|
|
(Không hiển thị phiên bản của cùng người dùng ở giữa) |
Dòng 1: |
Dòng 1: |
− | {{#switch: {{NAMESPACENUMBER}} | 0 = <div style="height:10px;">[[Thể loại:Mục từ cần bình duyệt]]</div>
| + | <indicator name="mới">[[File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này cần được bình duyệt]]</indicator> |
− | <center>[[File:UnderCon icon.svg|frameless|30px|link=]] ''Mục từ này chưa được [[BKTT:Tiêu chuẩn mục từ|bình duyệt]] và có thể cần sự [[Trợ giúp:Hướng dẫn|giúp đỡ của bạn]] để hoàn thiện.''</center> |}}
| + | '''Đức Quốc xã''' hay '''Phát xít Đức''' là những tên tiếng Việt thường dùng để chỉ nước Đức thời kỳ 1933–1945. Cai trị đất nước này khi ấy là chế độ [[độc tài]] của [[Adolf Hitler]] và [[Đảng Quốc xã]] (NSDAP). Dưới sự thống trị của Hitler, Đức đã nhanh chóng chuyển đổi thành một quốc gia [[chủ nghĩa toàn trị|toàn trị]] nơi mà chính quyền kiểm soát gần như mọi mặt của đời sống. Tên gọi chính thức của quốc gia này là '''Đế chế Đức''' (''Deutsches Reich'') từ 1933 đến 1943 và '''Đế chế Đại Đức''' (''Großdeutsches Reich'') từ 1943 đến 1945. Các tên gọi thông dụng khác (trong tiếng Đức) là ''Drittes Reich'' (Đệ Tam Đế chế hay Đế chế thứ Ba), ''Zeit des Nationalsozialismus'' (Thời kỳ Chủ nghĩa quốc gia xã hội, viết tắt là ''NS-Zeit''), hay ''Tausendjähriges Reich'' (Đế chế Ngàn Năm) theo cách gọi của Hitler và những người quốc xã. Đức Quốc xã chấm dứt tồn tại vào tháng 5 năm 1945 sau khi bại trận trước phe [[Khối Đồng minh thời thế chiến II|Đồng minh]], sự kiện đánh dấu [[Kết cục của thế chiến II ở châu Âu|hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu]]. |
− | <!-- BẮT ĐẦU NỘI DUNG MỤC TỪ Ở DƯỚI ĐÂY. XIN ĐỪNG SỬA ĐỔI GÌ TỪ DÒNG NÀY TRỞ LÊN TRÊN, TRƯỚC KHI MỤC TỪ ĐƯỢC BÌNH DUYỆT -->
| |
− | {{Infobox former country
| |
− | |conventional_long_name = Đế chế Đức {{small|{{nobold|(1933–1943)}}<br />''Deutsches Reich''}}<hr />Đế chế Đại Đức {{small|{{nobold|(1943–1945)}}<br />''Großdeutsches Reich''}}
| |
− | |era = [[Thời kỳ giữa hai cuộc chiến|Giữa hai thế chiến]]{{*}}[[Thế chiến II]]
| |
− | |status =
| |
− | |status_text =
| |
− | |government_type = [[Chế độ độc tài]], [[quốc gia đơn đảng|độc đảng]], [[chủ nghĩa toàn trị|toàn trị]]
| |
− | <!-- Rise and fall, events, years and dates -->
| |
− | |event_start = [[Machtergreifung|Giành chính quyền]]
| |
− | |date_start = 30 tháng 1 năm
| |
− | |year_start = 1933
| |
− | |event_end = [[Chính phủ Flensburg#Giải thể|Giải thể lần cuối cùng]]
| |
− | |date_end = 23 tháng 5 năm | |
− | |year_end = 1945 | |
− | |event1 = [[Luật Trao quyền 1933|Luật Trao quyền]]
| |
− | |date_event1 = 23 tháng 3 năm 1933
| |
− | |event2 = [[Anschluss]]
| |
− | |date_event2 = 12 tháng 3 năm 1938
| |
− | |event3 = [[Thế chiến II]]
| |
− | |date_event3 = 1 tháng 9 năm 1939
| |
− | |event4 = [[Hitler qua đời]]
| |
− | |date_event4 = 30 tháng 4 năm 1945
| |
− | |event5 = [[Văn kiện đầu hàng của Đức|Đầu hàng]]
| |
− | |date_event5 = 8 tháng 5 năm 1945
| |
− | <!-- Flag navigation: Preceding and succeeding entities p1 to p5 and s1 to s5 -->
| |
− | |p1 = Cộng hòa Weimar
| |
− | |flag_p1 = Flag of Germany (3-2 aspect ratio).svg
| |
− | |p2 = Territory of the Saar Basin{{!}}Vùng Saar
| |
− | |flag_p2 = Flag of Saar 1920-1935.svg
| |
− | <!-- Only include territories fully or in-part annexed into Germany proper, not mere puppet states or other occupied territories -->
| |
− | |p3 = Liên bang Áo{{!}}Áo
| |
− | |flag_p3 = Flag of Austria.svg
| |
− | |p4 = Đệ Nhất Cộng hòa Tiệp Khắc{{!}}Tiệp Khắc
| |
− | |flag_p4 = Flag of the Czech Republic.svg
| |
− | |p5 = Lithuania
| |
− | |flag_p5 = Flag of Lithuania (1918–1940).svg
| |
− | |p6 = Thành phố Tự do Danzig{{!}}Danzig
| |
− | |flag_p6 = Flag of the Free City of Danzig.svg
| |
− | |p7 = Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan{{!}}Ba Lan
