có thể gồm hợp kim sắt với một lượng nhỏ lưu huỳnh và nickel. Phân tích về sự tự quay có biến thiên theo thời gian của Mặt trăng cho thấy lõi có thể có một phần nóng chảy.[47]

Giản đồ cấu trúc bên trong Mặt trăng

Bề mặt

Tập tin:Topographic Globe of the Mooon.gif
Địa hình Mặt trăng. Màu cam ứng với độ cao lớn, màu lam ứng với độ sâu lớn.

Địa hình Mặt trăng đã được đo bằng laserxử lý ảnh stereo.[48] Một đặc trưng địa hình nổi bật là bồn địa Nam cực - Aitken, ở nửa xa Mặt trăng, đường kính khoảng 2240 km, là hố va chạm lớn nhất của Mặt trăng và lớn nhì trong số các hố va chạm đã được xác nhận ở hệ Mặt trời.[49][50] Bồn địa này cũng chứa điểm có độ sâu lớn nhất của Mặt trăng, sâu khoảng 13 km.[49][51] Điểm cao nhất của Mặt trăng cũng nằm ngay rìa phía đông bắc của bồn địa này, có thể được nâng cao lên do va chạm nghiêng của vụ va chạm hình thành nên bồn địa Nam Cực - Aitken.[52] Các bồn địa nổi bật khác, hình thành bởi các vụ va chạm, gồm có Imbrium, Serenitatis, Crisium, SmythiiBiển Đông phương - chúng đều có các vùng trung tâm với độ sâu lớn và phần rìa có độ cao lớn.[49] Nửa xa Mặt trăng có độ cao trung bình lớn hơn so với nửa gần cỡ 1,9 km.[1]

Tàu quỹ đạo Trinh sát Mặt trăng năm 2010 đã phát hiện ra các vách đứt gãy dốc đứng trên bề mặt Mặt trăng, cho thấy rằng Mặt trăng có thể đã co ngót lại, trong hàng tỷ năm qua, với kích thước giảm khoảng 90 mét.[53] Các dấu hiệu co ngót tương tự cũng đã được quan sát thấy trên Sao thủy. Một nghiên cứu thực hiện với 12000 bức ảnh chụp được từ tàu quỹ đạo cho thấy Biển Frigoris ở gần cực bắc, một bồn địa lớn vốn được cho là đã ngừng tiến hóa về mặt địa chất, đang nứt và dịch chuyển. Trên Mặt trăng không có các mảng kiến tạo, cho nên hoạt động địa chất ở đây chỉ là sự hình thành các vết nứt trong quá trình Mặt trăng thoát dần nhiệt ra không gian và nguội dần đi.[54]

Các đặc trưng địa chất trên bề mặt Mặt trăng. Bên trái là nửa gần với cực bắc ở phía trên. Hình phải là nửa xa, với cực nam ở phía dưới. Những vùng màu sắc khác nhau ứng với phân loại địa hình và địa chất khác nhau.

Các đặc điểm núi lửa

Các vùng trên bề mặt Mặt trăng có màu sẫm và tương đối bằng phẳng, như những đồng bằng, có ít các hố va chạm hơn, đủ lớn để có thể nhìn thấy bằng mắt thường từ Trái đất, được gọi là các biển Mặt trăng, vì trước đây đã có giả định rằng những vùng này có nước.[55] Giả thuyết được chấp nhận hiện tại cho rằng các vùng này vốn là các hồ chứa dung nham bazan cổ, nay đã đông cứng. Bazan trên Mặt trăng tương tự như bazan ở Trái đất, nhưng có nhiều sắt hơn và không có các khoáng chất bị biến đổi bởi sự có mặt của nước.[56] Phần lớn các dung nham này đã phun trào ra bề mặt và chảy đến các vùng trũng ở các hố va chạm. Ở nửa gần Mặt trăng, có các khu vực có chứa những núi lửa hình khiên và các vòm núi lửa.[57]

Hầu hết biển Mặt trăng nằm ở nửa gần Mặt trăng, chiếm đến 31% diện tích của nửa này.[58] Trong khi đó, biển Mặt trăng chỉ chiếm 2% diện tích ở nửa xa Mặt trăng.[59] Bản đồ hóa địa chất Mặt trăng, đo bởi phổ kế gamma của vệ tinh Lunar Prospector, cho thấy nửa gần Mặt trăng có nồng độ cao hơn các nguyên tố hóa học có khả năng sinh nhiệt nằm bên dưới lớp vỏ, gợi ý về khả năng vùng nằm dưới lớp vỏ này đã từng nóng hơn và dễ phun trào dung nham hơn để hình thành các biển Mặt trăng.[45][60][61] Đa số bazan hình thành nên các biển Mặt trăng đã phun trào trong kỷ Imbrium, 3,0–3,5 tỷ năm trước, tuy vẫn có một số mẫu với tuổi đo được bởi phương pháp phóng xạ lên đến 4,2 tỷ năm.[62] Vụ phun trào gần đây nhất vào khoảng 1,2 tỷ năm trước, được xác định tuổi theo phương pháp đếm hố va chạm.[63] Năm 2006, một nghiên cứu về hố va chạm Ina nhỏ bé trong biển Lacus Felicitatis đã tìm thấy các địa điểm lởm chởm có tuổi chỉ khoảng 2 triệu năm và chưa tích lũy nhiều cát bụi sinh ra từ các va chạm bởi các mảnh vụn vũ trụ rơi vào.[64] Các trận động đất Mặt trăng và các vụ rò rỉ khí ga ra bề mặt cho thấy một số hoạt động địa chất của Mặt trăng vẫn tiếp tục.[64] Năm 2014, NASA công "nhiều bằng chứng về các hoạt động núi lửa mới trên Mặt trăng" tại 70 vùng có hình dạng bất thường ghi nhận bởi vệ tinh Lunar Reconnaissance Orbiter, một số có tuổi ít hơn 50 triệu năm. Có khả năng lớp phủ của Mặt trăng nóng hơn so với các số liệu đã được chấp nhận trước đây, ít nhất là ở nửa gần, tại những nơi có hàm lượng cao hơn các chất phóng xạ sinh nhiệt bên dưới lớp vỏ.[65][66][67][68] Ngay trước khi có kết quả này, đã có bằng chứng về hoạt động núi lửa bazan bên trong hố va chạm Lowell trẻ hơn so với đo đạc trước đó tới 2 đến 10 triệu năm.[69][70] Hố Lowell nằm ở vùng chuyển tiếp giữa nửa gần và nửa xa của Mặt trăng, trong bồn địa Đông phương. Lớp phủ nóng hơn và / hoặc hàm lượng cao hơn các chất sinh nhiệt trong lớp phủ nằm dưới nửa xa của bồn địa Đông phương cũng có thể đã kéo dài hoạt động địa chất tại đây.[71][72]

Các khu vực có màu sáng hơn trên Mặt trăng được gọi là các vùng cao, bởi vì chúng có cao độ lớn hơn hầu hết các biển Mặt trăng. Phương pháp đo tuổi bằng phóng xạ đã xác định các vùng cao hình thành vào khoảng 4,4 tỷ năm trước, có thể cấu tạo gồm các đá plagioclase tích lũy từ đại dương dung nham cổ của Mặt trăng.[62][63] Khác với Trái đất, không có ngọn núi lớn nào trên Mặt trăng được cho là hình thành bởi sự dịch chuyển của các mảng kiến tạo.[73]

Sự xuất hiện nhiều biển tại nửa gần dường như phản ánh lớp vỏ dày hơn ở các vùng cao tại nửa xa, có thể được hình thành sau một vụ va chạm ở tốc độ thấp với một vệ tinh tự nhiên thứ hai của Trái đất chừng vài chục triệu năm sau khi hệ Trái đất và Mặt trăng hình thành.[25][74]