| |
− | |flag_p7 = Flag of Poland (1928–1980).svg
| |
− | |p8 = Vương quốc Nam Tư{{!}}Nam Tư
| |
− | |flag_p8 = Flag of the Kingdom of Yugoslavia.svg
| |
− | |p9 = Đệ Tam Cộng hòa Pháp{{!}}Pháp
| |
− | |flag_p9 = Flag of France (1794–1958).svg
| |
− | |p10 = Luxembourg
| |
− | |flag_p10 = Flag of Luxembourg.svg
| |
− | |s1 = Đức bị Đồng minh chiếm đóng{{!}}Đức bị chiếm đóng
| |
− | |flag_s1 = Flag of Germany (1946-1949).svg
| |
− | |border_s1 = no
| |
− | |s2 = Áo bị Đồng minh chiếm đóng{{!}}Áo bị chiếm đóng
| |
− | |flag_s2 = Flag of Austria.svg
| |
− | |s3 = Chính phủ Lâm thời Quốc gia Thống nhất{{!}}Ba Lan
| |
− | |flag_s3 = Flag of Poland (1928–1980).svg
| |
− | |s4 = Cộng hòa Tiệp Khắc (1945–48){{!}}Tiệp Khắc
| |
− | |flag_s4 = Flag of the Czech Republic.svg
| |
− | |s5 = Liên bang Dân chủ Nam Tư{{!}}Nam Tư
| |
− | |flag_s5 = Flag of the Democratic Federal Yugoslavia.svg
| |
− | |s6 = Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Pháp{{!}}Pháp
| |
− | |flag_s6 = Flag of France (1794–1958).svg
| |
− | |s7 = Luxembourg
| |
− | |flag_s7 = Flag of Luxembourg.svg
| |
− | |s8 = Liên Xô
| |
− | |flag_s8 = Flag of the Soviet Union (1936-1955).svg
| |
− | |image_flag = Flag of Germany (1935–1945).svg<!-- Do not replace with NSDAP flag, as the two are not identical. National flag is off-center, NSDAP flag is not -->
| |
− | |flag_alt = <!-- Alt text for flag -->
| |
− | |image_flag2 = <!-- Second flag -->
| |
− | |flag_alt2 = <!-- Alt text for second flag -->
| |
− | |flag = <!-- Link target under flag image. Default: Flag of {{{common_name}}} -->
| |
− | |flag2 = <!-- Link target under flag2 image. Default: Flag of {{{common_name}}} -->
| |
− | |flag_type = [[Quốc kỳ Đức Quốc xã|Quốc kỳ]]<br>(1935–1945)
| |
− | |flag2_type = <!-- Displayed text for link under flag2. Default "Flag" -->
| |
− | |image_coat = Reichsadler.svg
| |
− | |coa_size = 120px
| |
− | |coat_alt = <!-- Alt text for coat of arms -->
| |
− | |symbol_type = [[Quốc huy Đức#Đức Quốc xã|Quốc huy]]<br>(1935–1945)
| |
− | |symbol_type_article = <!-- Link target under symbol image. Default: Coat of arms of {{{common_name}}} -->
| |
− | |image_map = Greater German Reich (1942).svg
| |
− | |image_map_alt =
| |
− | |image_map_caption = Diện tích lãnh thổ lớn nhất mà Đức kiểm soát trong chiến tranh thế giới thứ Hai (cuối năm 1942)
| |
− | {{parabr}}{{plainlist|style=padding-left: 0.6em; text-align: left;|
| |
− | * {{legend2|#008000|Đế chế Đức{{efn|name=annexed}} }}
| |
− | * {{legend2|#55c255|[[Reichskommissariat|Lãnh thổ chiếm đóng dân quản]]}}
| |
− | * {{legend2|#a5dfa5|[[Chính phủ quân sự (Đức Quốc xã)|Lãnh thổ chiếm đóng quân quản]]}}
| |
− | }}{{parabr}}
| |
− | |capital = [[Berlin]]
| |
− | |largest_city = Berlin
| |
− | |coordinates =
| |
− | |anthems = <br>''[[Das Lied der Deutschen]]''<br />("Bài ca của người Đức")<br /> <div style="display:inline-block;margin-top:0.4em;">[[File:German national anthem performed by the US Navy Band.ogg|center]]</div><br />''[[Horst-Wessel-Lied]]''{{hsp}}{{efn|name=Wessel}}<br />("Bài ca Horst Wessel")<br /> <div style="display:inline-block;margin-top:0.4em;">[[File:Песня Хорста Весселя.ogg|center]]</div>
| |
− | |motto =
| |
− | |common_languages = [[Tiếng Đức]]
| |
− | |religion = {{unbulleted list|[[Tin lành]] 54%|[[Giáo hội Công giáo|Công giáo]] 40%|[[Gottgläubig]] 3,5%|[[Không tôn giáo]] 1,5%|Khác 1%}}{{sfn|Ericksen|Heschel|1999|p=10}}
| |
− | |demonym = Người Đức
| |
− | |currency = [[Reichsmark]] (ℛℳ)
| |
− | <!-- Titles and names of the first and last leaders and their deputies -->
| |
− | |leader1 = [[Paul von Hindenburg]]{{efn|là [[Tổng thống Đức (1919–1945)|Tổng thống]]|name="President"}}
| |
− | |leader2 = [[Adolf Hitler]]{{efn|là [[Führer]]|name="Fuhrer"}}