Các hố va chạm

Hố Daedalus ở nửa xa của Mặt trăng

Khi những tiểu hành tinhsao chổi va chạm với bề mặt Mặt trăng, các hố va chạm hình thành và gây ra tác động đáng kể đến bề mặt Mặt trăng.[75] Theo ước tính chỉ riêng nửa gần của Mặt trăng đã có khoảng 300.000 hố rộng hơn 1 km.[76] Thang thời gian địa chất Mặt trăng căn cứ vào những sự kiện va chạm nổi bật nhất bao gồm Nectaris, biển ImbriumĐông phương. Đây là những cấu trúc gồm nhiều vòng tròn hình thành từ vật chất bị bắn ra trong vụ va chạm. Các vòng tròn này có đường kính khoảng hàng trăm đến hàng ngàn kilomét, tạo thành một thềm địa tầng khu vực chứa trầm tích của vật chất bị xới lên sau vụ va chạm.[77] Việc không có khí quyển, thời tiết và những quá trình địa chất gần đây đã giúp cho đa số các hố giữ nguyên trạng từ lúc được hình thành. Chỉ có ít bồn địa đa vòng được định tuổi chính xác, nhưng chúng hữu ích cho việc định tuổi tương đối cho các khu vực còn lại. Nếu giả định rằng các hố va chạm xuất hiện dần theo thời gian với tốc độ gần như không đổi trong phần lớn tuổi đời Mặt trăng, việc đếm số hố trên mỗi đơn vị diện tích có thể giúp ước tính tuổi bề mặt.[77] Tuổi đo bằng phóng xạ của đá nóng chảy do va chạm, thu thập từ các hố va chạm trong chương trình Apollo, đa số nằm trong khoảng 3,8 đến 4,1 tỉ năm. Kết quả này là cơ sở cho giả thuyết về sự kiện biến cố mặt trăng, là sự kiện diễn ra khoảng 3,8 đến 4,1 tỉ năm trước, với sự xuất hiện nhiều bất thường các tiểu hành tinh va chạm với các thiên thể ở vòng trong của Hệ mặt trời.[78]

Phủ bên trên bề mặt Mặt trăng là lớp đất mặt, gồm các vật liệu tán vụn, hình thành bởi các quá trình va chạm. Theo thời gian chúng tiếp tục bị vỡ vụn thành những mảnh ngày càng nhỏ hơn. Những lớp đất Mặt trăng mịn hơn là cát thủy tinh silic dioxide có kết cấu giống tuyết và mùi giống thuốc súng đã qua sử dụng.[79] Lớp đất mặt của những bề mặt cổ hơn nhìn chung dày hơn lớp đất mặt của những bề mặt trẻ hơn. Chúng có độ dày dao động trong khoảng 10-20 km ở vùng cao và 3–5 km ở biển.[80] Bên dưới lớp đất mặt tán mịn là lớp đá móng nứt gãy dày từ vài đến vài chục kilomet.[81]

Việc so sánh những hình ảnh độ phân giải cao do vệ tinh Lunar Reconnaissance Orbiter chụp cho thấy tốc độ sản sinh hố hiện tại nhanh hơn đáng kể ước tính trước đây, đặc biệt là với các hố va chạm nhỏ có kích cỡ vài chục mét.[82] Khi mỗi vụ va chạm xảy ra, những mảnh đá lớn văng ra ngoại biên và chính chúng lại rơi xuống bề mặt tạo nên những hố va chạm nhỏ hơn.[82] Cơ chế tạo hố thứ hai này được cho là đã khuấy động hai centimet lớp đất mặt trên cùng nhanh hơn những mô hình gợi ý trước đó tới trên một trăm lần, và trung bình sau mỗi 81.000 năm lại xảy một vụ va chạm nhỏ.[83]

Các xoáy Mặt trăng

Các xoáy Mặt trăng là các vùng có đặc điểm địa lý bí hiểm nằm rải rác khắp bề mặt của Mặt trăng. Chúng có suất phản chiếu cao hơn, có đặc điểm quang học của bề mặt mới hình thành gần đây và thường có hình dáng uốn lượn. Hình dạng của các xoáy Mặt trăng cũng hay có những nét chấm phá, là các vùng tối nằm xen kẽ giữa các vùng hình xoáy sáng màu.

Hiện diện của nước

Nước lỏng không tồn tại trên bề mặt Mặt trăng. Khi bức xạ Mặt trời chiếu vào, nước lỏng sẽ bị phân ly quang học thành các chất khí. Ở nhiệt độ bề mặt của Mặt trăng, các chất khí thoát khỏi trường hấp dẫn yếu của thiên thể này và thoát vào khoảng không vũ trụ. Tuy nhiên, từ những năm 1960, đã có giả thuyết về sự tồn tại của nước đá, có thể mang đến Mặt trăng bởi các sao chổi, hoặc được sinh ra từ phản ứng hóa học giữa đá Mặt trăng chứa nhiều oxy với hydro đến từ gió Mặt trời, tích lũy lại thành lượng nhỏ nước đá ở các hố va chạm lạnh lẽo và luôn bị khuất trong bóng tối ở hai cực.[84][85] Các mô phỏng trên máy tính gợi ý có khoảng 14.000 kilomét vuông diện tích Mặt trăng có thể nằm trong bóng tối vĩnh cửu.[86] Việc có được lượng nước đáng kể trên Mặt trăng ảnh hưởng quan trọng đến các kế hoạch định cư trên Mặt trăng của con người, do việc vận chuyển nước từ Trái đất lên Mặt trăng sẽ có thể quá tốn kém.[87]

Đã có các dấu hiệu của sự tồn tại nước đá trên bề mặt Mặt trăng.[88] Năm 1994, thí nghiệm radar song tĩnh trên tàu vũ trụ Clementine đã cho thấy các khu vực nhỏ có nước đá ở gần bề mặt Mặt trăng. Tuy nhiên các quan sát radar sau này của Đài thiên văn Arecibo cho thấy kết quả của tàu Clementine có thể là tín hiệu từ tảng đá bị văng ra bởi các vụ va chạm gần đây.[89] Năm 1998, phổ kế neutron trên tàu vũ trụ Lunar Prospector cho thấy mật độ hydro cao trong khoảng một mét trên cùng của lớp đất mặt gần các vùng cực.[90] Các hạt dung nham núi lửa, do Apollo 15 mang về, cũng đã cho thấy lượng nước nhỏ ở bên trong.[91]

Trường hấp dẫn

Bản đồ trọng lực Mặt trăng của GRAIL

Trường hấp dẫn của Mặt trăng được đo đạc thông qua theo dõi thay đổi tín hiệu radio Doppler phát ra bởi tàu không gian quỹ đạo. Đặc điểm lực hấp dẫn chính của Mặt trăng là tập trung cao độ, dị thường trọng lực dương lớn liên hệ với một số bồn địa va chạm khổng lồ mà một phần do những dòng dung nham bazan biển dày đặc lấp đầy những bồn địa đó.[92][93] Sự dị thường này ảnh hưởng lớn đến quỹ đạo của tàu không gian quanh Mặt trăng. Vẫn còn đó một số câu hỏi như chỉ mỗi dòng dung nham không thể giải thích tất cả dấu hiệu trọng lực và một số điểm tập trung tồn tại không liên hệ với hoạt động núi lửa biển Mặt trăng.[94]

Từ trường

Mặt trăng có một từ trường ngoài nhìn chung độ mạnh dưới 0,2 nanoteslas[95] hay chưa bằng một phần một trăm ngàn từ trường Trái đất. Hiện tại Mặt trăng không có từ trường lưỡng cực toàn cầu mà chỉ thấy sự từ hóa lớp vỏ có vẻ đạt được vào đầu lịch sử của nó khi một dynamo vẫn đang vận hành.[96][97] Tuy nhiên vào bốn tỉ năm trước từ trường Mặt trăng khả năng mạnh gần bằng từ trường Trái đất ngày nay.[95] Trường dynamo thời đầu này xem ra chấm dứt cách đây khoảng một tỉ năm sau khi lõi Mặt trăng kết tinh hoàn toàn.[95] Về mặt lý thuyết, một số sự từ hóa còn sót lại có thể có nguồn gốc từ từ trường thoáng qua sinh ra trong những vụ va chạm lớn thông qua sự bành trướng của mây plasma. Những đám mây này hình thành trong một từ trường xung quanh vào sự kiện va chạm. Điều này được hỗ trợ bởi vị trí những sự từ hóa lớp vỏ lớn nhất nằm gần điểm đối chân của những bồn địa va chạm lớn.[98]

Khí quyển

Mặt trăng có khí quyển rất loãng đến gần như chân không với tổng khối lượng chưa đến 10 tấn (9,8 tấn dài, 11 tấn ngắn).[99] Khí áp bề mặt là khoảng 3 × 10−15 atm (0.3 nPa) và thay đổi theo ngày âm lịch. Nguồn gốc của khí quyển bao gồm nhả khíphún xạ, một sản phẩm của việc ion gió mặt trời bắn phá thổ nhưỡng mặt trăng.[12][100] Các nguyên tố được phát hiện có natrikali sinh ra do phún xạ (cũng thấy trong khí quyển Sao thủy và Io); helium-4neon[101] từ gió mặt trời; và argon-40, radon-222, poloni-210, thoát ra sau khi hình thành bởi phân rã phóng xạ trong lớp vỏ và lớp phủ.[102][103] Con người chưa rõ tại sao khí quyển thiếu vắng những phân tử hay nguyên tử trung hòa như oxy, nitơ, cacbon, hydro, magie mà có ở lớp đất mặt.[102] Chandrayaan-1 đã phát hiện hơi nước và nó thay đổi theo vĩ độ, nhiều nhất tại ~60–70 độ. Hơi nước khả năng sinh ra từ sự thăng hoa nước đá ở lớp đất mặt.[104] Những khí này quay lại lớp đất mặt do trọng lực của Mặt Trăng hoặc biến mất vào không gian do áp lực bức xạ mặt trời hoặc nếu chúng bị ion hóa thì bị thổi bay bởi từ trường gió mặt trời.[102]

Cát bụi

Khí quyển dày hơn trong quá khứ

Mùa

Hệ Trái đất - Mặt trăng

Quỹ đạo

Tương quan kích thước

Xét tương quan với Trái đất, Mặt trăng là một vệ tinh tự nhiên lớn lạ thường: nó có đường kính bằng hơn một phần tư và khối lượng bằng 1/81 Trái đất.[58] Mặt trăng là vệ tinh lớn nhất trong Hệ Mặt trời nếu so tương quan với kích cỡ hành tinh của chúng, dù vậy Charon có khối lượng bằng 1/9 khối lượng hành tinh lùn Pluto.[105] Khối tâm của Mặt trăng và Trái đất hay tâm khối lượng chung nằm dưới bề mặt Trái đất 1.700 km (1.100 dặm) (khoảng một phần tư bán kính Trái đất). Trái đất quay quanh khối tâm Trái đất-Mặt trăng một lần một tháng thiên văn với tốc độ bằng 1/81 Mặt trăng hay khoảng 12,5 met (41 ft) một giây. Chuyển động này chồng lên chuyển động quay của Trái đất quanh Mặt trời lớn hơn nhiều với tốc độ khoảng 30 km (19 dặm) một giây.

Diện mạo nhìn từ Trái đất

Vệ tinh DSCOVR chứng kiến Mặt trăng đi qua trước mặt Trái đất
Mặt trăng hiện lên nổi bật trong bức họa Đêm đầy sao của Vincent van Gogh

Mặt trăng chuyển động đồng bộ khi quay quanh Trái đất, thời gian nó quay quanh trục gần tương tự thời gian quay quanh Trái đất. Điều này dẫn đến việc Mặt trăng luôn luôn duy trì gần như một mặt hướng về Trái đất. Tuy nhiên bởi hiệu ứng đu đưa, từ Trái đất thực tế có thể quan sát khoảng 59% bề mặt Mặt trăng. Mặt của Mặt trăng mà đối diện Trái đất được gọi là mặt gần còn mặt kia là mặt xa. Mặt xa thường bị gọi không chính xác là "mặt tối" nhưng thực tế nó được soi sáng thường xuyên như mặt gần cứ 29,5 ngày Trái đất một lần. Mặt gần tối vào kỳ trăng non.[106]

Mặt trăng từng quay với tốc độ nhanh hơn nhưng vào thời đầu lịch sử nó quay chậm và trở nên bị khóa thủy triều trong định hướng này bởi hiệu ứng ma sát liên hệ với biến dạng thủy triều do Trái đất gây ra.[107] Qua thời gian, năng lượng quay của Mặt trăng quanh trục của nó biến mất như nhiệt cho đến khi không còn chuyển động quay của Mặt trăng tương ứng với Trái đất. Vào năm 2016, các nhà khoa học hành tinh sử dụng dữ liệu thu thập trong sứ mệnh Lunar Prospector của NASA trước đó lâu và phát hiện hai vùng giàu hydro (khả năng nhất xưa kia là nước đá) trên hai mặt đối diện của Mặt trăng. Người ta suy đoán rằng những mảng này là cực của Mặt trăng cách đây hàng tỉ năm trước khi nó bị khóa thủy triều với Trái đất.[108]

Mặt trăng có suất phản chiếu thấp lạ thường dẫn đến năng suất phản xạ ở mức hơi sáng hơn nhựa đường mòn. Mặc dù vậy Mặt trăng là vật thế sáng thứ hai trên bầu trời sau Mặt trời,[58] điều này một phần do sự tăng cường độ sáng của hiệu ứng xung đối. Mặt trăng tại pha phần tư chỉ sáng bằng một phần mười trăng tròn chứ không phải một nửa.[109] Ngoài ra, sự bất biến về màu trong hệ thống thị giác hiệu chỉnh quan hệ giữa màu sắc của một vật thể và môi trường xung quanh nó, và bởi bầu trời xung quanh tương đối tối nên chúng ta nhận biết Mặt trăng được Mặt trời rọi sáng là một vật thể sáng. Rìa trăng tròn có vẻ sáng như tâm, không có hiệu ứng rìa tối, bởi đặc tính phản xạ của đất Mặt trăng phản xạ lại ánh sáng về phía Mặt trời nhiều hơn những hướng khác. Mặt trăng trông lớn hơn khi gần đường chân trời nhưng đây hoàn toàn là hiệu ứng tâm lý gọi là ảo ảnh mặt trăng được mô tả lần đầu vào thế kỷ 7 trước CN.[110] Trăng tròn trên bầu trời có đường kính góc trung bình khoảng 0,52° và kích cỡ biểu kiến gần như Mặt trời.

Độ cao lớn nhất của Mặt trăng tại trung thiên thay đổi theo pha và thời gian trong năm. Trăng tròn cao nhất trên bầu trời vào mùa đông đối với cả hai bán cầu. Sự định hướng dạng lưỡi liềm của Mặt trăng còn phụ thuộc vào vĩ độ của địa điểm quan sát, một người quan sát ở miền nhiệt đới có thể thấy trăng lưỡi liềm hình mặt cười.[111] Tại hai cực Bắc và Nam cứ mỗi 27,3 ngày là có thể quan sát Mặt trăng trong hai tuần. Động vật phù duvùng Bắc Cực sử dụng ánh sáng mặt trăng vài tháng liên tục khi Mặt trời nằm phía dưới đường chân trời.[112]

Khoảng cách giữa Mặt trăng và Trái đất thay đổi từ khoảng 356.400 km (221.500 dặm) tại cận điểm (gần nhất) đến 406.700 km (252.700 mi) tại viễn điểm (xa nhất). Vào ngày 14 tháng 11 năm 2016, Mặt trăng tại pha đầy (trăng tròn) ở gần Trái đất hơn mọi dịp kể từ năm 1948, 14% gần hơn vị trí xa nhất của nó ở viễn điểm.[113] Mặt trăng dịp này, gọi là siêu trăng, ở gần Trái đất nhất trùng với một giờ trăng tròn và nó sáng hơn 30% so với khi ở khoảng cách xa nhất do đường kính góc lớn hơn 14% và 1,142 ≈ 1,30.[114][115][116] Ở mức độ thấp hơn, nhận thức của con người về độ sáng giảm theo phần trăm được tính bằng công thức dưới đây:[117][118]

Khi độ giảm thực tế là 1/1,3 hay khoảng 0,77, độ giảm nhận thức là khoảng 0,877 hay 1/1,14. Vậy con người nhận thức độ sáng tăng tối đa 14% giữa Mặt trăng cùng pha tại cận điểm và viễn điểm.[119]

Tồn tại tranh cãi từ trước về việc đặc điểm trên bề mặt Mặt trăng có thay đổi qua thời gian. Ngày nay, nhiều khẳng định như vậy bị cho là hão huyền, kết quả từ việc quan sát dưới những điều kiện ánh sáng khác nhau, tầm nhìn thiên văn kém, hay những bản vẽ không phù hợp. Tuy nhiên, sự thoát khí thi thoảng diễn ra và có thể là nguyên nhân của một tỉ lệ nhỏ hiện tượng thoáng qua được báo cáo. Gần đây, có gợi ý rằng một vùng bề mặt Mặt trăng đường kính khoảng 3 km (1,9 dặm) bị điều chỉnh bởi một sự kiện giải phóng khí cách đây khoảng một triệu năm.[120][121]

Cũng như Mặt trời, hình dạng Mặt trăng có thể bị ảnh hưởng bởi khí quyển Trái đất. Hiệu ứng quang học phổ biến là hào quang 22° hình thành khi ánh sáng Mặt trăng khúc xạ qua những tinh thể băng trong những đám mây ti tầng cao và quầng sáng nhỏ hơn khi Mặt trăng được quan sát qua mây mỏng.[122]

Thủy triều

Thiên thực

Nhìn từ Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời tỏ ra cùng kích cỡ như thấy trong nhật thực 1999 (trái), trong khi nhìn từ tàu STEREO-B ở quỹ đạo vết Trái đất, Mặt trăng trông nhỏ hơn Mặt trời nhiều (phải).[123]

Thiên thực chỉ xảy ra khi Mặt trời, Trái đất, Mặt trăng đều nằm trên một đường thẳng (gọi là sóc vọng). Nhật thực diễn ra vào trăng non khi Mặt trăng nằm giữa Mặt trời và Trái đất. Trái ngược nguyệt thực diễn ra vào trăng tròn khi Trái đất nằm giữa Mặt trời và Mặt trăng. Kích cỡ biểu kiến của Mặt trăng gần bằng Mặt trời với việc cả hai được quan sát tại độ rộng góc gần nửa độ. Mặt trời lớn hơn Mặt trăng nhiều nhưng do ở cách xa Trái đất hơn hẳn nên nó có kích cỡ biểu kiến tương đồng với Mặt trăng ở gần và bé hơn nhiều nếu nhìn từ Trái đất. Sự thay đổi trong kích cỡ biểu kiến do quỹ đạo không tròn cũng gần như tương tự mặc dù xảy ra trong những chu kỳ khác nhau. Điều này dẫn đến hai dạng nhật thực là toàn phần (Mặt trăng trông to hơn Mặt trời) và hình khuyên (Mặt trăng trông nhỏ hơn Mặt trời).[124] Trong nhật thực toàn phần, Mặt trăng che phủ hoàn toàn đĩa Mặt trời và quầng mặt trời trở nên có thể quan sát bằng mắt thường. Vì khoảng cách giữa Mặt trăng và Trái đất gia tăng rất chậm qua thời gian,[125] đường kính góc của Mặt trăng đang giảm. Thêm nữa, do đang trong quá trình tiến hóa thành sao khổng lồ đỏ, kích cỡ và đường kính biểu kiến của Mặt trời trên bầu trời đang tăng chậm. Sự kết hợp của hai thay đổi này đồng nghĩa rằng hàng trăm triệu năm trước, Mặt trăng luôn luôn che phủ hoàn toàn Mặt trời trong nhật thực và không có nhật thực hình khuyên. Tương tự như thế, hàng trăm triệu năm sau, Mặt trăng sẽ không còn có thể che phủ hoàn toàn Mặt trời được nữa và nhật thực toàn phần cũng không còn.[126]

Vì quỹ đạo Mặt trăng quanh Trái đất nghiêng khoảng 5,145° (5° 9') so với quỹ đạo của Trái đất quanh Mặt trời nên nhật thực không xảy ra tại mọi dịp trăng non và trăng tròn. Để nhật thực diễn ra thì Mặt trăng phải ở gần giao cắt của hai mặt phẳng quỹ đạo.[127] Tính chu kỳ và tái lặp của nhật thực và nguyệt thực được mô tả bằng saros, biểu thị những hiện tượng này sẽ xảy ra xấp xỉ 18 năm một lần.[128]

Vì Mặt trăng liên tục chắn khung cảnh bầu trời một diện tích tròn rộng nửa độ,[129] hiện tượng che khuất liên quan xảy ra khi một hành tinh hay ngôi sao sáng đi qua phía sau Mặt trăng và bị che mất khiến ta không thể quan sát. Chiếu theo khái niệm này thì nhật thực là sự che khuất Mặt trời. Vì Mặt trăng ở khá gần Trái đất nên sự che khuất những ngôi sao riêng lẻ không thấy được ở mọi nơi trên hành tinh lẫn cùng thời điểm. Việc quỹ đạo Mặt trăng tiến động khiến các ngôi sao bị che khuất mỗi năm một khác.[130]

Khám phá

Trước thời kỳ du hành vũ trụ

1959-1970

Hoạt động của Liên Xô

Hình ảnh đầu tiên trong lịch sử về nửa xa của Mặt trăng do Luna 3 chụp, 7 tháng 10 năm 1959

Sau ba nhiệm vụ không tên thất bại năm 1958, tàu không gian từ chương trình Luna của Liên Xô đã lần đầu tiên hoàn thành những mục tiêu sau: vật thể nhân tạo đầu tiên thoát khỏi trọng lực Trái đất và đi qua gần Mặt trăng là Luna 1, vật thể nhân tạo đầu tiên va chạm bề mặt Mặt trăng là Luna 2, và những bức ảnh đầu tiên về nửa xa của Mặt trăng mà bình thường ẩn dạng được chụp bởi Luna 3, tất cả đều vào năm 1959.[131]

Tàu không gian đầu tiên đổ bộ nhẹ nhàng lên Mặt trăng thành công là Luna 9 và phương tiện không người lái đầu tiên đi vào quỹ đạo quanh Mặt trăng là Luna 10, cả hai vào năm 1966.[58] Các mẫu đất và đá được đem về Trái đất bởi ba nhiệm vụ trả về mẫu vật (Luna 16 năm 1970, Luna 20 năm 1972, và Luna 24 năm 1976) với tổng khối lượng 0,3 kg.[132] Hai cỗ máy thám trắc tiên phong trong chương trình Lunokhod của Liên Xô đã đặt chân lên Mặt trăng vào các năm 1970 và 1973.

Hoạt động của Hoa Kỳ

Thập kỷ 1970 đến nay

Tương lai

Hoạt động thương mại

Sự hiện diện của con người

Tác động của con người

Quan sát thiên văn học từ Mặt trăng

Luật pháp

Văn hóa

Thần thoại

Lịch

Ảnh hưởng tâm sinh lý

Thông tin tham khảo

Chú thích

  1. Khoảng từ 18,29° đến 28,58° so với xích đạo Trái đất.[1]
  2. a b Có một số tiểu hành tinh gần Trái đất, bao gồm 3753 Cruithne, cùng quỹ đạo với Trái đất: quỹ đạo của chúng khiến chúng có những thời gian di chuyển vào gần Trái Đất rồi sau đó lại rời xa (Morais và Morbidelli 2002). Chúng là các giả vệ tinh – chúng không phải vệ tinh tự nhiên của Trái đất do không quay quanh Trái đất. Xem thêm các vệ tinh tự nhiên của Trái đất.
  3. Giá trị lớn nhất được tính cho khoảng cách gần nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 350 600 km, dựa trên số liệu gốc là −12.74 ứng với khoảng cách từ xích đạo đến tâm Mặt trăng là 378 000 km theo tài liệu tra cứu của NASA. Giá trị nhỏ nhất (ứng với khoảng cách đến Mặt trăng mới) được tính giống như trên cho khoảng cách xa nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 407 000 km (theo tài liệu tra cứu của NASA) cộng thêm độ sáng do ánh sáng từ Trái đất chiếu lên Mặt trăng. Độ sáng do ánh sáng Trái đất gây ra được tính bằng công thức [ suất phản chiếu của Trái đất × (bán kính Trái đất / bán kính quỹ đạo Mặt trăng)2 ] × độ sáng trực tiếp do Mặt trời chiếu vào Mặt trăng tròn. Ở đây, suất phản chiếu của Trái đất = 0.367; bán kính Trái đất = (bán kính cực × bán kính xích đạo)½ = 6 367 km.
  4. Dải giá trị kích thước góc: giá trị lớn nhất ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng nhỏ nhất là 350 600 km, và giá trị nhỏ nhất ứng với khoảng cách trên lớn nhất là 407 000 km. Các giá trị này được suy ra từ giá trị 1896 giây cung ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng 378 000 km, theo tài liệu tra cứu của NASA.
  5. Lucey và các tác giả khác 2006 ghi giá trị 107 hạt cm−3 vào ban ngày và 105 hạt cm−3 vào ban đêm. Với nhiệt độ bề mặt ở xích đạo 390 K vào ban ngày và 100 K vào ban đêm, định luật khí lý tưởng cho ra áp suất được ghi ở hộp thông tin: 10−7 Pa vào ban ngày và 10−10 Pa vào ban đêm.
  6. Mặt trăng có đường kính bằng 27%, mật độ khối lượng bằng 60%, và khối lượng bằng 1,23% các giá trị tương ứng của Trái Đất. Charon có tỷ lệ kích thước so với Pluto lớn hơn, nhưng Pluto hiện nay không được xếp là hành tinh, mà được xếp loại là hành tinh lùn (Lowrie 2007, tr. 5).
  7. Tuổi của Mặt trăng từ đồng vị zircon của Mặt trăng.