| |
− | |leader3 = [[Karl Dönitz]]{{efn|là [[Tổng thống Đức (1919–1945)|Tổng thống]]|name="President"}}
| |
− | |leader4 =
| |
− | |year_leader1 = 1933–1934
| |
− | |year_leader2 = 1934–1945
| |
− | |year_leader3 = 1945
| |
− | |year_leader4 = 1945
| |
− | |title_leader = [[Danh sách nguyên thủ quốc gia Đức#Tổng thống (1919–1945)|Nguyên thủ quốc gia]]
| |
− | |deputy1 = [[Adolf Hitler]]
| |
− | |deputy2 = [[Joseph Goebbels]]
| |
− | |deputy3 = [[Lutz Graf Schwerin von Krosigk|L. G. S. von Krosigk]]
| |
− | |year_deputy1 = 1933–1945
| |
− | |year_deputy2 = 1945
| |
− | |year_deputy3 = 1945
| |
− | |title_deputy = [[Danh sách Thủ tướng Đức#Đức Quốc xã (Reichskanzler) (1933–1945)|Thủ tướng]]
| |
− | <!-- Legislature -->
| |
− | |legislature = [[Reichstag (Đức Quốc xã)|Reichstag]]
| |
− | |house1 = {{nowrap|[[Reichsrat (Đức)|Reichsrat]] (đến năm 1934)}}
| |
− | |type_house1 = Hội đồng bang
| |
− | |house2 = <!-- Name of second chamber -->
| |
− | |type_house2 = <!-- Default: "Lower house" -->
| |
− | <!-- Area and population of a given year -->
| |
− | |stat_year1 = 1939
| |
− | |stat_area1 = 633.786
| |
− | |ref_area1 = {{efn|name=statistics}}
| |
− | |stat_pop1 = <!-- Population (w/o commas or spaces), population density is calculated if area is also given -->
| |
− | |stat_year2 = [[Census in Germany#German Empire, Weimar Republic and Nazi Germany (1871–1945)|1939]]
| |
− | |stat_area2 =
| |
− | |stat_pop2 = 79.375.281
| |
− | |ref_pop2 = {{sfn|1939 Census}}
| |
− | |stat_year3 = 1940{{sfn|Soldaten-Atlas|1941|p=8}}{{efn|name=annexed}}
| |
− | |stat_area3 = 823.505
| |
− | |stat_pop3 = 109.518.183
| |
− | |today = <!-- Overlapping modern countries, if no more than four of these --><!-- Do NOT add flags, per MOS:INFOBOXFLAG -->
| |
− | |area_km2 =
| |
− | |area_rank =
| |
− | |GDP_PPP =
| |
− | |GDP_PPP_year =
| |
− | |HDI =
| |
− | |HDI_year =
| |
− | }}
| |
− | '''Đức Quốc xã''' hay '''Phát xít Đức'''{{efn|name=phát xít}} là những tên tiếng Việt thường dùng để chỉ nước Đức thời kỳ 1933–1945. Cai trị đất nước này khi ấy là chế độ [[độc tài]] của [[Adolf Hitler]] và [[Đảng Quốc xã]] (NSDAP). Dưới sự thống trị của Hitler, Đức đã nhanh chóng chuyển đổi thành một quốc gia [[chủ nghĩa toàn trị|toàn trị]] nơi mà chính quyền kiểm soát gần như mọi mặt của đời sống. Tên gọi chính thức của quốc gia này là '''Đế chế Đức''' (''Deutsches Reich'') từ 1933 đến 1943 và '''Đế chế Đại Đức''' (''Großdeutsches Reich'') từ 1943 đến 1945. Các tên gọi thông dụng khác (trong tiếng Đức) là ''Drittes Reich'' (Đệ Tam Đế chế hay Đế chế thứ Ba), ''Zeit des Nationalsozialismus'' (Thời kỳ Chủ nghĩa quốc gia xã hội, viết tắt là ''NS-Zeit''), hay ''Tausendjähriges Reich'' (Đế chế Ngàn Năm) theo cách gọi của Hitler và những người quốc xã. Đức Quốc xã chấm dứt tồn tại vào tháng 5 năm 1945 sau khi bại trận trước phe [[Khối Đồng minh thời thế chiến II|Đồng minh]], sự kiện đánh dấu [[Kết cục của thế chiến II ở châu Âu|hồi kết cho chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu]]. | |
| | | |
− | Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933 Hitler được [[Tổng thống Đức (1919–1945)|Tổng thống]] [[Cộng hòa Weimar]] [[Paul von Hindenburg]] bổ nhiệm làm [[Thủ tướng Đức]]. Sau đó Đảng Quốc xã bắt đầu loại trừ mọi địch thủ chính trị và củng cố quyền lực của mình. Hindenburg qua đời ngày 2 tháng 8 năm 1934 và Hitler đã trở thành nhà độc tài của nước Đức bằng việc sáp nhập chức vụ và quyền hạn của Thủ tướng và Tổng thống vào với nhau. Kết quả cuộc trưng cầu ý dân tổ chức trên toàn quốc ngày 19 tháng 8 năm 1934 đã xác nhận Hitler là ''[[Führer]]'' {{efn|name=Führer}} duy nhất của nước Đức. Tất cả quyền lực đều tập trung vào tay Hitler, và lời nói của ông ta xếp trên mọi luật lệ. Chính phủ không phải là cơ quan hợp