Tham khảo

  1. a b c d e f g h i j k l Wieczorek, Mark A.; et al. (2006), "The constitution and structure of the lunar interior", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 60 (1): 221–364, Bibcode:2006RvMG...60..221W, doi:10.2138/rmg.2006.60.3, S2CID 130734866, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  2. a b Lang, Kenneth R. (2011), The Cambridge Guide to the Solar System' (lxb. 2nd), Cambridge University Press, ISBN 9781139494175, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 1 năm 2016
  3. Morais và Morbidelli 2002
  4. a b c d e f g h i j Williams, Dr. David R. (ngày 2 tháng 2 năm 2006), Moon Fact Sheet, NASA/National Space Science Data Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008
  5. Smith, David E.; Zuber, Maria T.; Neumann, Gregory A.; Lemoine, Frank G. (ngày 1 tháng 1 năm 1997), "Topography of the Moon from the Clementine lidar", Journal of Geophysical Research, 102 (E1): 1601, Bibcode:1997JGR...102.1591S, doi:10.1029/96JE02940, hdl:2060/19980018849, S2CID 17475023, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  6. Terry 2013, tr. 226
  7. Williams, James G.; Newhall, XX; Dickey, Jean O. (1996), "Lunar moments, tides, orientation, and coordinate frames", Planetary and Space Science, 44 (10): 1077–1080, Bibcode:1996P&SS...44.1077W, doi:10.1016/0032-0633(95)00154-9
  8. Makemson, Maud W. (1971), "Determination of selenographic positions", The Moon, 2 (3): 293–308, Bibcode:1971Moon....2..293M, doi:10.1007/BF00561882, S2CID 119603394
  9. a b Archinal, Brent A.; A'Hearn, Michael F.; Bowell, Edward G.; Conrad, Albert R.; Consolmagno, Guy J.; Courtin, Régis; et al. (2010), "Report of the IAU Working Group on Cartographic Coordinates and Rotational Elements: 2009" (PDF), Celestial Mechanics and Dynamical Astronomy, 109 (2): 101–135, Bibcode:2011CeMDA.109..101A, doi:10.1007/s10569-010-9320-4, S2CID 189842666, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 4 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018 also available via usgs.gov (PDF), lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018
  10. Matthews, Grant (2008), "Celestial body irradiance determination from an underfilled satellite radiometer: application to albedo and thermal emission measurements of the Moon using CERES", Applied Optics, 47 (27): 4981–4993, Bibcode:2008ApOpt..47.4981M, doi:10.1364/AO.47.004981, PMID 18806861
  11. A.R. Vasavada; D.A. Paige & S.E. Wood (1999), "Near-Surface Temperatures on Mercury and the Moon and the Stability of Polar Ice Deposits", Icarus, 141 (2): 179–193, Bibcode:1999Icar..141..179V, doi:10.1006/icar.1999.6175, S2CID 37706412, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  12. a b c Lucey và các tác giả khác 2006
  13. Bùi Phương Nga 2011, tr. 118
  14. Lowrie 2007, tr. 8
  15. Maxwell M. Thiemens; Peter Sprung; Raúl O. C. Fonseca; Felipe P. Leitzke; Carsten Münker (2019), "Early Moon formation inferred from hafnium–tungsten systematics", Nature Geoscience, 12: 696–700, doi:10.1038/s41561-019-0398-3, truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2020
  16. Alan Cook; Adam Hilger (1988), The Motion of the Moon, ISBN 0852743483
  17. Scott, Elaine (2016), Our Moon: New discoveries about Earth's closest companion, Houghton Mifflin Harcourt, tr. 7, ISBN 978-0-544-75058-6
  18. Barboni, M.; Boehnke, P.; Keller, C.B.; Kohl, I.E.; Schoene, B.; Young, E.D.; McKeegan, K.D. (2017), "Early formation of the Moon 4.51 billion years ago", Science Advances, 3 (1): e1602365, Bibcode:2017SciA....3E2365B, doi:10.1126/sciadv.1602365, PMC 5226643, PMID 28097222
  19. Binder, A.B. (1974), "On the origin of the Moon by rotational fission", The Moon, 11 (2): 53–76, Bibcode:1974Moon...11...53B, doi:10.1007/BF01877794, S2CID 122622374
  20. a b c d Stroud, Rick (2009), The Book of the Moon, Walken and Company, tr. 24–27, ISBN 978-0-8027-1734-4, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019
  21. Mitler, H.E. (1975), "Formation of an iron-poor moon by partial capture, or: Yet another exotic theory of lunar origin", Icarus, 24 (2): 256–268, Bibcode:1975Icar...24..256M, doi:10.1016/0019-1035(75)90102-5
  22. Stevenson, D.J. (1987), "Origin of the moon–The collision hypothesis", Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 15 (1): 271–315, Bibcode:1987AREPS..15..271S, doi:10.1146/annurev.ea.15.050187.001415, S2CID 53516498, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  23. Taylor, G. Jeffrey (ngày 31 tháng 12 năm 1998), "Origin of the Earth and Moon", Planetary Science Research Discoveries, Hawai'i Institute of Geophysics and Planetology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 6 năm 2010, truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2010
  24. Asteroids Bear Scars of Moon's Violent Formation, ngày 16 tháng 4 năm 2015, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 10 năm 2016
  25. a b Richard Lovett (2011), "Early Earth may have had two moons : Nature News", Nature, doi:10.1038/news.2011.456, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 3 tháng 11 năm 2012, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2012
  26. Dana Mackenzie (21 tháng 7 2003), The Big Splat, or How Our Moon Came to Be, John Wiley & Sons, tr. 166–168, ISBN 978-0-471-48073-0, lưu trữ từ tài liệu gốc 17 tháng 6 2020, truy cập 11 tháng 6 2019
  27. Canup, R.; Asphaug, E. (2001), "Origin of the Moon in a giant impact near the end of Earth's formation", Nature, 412 (6848): 708–712, Bibcode:2001Natur.412..708C, doi:10.1038/35089010, PMID 11507633, S2CID 4413525
  28. "Earth-Asteroid Collision Formed Moon Later Than Thought", National Geographic, ngày 28 tháng 10 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 4 năm 2009, truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2012
  29. Kleine, Thorsten (2008), "2008 Pellas-Ryder Award for Mathieu Touboul" (PDF), Meteoritics and Planetary Science, 43 (S7): A11–A12, Bibcode:2008M&PS...43...11K, doi:10.1111/j.1945-5100.2008.tb00709.x, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 27 tháng 7 năm 2018, truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2020
  30. Touboul, M.; Kleine, T.; Bourdon, B.; Palme, H.; Wieler, R. (2007), "Late formation and prolonged differentiation of the Moon inferred from W isotopes in lunar metals", Nature, 450 (7173): 1206–1209, Bibcode:2007Natur.450.1206T, doi:10.1038/nature06428, PMID 18097403, S2CID 4416259
  31. "Flying Oceans of Magma Help Demystify the Moon's Creation", National Geographic, ngày 8 tháng 4 năm 2015, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 9 tháng 4 năm 2015
  32. Pahlevan, Kaveh; Stevenson, David J. (2007), "Equilibration in the aftermath of the lunar-forming giant impact", Earth and Planetary Science Letters, 262 (3–4): 438–449, arXiv:1012.5323, Bibcode:2007E&PSL.262..438P, doi:10.1016/j.epsl.2007.07.055, S2CID 53064179
  33. Nield, Ted (2009), "Moonwalk (summary of meeting at Meteoritical Society's 72nd Annual Meeting, Nancy, France)", Geoscientist, vol. 19, tr. 8, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 9 năm 2012
  34. a b Warren, P.H. (1985), "The magma ocean concept and lunar evolution", Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 13 (1): 201–240, Bibcode:1985AREPS..13..201W, doi:10.1146/annurev.ea.13.050185.001221
  35. Tonks, W. Brian; Melosh, H. Jay (1993), "Magma ocean formation due to giant impacts", Journal of Geophysical Research, 98 (E3): 5319–5333, Bibcode:1993JGR....98.5319T, doi:10.1029/92JE02726
  36. Daniel Clery (ngày 11 tháng 10 năm 2013), "Impact Theory Gets Whacked", Science, 342 (6155): 183–185, Bibcode:2013Sci...342..183C, doi:10.1126/science.342.6155.183, PMID 24115419
  37. Wiechert, U.; et al. (tháng 10 năm 2001), "Oxygen Isotopes and the Moon-Forming Giant Impact", Science, 294 (12): 345–348, Bibcode:2001Sci...294..345W, doi:10.1126/science.1063037, PMID 11598294, S2CID 29835446, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 4 năm 2009, truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2009
  38. Pahlevan, Kaveh; Stevenson, David (tháng 10 năm 2007), "Equilibration in the Aftermath of the Lunar-forming Giant Impact", Earth and Planetary Science Letters, 262 (3–4): 438–449, arXiv:1012.5323, Bibcode:2007E&PSL.262..438P, doi:10.1016/j.epsl.2007.07.055, S2CID 53064179
  39. Titanium Paternity Test Says Earth is the Moon's Only Parent (University of Chicago), Astrobio.net, ngày 5 tháng 4 năm 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 8 năm 2012, truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2013
  40. Taylor, Stuart R. (1975), Lunar Science: a Post-Apollo View, Oxford: Pergamon Press, tr. 64, ISBN 978-0-08-018274-2
  41. Ian Garrick-Bethell; Viranga Perera; Francis Nimmo; Maria T. Zuber (2014), "The tidal-rotational shape of the Moon and evidence for polar wander" (PDF), Nature, 512 (7513): 181–184, Bibcode:2014Natur.512..181G, doi:10.1038/nature13639, PMID 25079322, S2CID 4452886, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020
  42. Brown, D.; Anderson, J. (ngày 6 tháng 1 năm 2011), "NASA Research Team Reveals Moon Has Earth-Like Core", NASA, NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 1 năm 2012
  43. Weber, R.C.; Lin, P.-Y.; Garnero, E.J.; Williams, Q.; Lognonne, P. (ngày 21 tháng 1 năm 2011), "Seismic Detection of the Lunar Core" (PDF), Science, 331 (6015): 309–312, Bibcode:2011Sci...331..309W, doi:10.1126/science.1199375, PMID 21212323, S2CID 206530647, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 15 tháng 10 năm 2015, truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2017
  44. Nemchin, A.; Timms, N.; Pidgeon, R.; Geisler, T.; Reddy, S.; Meyer, C. (2009), "Timing of crystallization of the lunar magma ocean constrained by the oldest zircon", Nature Geoscience, 2 (2): 133–136, Bibcode:2009NatGe...2..133N, doi:10.1038/ngeo417, hdl:20.500.11937/44375
  45. a b Shearer, Charles K.; et al. (2006), "Thermal and magmatic evolution of the Moon", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 60 (1): 365–518, Bibcode:2006RvMG...60..365S, doi:10.2138/rmg.2006.60.4, S2CID 129184748, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  46. Schubert, J. (2004), "Interior composition, structure, and dynamics of the Galilean satellites.", trong F. Bagenal; et al. (bt.), Jupiter: The Planet, Satellites, and Magnetosphere, Cambridge University Press, tr. 281–306, ISBN 978-0-521-81808-7
  47. Williams, J.G.; Turyshev, S.G.; Boggs, D.H.; Ratcliff, J.T. (2006), "Lunar laser ranging science: Gravitational physics and lunar interior and geodesy", Advances in Space Research, 37 (1): 67–71, arXiv:gr-qc/0412049, Bibcode:2006AdSpR..37...67W, doi:10.1016/j.asr.2005.05.013, S2CID 14801321
  48. Spudis, Paul D.; Cook, A.; Robinson, M.; Bussey, B.; Fessler, B. (tháng 1 năm 1998), "Topography of the South Polar Region from Clementine Stereo Imaging", Workshop on New Views of the Moon: Integrated Remotely Sensed, Geophysical, and Sample Datasets: 69, Bibcode:1998nvmi.conf...69S
  49. a b c Spudis, Paul D.; Reisse, Robert A.; Gillis, Jeffrey J. (1994), "Ancient Multiring Basins on the Moon Revealed by Clementine Laser Altimetry", Science, 266 (5192): 1848–1851, Bibcode:1994Sci...266.1848S, doi:10.1126/science.266.5192.1848, PMID 17737079, S2CID 41861312
  50. Pieters, C.M.; Tompkins, S.; Head, J.W.; Hess, P.C. (1997), "Mineralogy of the Mafic Anomaly in the South Pole‐Aitken Basin: Implications for excavation of the lunar mantle", Geophysical Research Letters, 24 (15): 1903–1906, Bibcode:1997GeoRL..24.1903P, doi:10.1029/97GL01718, hdl:2060/19980018038
  51. Taylor, G.J. (ngày 17 tháng 7 năm 1998), "The Biggest Hole in the Solar System", Planetary Science Research Discoveries: 20, Bibcode:1998psrd.reptE..20T, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 8 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  52. Schultz, P.H. (tháng 3 năm 1997), "Forming the south-pole Aitken basin – The extreme games", Conference Paper, 28th Annual Lunar and Planetary Science Conference, 28: 1259, Bibcode:1997LPI....28.1259S
  53. NASA's LRO Reveals 'Incredible Shrinking Moon', NASA, ngày 19 tháng 8 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 8 năm 2010
  54. Watters, Thomas R.; Weber, Renee C.; Collins, Geoffrey C.; Howley, Ian J.; Schmerr, Nicholas C.; Johnson, Catherine L. (tháng 6 năm 2019), "Shallow seismic activity and young thrust faults on the Moon", Nature Geoscience (xuất bản ngày 13 tháng 5 năm 2019), 12 (6): 411–417, Bibcode:2019NatGe..12..411W, doi:10.1038/s41561-019-0362-2, ISSN 1752-0894, S2CID 182137223
  55. Wlasuk, Peter (2000), Observing the Moon, Springer, tr. 19, ISBN 978-1-85233-193-1
  56. Norman, M. (ngày 21 tháng 4 năm 2004), "The Oldest Moon Rocks", Planetary Science Research Discoveries, Hawai'i Institute of Geophysics and Planetology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 18 tháng 4 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  57. Head, L.W.J.W. (2003), "Lunar Gruithuisen and Mairan domes: Rheology and mode of emplacement", Journal of Geophysical Research, 108 (E2): 5012, Bibcode:2003JGRE..108.5012W, CiteSeerX 10.1.1.654.9619, doi:10.1029/2002JE001909, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 3 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  58. a b c d Spudis, P.D. (2004), Moon, World Book Online Reference Center, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 3 tháng 7 năm 2013, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  59. Gillis, J.J.; Spudis, P.D. (1996), "The Composition and Geologic Setting of Lunar Far Side Maria", Lunar and Planetary Science, 27: 413, Bibcode:1996LPI....27..413G
  60. Lawrence; D.J.; et al. (ngày 11 tháng 8 năm 1998), "Global Elemental Maps of the Moon: The Lunar Prospector Gamma-Ray Spectrometer", Science, 281 (5382): 1484–1489, Bibcode:1998Sci...281.1484L, doi:10.1126/science.281.5382.1484, PMID 9727970, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 5 năm 2009, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2009 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  61. Taylor, G.J. (ngày 31 tháng 8 năm 2000), "A New Moon for the Twenty-First Century", Planetary Science Research Discoveries: 41, Bibcode:2000psrd.reptE..41T, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 1 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  62. a b Papike, J.; Ryder, G.; Shearer, C. (1998), "Lunar Samples", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 36: 5.1–5.234
  63. a b Hiesinger, H.; Head, J.W.; Wolf, U.; Jaumanm, R.; Neukum, G. (2003), "Ages and stratigraphy of mare basalts in Oceanus Procellarum, Mare Numbium, Mare Cognitum, and Mare Insularum", Journal of Geophysical Research, 108 (E7): 1029, Bibcode:2003JGRE..108.5065H, doi:10.1029/2002JE001985, S2CID 9570915, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  64. a b Phil Berardelli (ngày 9 tháng 11 năm 2006), "Long Live the Moon!", Science, lưu trữ từ nguyên tác ngày 18 tháng 10 năm 2014, truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014
  65. Jason Major (ngày 14 tháng 10 năm 2014), Volcanoes Erupted 'Recently' on the Moon, Discovery News, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 10 năm 2014
  66. NASA Mission Finds Widespread Evidence of Young Lunar Volcanism, NASA, ngày 12 tháng 10 năm 2014, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015
  67. Eric Hand (ngày 12 tháng 10 năm 2014), "Recent volcanic eruptions on the moon", Science, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 10 năm 2014
  68. Braden, S.E.; Stopar, J.D.; Robinson, M.S.; Lawrence, S.J.; van der Bogert, C.H.; Hiesinger, H. (2014), "Evidence for basaltic volcanism on the Moon within the past 100 million years", Nature Geoscience, 7 (11): 787–791, Bibcode:2014NatGe...7..787B, doi:10.1038/ngeo2252
  69. Srivastava, N.; Gupta, R.P. (2013), "Young viscous flows in the Lowell crater of Orientale basin, Moon: Impact melts or volcanic eruptions?", Planetary and Space Science, 87: 37–45, Bibcode:2013P&SS...87...37S, doi:10.1016/j.pss.2013.09.001
  70. Gupta, R.P.; Srivastava, N.; Tiwari, R.K. (2014), "Evidences of relatively new volcanic flows on the Moon", Current Science, 107 (3): 454–460