tác, phối hợp, mà là một tập hợp các bè phái đấu tranh vì quyền lực và sự tín nhiệm của Hitler. Vào đỉnh điểm của [[Đại Suy thoái]], những người quốc xã đã khôi phục nền kinh tế ổn định và chấm dứt nạn thất nghiệp hàng loạt bằng vận dụng [[kinh tế hỗn hợp]] và chi tiêu mạnh cho quân sự. Chính phủ bội chi để tiến hành một [[cuộc tái vũ trang của Đức|chương trình tái vũ trang bí mật]] quy mô và những dự án công trình công cộng trên diện rộng, trong đó có ''[[Autobahnen]]'' (cao tốc). Sự hồi phục của nền kinh tế giúp chế độ ngày càng chiếm được cảm tình của nhân dân. | + | Vào ngày 30 tháng 1 năm 1933 Hitler được [[Tổng thống Đức (1919–1945)|Tổng thống]] [[Cộng hòa Weimar]] [[Paul von Hindenburg]] bổ nhiệm làm [[Thủ tướng Đức]]. Sau đó Đảng Quốc xã bắt đầu loại trừ mọi địch thủ chính trị và củng cố quyền lực của mình. Hindenburg qua đời ngày 2 tháng 8 năm 1934 và Hitler đã trở thành nhà độc tài của nước Đức bằng việc sáp nhập chức vụ và quyền hạn của Thủ tướng và Tổng thống. Kết quả cuộc trưng cầu ý dân tổ chức trên toàn quốc ngày 19 tháng 8 năm 1934 đã xác nhận Hitler là lãnh tụ duy nhất của nước Đức. Tất cả quyền lực đều tập trung vào tay Hitler, và lời nói của ông ta xếp trên mọi luật lệ. Chính phủ không phải là cơ quan hợp tác, phối hợp, mà là một tập hợp các bè phái đấu tranh vì quyền lực và sự tín nhiệm của Hitler. Vào đỉnh điểm của [[Đại Suy thoái]], những người quốc xã đã khôi phục nền kinh tế ổn định và chấm dứt nạn thất nghiệp hàng loạt bằng vận dụng [[kinh tế hỗn hợp]] và chi tiêu mạnh cho quân sự. Chính phủ bội chi để tiến hành một [[cuộc tái vũ trang của Đức|chương trình tái vũ trang bí mật]] quy mô và những dự án công trình công cộng trên diện rộng, trong đó có ''[[Autobahnen]]'' (cao tốc). Sự hồi phục của nền kinh tế giúp chế độ ngày càng chiếm được cảm tình của nhân dân. |
| | | |
− | [[Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc]], [[thuyết ưu sinh quốc xã]], và đặc biệt [[chủ nghĩa bài Do Thái]], là những nét đặc trưng trong ý thức hệ của chế độ. [[Các dân tộc Giéc-manh]] được xem là [[chủng tộc thượng đẳng]], nhánh thuần khiết nhất của [[chủng tộc Aryan]]. Quốc xã bắt đầu biểu hiện rõ hành vi phân biệt đối xử và bức hại người Do Thái sau khi lên nắm quyền. Các trại tập trung đầu tiên được xây dựng vào tháng 3 năm 1933. Người Do Thái, [[chủ nghĩa tự do|người tự do]], [[chủ nghĩa xã hội|xã hội]], [[chủ nghĩa cộng sản|cộng sản]], và những đối tượng không mong muốn khác bị bắt giam, đày ải, hoặc sát hại. Công dân hay [[Giáo hội Cơ đốc]] chống đối phép tắc của Hitler bị đàn áp và nhiều lãnh đạo đã bị bắt. Giáo dục chú trọng vào [[sinh học chủng tộc]], chính sách dân số, và rèn luyện thể lực để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nữ giới bị tước đoạt cơ hội học tập và sự nghiệp. Hoạt động giải trí và du lịch được tổ chức thông qua chương trình ''Kraft durch Freude'' (Sức mạnh đến từ Niềm vui), và [[Thế vận hội Mùa hè 1936]] đã giới thiệu Đế chế thứ Ba ra với thế giới. Bộ trưởng Tuyên truyền [[Joseph Goebbels]] đã lợi dụng phim ảnh, các cuộc mít tinh lớn, và tài hùng biện của Hitler một cách hiệu quả để khống chế dư luận. Chính quyền kiểm soát biểu hiện nghệ thuật, thúc đẩy các hình thức nghệ thuật cụ thể và ngăn chặn hoặc không khuyến khích các hình thức khác. | + | [[Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc]], [[thuyết ưu sinh quốc xã]], và đặc biệt [[chủ nghĩa bài Do Thái]] là những nét đặc trưng trong ý thức hệ của chế độ. [[Các dân tộc Giéc-manh]] được xem là [[chủng tộc thượng đẳng]], nhánh thuần khiết nhất của [[chủng tộc Aryan]]. Quốc xã bắt đầu biểu hiện rõ hành vi phân biệt đối xử và bức hại người Do Thái sau khi lên nắm quyền. Các trại tập trung đầu tiên được xây dựng vào tháng 3 năm 1933. Người Do Thái, [[chủ nghĩa tự do|người tự do]], [[chủ nghĩa xã hội|xã hội]], [[chủ nghĩa cộng sản|cộng sản]], và những đối tượng không mong muốn khác bị bắt giam, đày ải, hoặc sát hại. Công dân hay [[Giáo hội Cơ đốc]] chống đối phép tắc của Hitler bị đàn áp và nhiều lãnh đạo đã bị bắt. Giáo dục chú trọng vào [[sinh học chủng tộc]], chính sách dân số, và rèn luyện thể lực để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nữ giới bị tước đoạt cơ hội học tập và sự nghiệp. Hoạt động giải trí và du lịch được tổ chức thông qua chương trình ''Kraft durch Freude'' (Sức mạnh đến từ Niềm vui), và [[Thế vận hội Mùa hè 1936]] đã giới thiệu Đế chế thứ Ba ra với thế giới. Bộ trưởng Tuyên truyền [[Joseph Goebbels]] đã lợi dụng phim ảnh, các cuộc mít tinh lớn, và tài hùng biện của Hitler một cách hiệu quả để khống chế dư luận. Chính quyền kiểm soát biểu hiện nghệ thuật, thúc đẩy các hình thức nghệ thuật cụ thể và ngăn chặn hoặc không khuyến khích các hình thức khác. |
| | | |
| Chế độ quốc xã chi phối các nước láng giềng bằng hành động đe dọa quân sự trong những năm trước chiến tranh. Đức Quốc xã ngày càng đòi hỏi hung hăng về lãnh thổ và đe dọa chiến tranh nếu yêu sách này không được đáp ứng. Lần lượt vào các năm 1938 và 1939 Đức đã xâm chiếm [[Áo]] rồi [[Tiệp Khắc]]. Quốc gia này ký với Liên Xô một [[hiệp ước Molotov–Ribbentrop|hiệp ước không xâm phạm]] rồi [[Cuộc xâm lược Ba Lan|xâm lược Ba Lan]] vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, mở màn [[chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu]]. Đến đầu năm 1941 Đức đã kiểm soát hầu khắp châu Âu. Các ''[[Reichskommissariat]]'' tiếp quản những lãnh thổ chiếm đoạt và một [[Generalgouvernement|chính quyền Đức]] được thành lập tại phần còn lại của Ba Lan. Đức bóc lột nguyên liệu thô và lao động của cả lãnh thổ chiếm đóng lẫn quốc gia đồng minh. | | Chế độ quốc xã chi phối các nước láng giềng bằng hành động đe dọa quân sự trong những năm trước chiến tranh. Đức Quốc xã ngày càng đòi hỏi hung hăng về lãnh thổ và đe dọa chiến tranh nếu yêu sách này không được đáp ứng. Lần lượt vào các năm 1938 và 1939 Đức đã xâm chiếm [[Áo]] rồi [[Tiệp Khắc]]. Quốc gia này ký với Liên Xô một [[hiệp ước Molotov–Ribbentrop|hiệp ước không xâm phạm]] rồi [[Cuộc xâm lược Ba Lan|xâm lược Ba Lan]] vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, mở màn [[chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu]]. Đến đầu năm 1941 Đức đã kiểm soát hầu khắp châu Âu. Các ''[[Reichskommissariat]]'' tiếp quản những lãnh thổ chiếm đoạt và một [[Generalgouvernement|chính quyền Đức]] được thành lập tại phần còn lại của Ba Lan. Đức bóc lột nguyên liệu thô và lao động của cả lãnh thổ chiếm đóng lẫn quốc gia đồng minh. |
| | | |
− | Chế độ trở nên khét tiếng với hành vi giết người hàng loạt và [[diệt chủng]]. Kể từ năm 1939 hàng trăm ngàn công dân Đức khiếm khuyết về thể trạng và trí tuệ đã bị [[Aktion T4|sát hại trong những bệnh viện và nhà thương điên]]. Những toán quân tử thần ''[[Einsatzgruppe]]'' theo chân quân đội Đức đến những lãnh thổ chiếm đóng và giết hại hàng triệu người Do Thái cùng những nạn nhân khác. Sau năm 1941 có thêm hàng triệu người bị bắt, ép làm việc đến chết, hoặc giết trong những [[Trại tập trung của Đức Quốc xã|trại tập trung]] và [[trại hành quyết]]. Vụ diệt chủng này được gọi là [[Holocaust]]. | + | Chế độ trở nên khét tiếng với hành vi giết người hàng loạt và [[diệt chủng]]. Kể từ năm 1939 hàng trăm ngàn công dân Đức khiếm khuyết về thể trạng và trí tuệ đã bị [[Aktion T4|sát hại trong những bệnh viện và nhà thương điên]]. Những toán quân ''[[Einsatzgruppe]]'' theo chân quân đội Đức đến những lãnh thổ chiếm đóng và giết hại hàng triệu người Do Thái cùng những nạn nhân khác. Sau năm 1941 có thêm hàng triệu người bị bắt, ép làm việc đến chết, hoặc giết trong những [[Trại tập trung của Đức Quốc xã|trại tập trung]] và [[trại hành quyết]]. Vụ diệt chủng này được gọi là [[Holocaust]]. |
| | | |
− | Mặc dù [[chiến dịch Barbarossa|cuộc xâm lược Liên Xô]] của Đức năm 1941 giành thắng lợi ban đầu nhưng sự trỗi dậy của Liên Xô và việc [[Hoa Kỳ]] tham chiếm đã khiến ''[[Wehrmacht]]'' (lực lượng vũ trang Đức) đánh mất thế chủ động trên Mặt trận phía Đông vào năm 1943 rồi bị đẩy lui về biên giới trước năm 1939 vào cuối năm 1944. Những cuộc không kích quy mô lớn nhằm vào nước Đức leo thang trong năm 1944 và [[phe Trục]] đã phải thoái lui ở Đông và Nam Âu. Tiếp sau cuộc xâm lược Pháp của Đồng minh là việc Đức Quốc xã bị Liên Xô đánh bại từ phía đông và các nước Đồng minh khác từ phía tây dẫn đến kết cục đầu hàng vào tháng 5 năm 1945. Trong những tháng cuối cùng, Hitler do không chấp nhận thất bại đã khiến cơ sở hạ tầng của Đức bị phá hủy nặng nề và làm tăng con số thương vong liên quan đến cuộc chiến. Phe Đồng minh chiến thắng đã đề xướng chính sách [[phi quốc xã hóa]] và đưa nhiều lãnh đạo còn sống của chế độ này ra xét xử tội ác chiến tranh tại [[tòa án Nuremberg]]. | + | Mặc dù [[chiến dịch Barbarossa|cuộc xâm lược Liên Xô]] của Đức năm 1941 giành thắng lợi ban đầu nhưng sự vùng lên của Liên Xô và việc [[Hoa Kỳ]] tham chiếm đã khiến ''[[Wehrmacht]]'' (lực lượng vũ trang Đức) đánh mất thế chủ động trên Mặt trận phía Đông vào năm 1943 rồi bị đẩy lui về biên giới trước năm 1939 vào cuối năm 1944. Những cuộc không kích quy mô lớn nhằm vào nước Đức leo thang trong năm 1944 và [[phe Trục]] đã phải thoái lui ở Đông và Nam Âu. Tiếp sau cuộc xâm lược Pháp của Đồng minh là việc Đức Quốc xã bị Liên Xô đánh bại từ phía đông và các nước Đồng minh khác từ phía tây dẫn đến kết cục đầu hàng vào tháng 5 năm 1945. Trong những tháng cuối cùng, Hitler do không chấp nhận thất bại đã khiến cơ sở hạ tầng của Đức bị phá hủy nặng nề và làm tăng con số thương vong liên quan đến cuộc chiến. Phe Đồng minh chiến thắng đã đề xướng chính sách [[phi quốc xã hóa]] và đưa nhiều lãnh đạo còn sống của chế độ này ra xét xử tội ác chiến tranh tại [[tòa án Nuremberg]]. |
− | | |
− | == Bối cảnh ==
| |
− | Nước Đức trong những năm từ 1919 đến 1933 được biết đến là [[Cộng hòa Weimar]], một [[cộng hòa|nền cộng hòa]] với [[hệ thống bán tổng thống]]. Cộng hòa Weimar đối mặt nhiều vấn đề như [[Siêu làm phát ở Cộng hòa Weimar|siêu lạm phát]], chủ nghĩa cực đoan chính trị (bao gồm bạo lực từ các nhóm bán quân sự cánh tả và hữu), mối quan hệ nhập nhằng với [[Khối Đồng minh thời thế chiến I|phe Đồng minh chiến thắng]] trong chiến tranh thế giới thứ Nhất, và một loạt nỗ lực xây dựng chính phủ liên hiệp thất bại của các đảng phái chính trị chia rẽ.{{sfn|Childers|2017|pp=22–23, 35, 48, 124–130, 152, 168–169, 203–204, 225–226}} Sau thế chiến thứ Nhất nền kinh tế Đức suy thoái trầm trọng một phần do khoản chiến phí bồi thường theo [[hòa ước Versailles]] quy định. Chính phủ in tiền để thanh toán các khoản và trả nợ chiến tranh nhưng kết cục là siêu lạm phát khiến giá hàng tiêu dùng tăng cao, kinh tế hỗn loạn, và bạo loạn lương thực.{{sfn|Evans|2003|pp=103–108}} Khi chính phủ không thể trả nợ vào tháng 1 năm 1923, binh lính Pháp đã [[Chiếm đóng Ruhr|chiếm các khu công nghiệp của Đức]] dọc vùng Ruhr kéo theo bất ổn dân sự lan rộng.{{sfn|Evans|2003|pp=186–187}}
| |
− | | |