  71. Whitten, J.; et al. (2011), "Lunar mare deposits associated with the Orientale impact basin: New insights into mineralogy, history, mode of emplacement, and relation to Orientale Basin evolution from Moon Mineralogy Mapper (M3) data from Chandrayaan-1", Journal of Geophysical Research, 116: E00G09, Bibcode:2011JGRE..116.0G09W, doi:10.1029/2010JE003736, S2CID 7234547, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  72. Cho, Y.; et al. (2012), "Young mare volcanism in the Orientale region contemporary with the Procellarum KREEP Terrane (PKT) volcanism peak period 2 b.y. ago", Geophysical Research Letters, 39 (11): L11203, Bibcode:2012GeoRL..3911203C, doi:10.1029/2012GL051838
  73. Munsell, K. (ngày 4 tháng 12 năm 2006), "Majestic Mountains", Solar System Exploration, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 9 năm 2008, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  74. Was our two-faced moon in a small collision?, Theconversation.edu.au, lưu trữ từ nguyên tác ngày 30 tháng 1 năm 2013, truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2012
  75. Melosh, H. J. (1989), Impact cratering: A geologic process, Oxford University Press, ISBN 978-0-19-504284-9
  76. "Moon Facts", SMART-1, European Space Agency, 2010, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2010
  77. a b Wilhelms, Don (1987), "Relative Ages" (PDF), Geologic History of the Moon, U.S. Geological Survey, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 11 tháng 6 năm 2010, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010
  78. Hartmann, William K.; Quantin, Cathy; Mangold, Nicolas (2007), "Possible long-term decline in impact rates: 2. Lunar impact-melt data regarding impact history", Icarus, 186 (1): 11–23, Bibcode:2007Icar..186...11H, doi:10.1016/j.icarus.2006.09.009
  79. The Smell of Moondust, NASA, ngày 30 tháng 1 năm 2006, lưu trữ từ nguyên tác ngày 8 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2010
  80. Heiken, G. (1991), Vaniman, D.; French, B. (bt.), Lunar Sourcebook, a user's guide to the Moon, New York: Cambridge University Press, tr. 736, ISBN 978-0-521-33444-0, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2019
  81. Rasmussen, K.L.; Warren, P.H. (1985), "Megaregolith thickness, heat flow, and the bulk composition of the Moon", Nature, 313 (5998): 121–124, Bibcode:1985Natur.313..121R, doi:10.1038/313121a0, S2CID 4245137
  82. a b Boyle, Rebecca, The moon has hundreds more craters than we thought, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 13 tháng 10 năm 2016
  83. Speyerer, Emerson J.; Povilaitis, Reinhold Z.; Robinson, Mark S.; Thomas, Peter C.; Wagner, Robert V. (ngày 13 tháng 10 năm 2016), "Quantifying crater production and regolith overturn on the Moon with temporal imaging", Nature, 538 (7624): 215–218, Bibcode:2016Natur.538..215S, doi:10.1038/nature19829, PMID 27734864, S2CID 4443574
  84. Margot, J.L.; Campbell, D.B.; Jurgens, R.F.; Slade, M.A. (ngày 4 tháng 6 năm 1999), "Topography of the Lunar Poles from Radar Interferometry: A Survey of Cold Trap Locations" (PDF), Science, 284 (5420): 1658–1660, Bibcode:1999Sci...284.1658M, CiteSeerX 10.1.1.485.312, doi:10.1126/science.284.5420.1658, PMID 10356393, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 11 tháng 8 năm 2017, truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017
  85. Ward, William R. (ngày 1 tháng 8 năm 1975), "Past Orientation of the Lunar Spin Axis", Science, 189 (4200): 377–379, Bibcode:1975Sci...189..377W, doi:10.1126/science.189.4200.377, PMID 17840827, S2CID 21185695
  86. Martel, L.M.V. (ngày 4 tháng 6 năm 2003), "The Moon's Dark, Icy Poles", Planetary Science Research Discoveries: 73, Bibcode:2003psrd.reptE..73M, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 3 năm 2012, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  87. Seedhouse, Erik (2009), Lunar Outpost: The Challenges of Establishing a Human Settlement on the Moon, Springer-Praxis Books in Space Exploration, Germany: Springer Praxis, tr. 136, ISBN 978-0-387-09746-6
  88. Coulter, Dauna (ngày 18 tháng 3 năm 2010), The Multiplying Mystery of Moonwater, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 13 tháng 12 năm 2012, truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010
  89. Spudis, P. (ngày 6 tháng 11 năm 2006), Ice on the Moon, The Space Review, lưu trữ từ nguyên tác ngày 22 tháng 2 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  90. Feldman, W.C.; S. Maurice; A.B. Binder; B.L. Barraclough; R.C. Elphic; D.J. Lawrence (1998), "Fluxes of Fast and Epithermal Neutrons from Lunar Prospector: Evidence for Water Ice at the Lunar Poles" (PDF), Science, 281 (5382): 1496–1500, Bibcode:1998Sci...281.1496F, doi:10.1126/science.281.5382.1496, PMID 9727973, S2CID 9005608, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 2 năm 2019, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2020
  91. Saal, Alberto E.; Hauri, Erik H.; Cascio, Mauro L.; van Orman, James A.; Rutherford, Malcolm C.; Cooper, Reid F. (2008), "Volatile content of lunar volcanic glasses and the presence of water in the Moon's interior", Nature, 454 (7201): 192–195, Bibcode:2008Natur.454..192S, doi:10.1038/nature07047, PMID 18615079, S2CID 4394004
  92. Muller, P.; Sjogren, W. (1968), "Mascons: lunar mass concentrations", Science, 161 (3842): 680–684, Bibcode:1968Sci...161..680M, doi:10.1126/science.161.3842.680, PMID 17801458, S2CID 40110502
  93. Richard A. Kerr (ngày 12 tháng 4 năm 2013), "The Mystery of Our Moon's Gravitational Bumps Solved?", Science, 340 (6129): 138–139, doi:10.1126/science.340.6129.138-a, PMID 23580504
  94. Konopliv, A.; Asmar, S.; Carranza, E.; Sjogren, W.; Yuan, D. (2001), "Recent gravity models as a result of the Lunar Prospector mission" (PDF), Icarus, 50 (1): 1–18, Bibcode:2001Icar..150....1K, CiteSeerX 10.1.1.18.1930, doi:10.1006/icar.2000.6573, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 13 tháng 11 năm 2004
  95. a b c Mighani, S.; Wang, H.; Shuster, D.L.; Borlina, C.S.; Nichols, C.I.O.; Weiss, B.P. (2020), "The end of the lunar dynamo", Science Advances, 6 (1): eaax0883, Bibcode:2020SciA....6..883M, doi:10.1126/sciadv.aax0883, PMC 6938704, PMID 31911941
  96. Garrick-Bethell, Ian; Weiss, iBenjamin P.; Shuster, David L.; Buz, Jennifer (2009), "Early Lunar Magnetism", Science, 323 (5912): 356–359, Bibcode:2009Sci...323..356G, doi:10.1126/science.1166804, PMID 19150839, S2CID 23227936, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  97. Magnetometer / Electron Reflectometer Results, Lunar Prospector (NASA), 2001, lưu trữ từ nguyên tác ngày 27 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  98. Hood, L.L.; Huang, Z. (1991), "Formation of magnetic anomalies antipodal to lunar impact basins: Two-dimensional model calculations", Journal of Geophysical Research, 96 (B6): 9837–9846, Bibcode:1991JGR....96.9837H, doi:10.1029/91JB00308
  99. Globus, Ruth (1977), "Chapter 5, Appendix J: Impact Upon Lunar Atmosphere", trong Richard D. Johnson & Charles Holbrow (bt.), Space Settlements: A Design Study, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 31 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  100. Crotts, Arlin P.S. (2008), "Lunar Outgassing, Transient Phenomena and The Return to The Moon, I: Existing Data" (PDF), The Astrophysical Journal, 687 (1): 692–705, arXiv:0706.3949, Bibcode:2008ApJ...687..692C, doi:10.1086/591634, S2CID 16821394, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 20 tháng 2 năm 2009, truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2009
  101. Steigerwald, William (ngày 17 tháng 8 năm 2015), "NASA's LADEE Spacecraft Finds Neon in Lunar Atmosphere", NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2015, truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2015
  102. a b c Stern, S.A. (1999), "The Lunar atmosphere: History, status, current problems, and context", Reviews of Geophysics, 37 (4): 453–491, Bibcode:1999RvGeo..37..453S, CiteSeerX 10.1.1.21.9994, doi:10.1029/1999RG900005
  103. Lawson, S.; Feldman, W.; Lawrence, D.; Moore, K.; Elphic, R.; Belian, R. (2005), "Recent outgassing from the lunar surface: the Lunar Prospector alpha particle spectrometer", Journal of Geophysical Research, 110 (E9): 1029, Bibcode:2005JGRE..11009009L, doi:10.1029/2005JE002433
  104. R. Sridharan; S.M. Ahmed; Tirtha Pratim Dasa; P. Sreelathaa; P. Pradeepkumara; Neha Naika; Gogulapati Supriya (2010), "'Direct' evidence for water (H2O) in the sunlit lunar ambience from CHACE on MIP of Chandrayaan I", Planetary and Space Science, 58 (6): 947–950, Bibcode:2010P&SS...58..947S, doi:10.1016/j.pss.2010.02.013
  105. Space Topics: Pluto and Charon, The Planetary Society, lưu trữ từ nguyên tác ngày 18 tháng 2 năm 2012, truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010
  106. Phil Plait, Dark Side of the Moon, Bad Astronomy: Misconceptions, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010
  107. Alexander, M.E. (1973), "The Weak Friction Approximation and Tidal Evolution in Close Binary Systems", Astrophysics and Space Science, 23 (2): 459–508, Bibcode:1973Ap&SS..23..459A, doi:10.1007/BF00645172, S2CID 122918899
  108. "Moon used to spin 'on different axis'", BBC News, BBC, ngày 23 tháng 3 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2016
  109. Luciuk, Mike, How Bright is the Moon?, Amateur Astronomers, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 12 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2010
  110. Hershenson, Maurice (1989), The Moon illusion, Routledge, tr. 5, ISBN 978-0-8058-0121-7
  111. Spekkens, K. (ngày 18 tháng 10 năm 2002), Is the Moon seen as a crescent (and not a "boat") all over the world?, Curious About Astronomy, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 16 tháng 10 năm 2015, truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015
  112. "Moonlight helps plankton escape predators during Arctic winters", New Scientist, ngày 16 tháng 1 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016
  113. Supermoon November 2016, Space.com, ngày 13 tháng 11 năm 2016, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 11 năm 2016, truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016
  114. Tony Phillips (ngày 16 tháng 3 năm 2011), Super Full Moon, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 7 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  115. Richard K. De Atley (ngày 18 tháng 3 năm 2011), "Full moon tonight is as close as it gets", The Press-Enterprise, lưu trữ từ nguyên tác ngày 22 tháng 3 năm 2011, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  116. "'Super moon' to reach closest point for almost 20 years", The Guardian, ngày 19 tháng 3 năm 2011, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 25 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011
  117. Georgia State University, Dept. of Physics (Astronomy), "Perceived Brightness", Brightnes and Night/Day Sensitivity, Georgia State University, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 2 năm 2014, truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2014
  118. Lutron, "Measured light vs. perceived light" (PDF), From IES Lighting Handbook 2000, 27-4, Lutron, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 2 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2014
  119. Walker, John (tháng 5 năm 1997), "Inconstant Moon", Earth and Moon Viewer, Fourth paragraph of "How Bright the Moonlight": Fourmilab, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2014, 14% [...] due to the logarithmic response of the human eye.
  120. Taylor, G.J. (ngày 8 tháng 11 năm 2006), "Recent Gas Escape from the Moon", Planetary Science Research Discoveries: 110, Bibcode:2006psrd.reptE.110T, lưu trữ từ nguyên tác ngày 4 tháng 3 năm 2007, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2007
  121. Schultz, P.H.; Staid, M.I.; Pieters, C.M. (2006), "Lunar activity from recent gas release", Nature, 444 (7116): 184–186, Bibcode:2006Natur.444..184S, doi:10.1038/nature05303, PMID 17093445, S2CID 7679109
  122. 22 Degree Halo: a ring of light 22 degrees from the sun or moon, Department of Atmospheric Sciences, University of Illinois at Urbana–Champaign, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 5 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2010
  123. Phillips, Tony (ngày 12 tháng 3 năm 2007), "Stereo Eclipse", Science@NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 10 tháng 6 năm 2008, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  124. Espenak, F. (2000), Solar Eclipses for Beginners, MrEclip]], lưu trữ từ nguyên tác ngày 24 tháng 5 năm 2015, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  125. Lambeck, K. (1977), "Tidal Dissipation in the Oceans: Astronomical, Geophysical and Oceanographic Consequences", Philosophical Transactions of the Royal Society A, 287 (1347): 545–594, Bibcode:1977RSPTA.287..545L, doi:10.1098/rsta.1977.0159, S2CID 122853694
  126. Walker, John (ngày 10 tháng 7 năm 2004), Moon near Perigee, Earth near Aphelion, Fourmilab, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 12 năm 2013, truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2013
  127. Thieman, J.; Keating, S. (ngày 2 tháng 5 năm 2006), Eclipse 99, Frequently Asked Questions, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 11 tháng 2 năm 2007, truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2007
  128. Espenak, F., Saros Cycle, NASA, lưu trữ từ nguyên tác ngày 24 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  129. Guthrie, D.V. (1947), "The Square Degree as a Unit of Celestial Area", Popular Astronomy, vol. 55, tr. 200–203, Bibcode:1947PA.....55..200G
  130. Total Lunar Occultations, Royal Astronomical Society of New Zealand, lưu trữ từ nguyên tác ngày 23 tháng 2 năm 2010, truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010
  131. Zak, Anatoly (2009), Russia's unmanned missions toward the Moon, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 4 năm 2010, truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2010
  132. Rocks and Soils from the Moon, NASA, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 5 năm 2010, truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Pieters2009” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Planetary” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Colaprete” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Colaprete2010” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “hauri” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “SolarViews” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “bbc” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Beletskii2” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “touma1994” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Sarma-Ast-Ind” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Hall1977” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “CNN” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “xinhua_20090301” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unoosa_q6” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unoosa_q4” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unoosa_q5” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unoosa_moon” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unoosa_q7” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “iisl_2004” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “iisl_2009” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Marshack” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “barnhart-and-germania” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “sciam” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “MartensKelly1988” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “RottonKelly1985” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “FosterRoenneberg2008” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “kelly” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Needham1986” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Nguồn tài liệu

Xem thêm

Liên kết ngoài