− | [[Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa]] (''Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei'') hay thường gọi là Đảng Quốc xã ra đời năm 1920. Đây là đảng thay tên kế tục của [[Đảng Công nhân Đức]] thành lập một năm trước đó và là một trong vài đảng chính trị [[cực hữu]] hoạt động ở Đức khi ấy.{{sfn|Evans|2003|pp=170–171}} Cương lĩnh của đảng này bao gồm đánh đổ Cộng hòa Weimar, bác bỏ những điều khoản của hòa ước Versailles, [[Chủ nghĩa bài Do Thái|bài Do Thái]] triệt để, và bài [[Chủ nghĩa Bolshevik|Bolshevik]].{{sfn|Goldhagen|1996|p=85}} Họ hứa hẹn một chính quyền trung ương mạnh mẽ, mở rộng ''[[Lebensraum]]'' (không gian sống) cho nhân dân Đức, xây dựng một cộng đồng dân tộc căn cứ vào chủng tộc, và thanh lọc chủng tộc thông qua hành động đàn áp người Do Thái, đối tượng sẽ bị tước bỏ quyền và tư cách công dân.{{sfn|Evans|2003|pp=179–180}} Những người quốc xã đề xuất khôi phục quốc gia và văn hóa dựa trên phong trào ''[[Völkisch]]''.{{sfn|Kershaw|2008|p=81}} Đảng Quốc xã và đặc biệt tổ chức bán quân sự của nó là ''[[Sturmabteilung]]'' (SA, Biệt đội Bão táp hay Quân áo nâu) sử dụng bạo lực thể chất để thúc đẩy vị thế chính trị, phá hoại hội nghị và tấn công thành viên của những tổ chức đối địch cùng người Do Thái trên đường phố.{{sfn|Evans|2003|pp=180–181}} Các nhóm vũ trang cực hữu như vậy phổ biến ở [[Bayern]] và được chính quyền bang thiên hướng cực hữu của [[Gustav Ritter von Kahr]] dung dưỡng.{{sfn|Evans|2003|pp=181, 189}}
| |
− | | |
− | Sự kiện thị trường chứng khoán ở Mỹ [[Sụp đổ Phố Wall 1929|sụp đổ vào ngày 24 tháng 10 năm 1929]] có tác động thảm khốc đến nước Đức.{{sfn|Childers|2017|p=103}} Hàng triệu người mất việc làm và một vài ngân hàng lớn phải đóng cửa. Hitler cùng những người quốc xã đã sẵn sàng lợi dụng tình hình để thu hút sự ủng hộ về cho đảng. Họ cam kết củng cố nền kinh tế và tạo việc làm.{{sfn|Shirer|1960|pp=136–137}} Nhiều cử tri chọn Đảng Quốc xã vì cho rằng họ có khả năng tái lập trật tự, dập tắt bất ổn dân sự, và cải thiện thanh thế của Đức trên trường quốc tế. Sau cuộc bầu cử liên bang năm 1932, Quốc xã đã là đảng lớn nhất trong [[Reichstag]] (nghị viện), nắm 230 ghế với 37,4 phần trăm phiếu phổ thông.{{sfn|Goldhagen|1996|p=87}}
| |
− | | |
− | == Lịch sử ==
| |
− | [[File:Hitler portrait crop.jpg|thumb|left|Adolf Hitler trở thành nguyên thủ quốc gia Đức với tước vị ''[[Führer und Reichskanzler]]'' (Lãnh tụ và Thủ tướng) vào năm 1934.]]
| |
− | === Quốc xã lên nắm quyền ===
| |
− | Mặc dù những người quốc xã giành nhiều phiếu phổ thông nhất trong hai cuộc tổng tuyển cử nghị viện năm 1932 nhưng họ không đạt được đa số. Bởi vậy Hitler đã cầm đầu một chính phủ liên hiệp tồn tại ngắn ngủi với [[Đảng Quốc gia Nhân dân Đức]].{{sfn|Evans|2003|pp=293, 302}} Dưới áp lực từ các chính trị gia, nhà tư bản công nghiệp, và cộng đồng doanh nghiệp, Tổng thống [[Paul von Hindenburg]] đã bổ nhiệm Hitler làm [[Thủ tướng Đức]] vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Sự kiện này được gọi là ''Machtergreifung'' ("giành quyền").{{sfn|Shirer|1960|pp=183–184}}
| |
− | | |
− | Vào đêm ngày 27 tháng 2 năm 1933 [[Vụ hỏa hoạn Reichstag|tòa nhà Reichstag bị cháy]]. [[Marinus van der Lubbe]], một người cộng sản Hà Lan, bị kết tội gây ra vụ cháy. Hitler tuyên bố vụ việc này đã khai màn cho một cuộc nổi dậy của cộng sản. [[Nghị định Hỏa hoạn Reichstag]] ban hành ngày 28 tháng 2 năm 1933 thủ tiêu mọi quyền tự do dân sự trong đó có quyền hội họp và tự do báo chí. Nghị định này còn cho phép cảnh sát giam người vô thời hạn mà không cần lời buộc tội. Dư luận ủng hộ biện pháp nhờ một chiến dịch tuyên truyền theo kèm. SA tiến hành áp bức hung bạo những người cộng sản trên toàn quốc và 4.000 đảng viên của [[Đảng Cộng sản nước Đức]] đã bị bắt.{{sfn|Evans|2003|pp=329–334}}
| |
− | | |
− | Tháng 3 năm 1933 [[Luật Trao quyền]], một sự sửa đổi của [[Hiến pháp Weimar]], được Reichstag thông qua với 444 phiếu thuận và 94 phiếu chống.{{sfn|Evans|2003|p=354}} Sửa đổi này cho phép Hitler và nội các của mình thông qua các luật, kể cả luật vi phạm hiến pháp, mà không cần sự chấp thuận của tổng thống hay nghị viện.{{sfn|Evans|2003|p=351}} Khi dự luật đòi hỏi hai phần ba ý kiến tán thành để được thông qua, những người quốc xã đã dùng chiến thuật hăm dọa và điều khoản của Nghị định Hỏa hoạn Reichstag để ngăn không cho một số đại biểu của Đảng Dân chủ Xã hội tham gia, trong khi phe cộng sản đã bị cấm từ trước.{{sfn|Shirer|1960|p=196}}{{sfn|Evans|2003|p=336}} Vào ngày 10 tháng 5 chính phủ tịch thu tài sản của những người dân chủ xã hội và họ bị cấm từ ngày 22 tháng 6.{{sfn|Evans|2003|pp=358–359}} Trong ngày 21 tháng 6 SA đột kích văn phòng của Đảng Quốc gia Nhân dân Đức, đối tác liên minh cũ của họ. Đảng này giải thể vào ngày 29 tháng 6 và các đảng chính trị lớn còn lại cũng theo bước. Vào ngày 14 tháng 7 năm 1933 Đức đã biến thành [[quốc gia độc đảng|nước độc đảng]] với một sắc lệnh thông qua quy định Đảng Quốc xã là đảng hợp pháp duy nhất. Hành vi sáng lập đảng mới là phạm pháp và tất cả các đảng chính trị còn lại chưa giải thể đều bị cấm.{{sfn|Shirer|1960|p=201}} Luật Trao quyền sau đó sẽ là cơ sở hợp pháp cho chế độ độc tài mà những người quốc xã tạo dựng.{{sfn|Shirer|1960|p=199}} Các cuộc bầu cử tiếp theo vào tháng 11 năm 1933, tháng 3 năm 1936, và tháng 4 năm 1938 bị quốc xã thao túng khi chỉ có những thành viên đảng này cùng số lượng nhỏ người không đảng phái đi bầu.{{sfn|Evans|2005|pp=109, 637}}
| |
− | | |
− | === Truyền bá chính sách ===
| |
− | Nội các Hitler lợi dụng điều khoản của Nghị định Hỏa hoạn Reichstag và về sau là Luật Trao quyền để khởi xướng quá trình ''Gleichschaltung'' (phối hợp), đưa mọi mặt của đời sống vào vòng kiểm soát của đảng.{{sfn|McNab|2009|p=14}} Các bang không do liên minh quốc xã cầm đầu hoặc chính quyền quốc xã đắc cử quản lý buộc phải chấp nhận việc bổ nhiệm ủy viên để tuân theo đường lối của chính quyền trung ương. Những ủy viên này có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm chính quyền địa phương, nghị viện bang, quan chức, và thẩm phán. Theo cách này Đức trên thực tế đã biến thành một [[quốc gia đơn nhất]] khi mọi chính quyền bang đều bị chính quyền trung ương của những người quốc xã quản trị.{{sfn|Bracher|1970|pp=281–87}}{{sfn|Shirer|1960|p=200}} Các nghị viện bang và ''[[Reichsrat (Đức)|Reichsrat]]'' (thượng viện liên bang) bị dẹp bỏ vào tháng 1 năm 1934.{{sfn|Evans|2005|p=109}} Mọi quyền hạn của bang đều được chuyển giao cho chính quyền trung ương.{{sfn|Shirer|1960|p=200}}
| |
− | | |
− | Tất cả tổ chức dân sự bao gồm tập thể nông nghiệp, tổ chức tình nguyện, câu lạc bộ thể thao, đều bị thay thế lãnh đạo bằng những đảng viên hoặc cảm tình viên quốc xã.{{sfn|Koonz|2003|p=73}} Chính quyền tuyên bố ngày 1 tháng 5 năm 1933 là "ngày lao động toàn quốc" và mời nhiều đại biểu công đoàn đến Berlin dự lễ kỷ niệm. Một ngày sau quân xung kích SA phá hoại các văn phòng nghiệp đoàn trên khắp đất nước. Tất cả công đoàn bị buộc giải thể còn lãnh đạo thì bị bắt.{{sfn|Shirer|1960|p=202}} Luật Khôi phục Ngành dân chính Chuyên nghiệp thông qua tháng 4 đã sa thải mọi giáo viên, giáo sư, thẩm phán, quan chức chính phủ là người Do Thái hoặc bị nghi ngờ lòng thành với đảng.{{sfn|Shirer|1960|p=268}} Như vậy tổ chức phi chính trị duy nhất không bị quốc xã kiểm soát là giáo hội.{{sfn|Evans|2005|p=14}}
| |
− | | |
− | Chế độ quốc xã xóa bỏ những biểu tượng của Cộng hòa Weimar như [[Quốc kỳ Đức|lá cờ ba màu đen, đỏ, vàng]] và phê chuẩn làm lại biểu tượng. Lá cờ đế quốc ba màu đen, trắng, đỏ cũ được khôi phục làm một trong hai quốc kỳ chính thức bên cạnh [[cờ chữ vạn]] của Đảng Quốc xã. Tuy nhiên kể từ năm 1935 chỉ còn lá cờ chữ vạn là quốc kỳ duy nhất. Bài hát của đảng "[[Horst-Wessel-Lied]]" đã trở thành quốc ca thứ hai của Đức.{{sfn|Cuomo|1995|p=231}}
| |
− | | |
− | Tình hình kinh tế Đức vẫn rất tồi tệ khi có sáu triệu người thất nghiệp và [[cán cân thương mại]] thâm hụt nặng nề.{{sfn|McNab|2009|p=54}} Nhờ [[bội chi]], các dự án công trình công cộng được thực hiện từ năm 1934 và chỉ tính riêng đến hết năm đó đã tạo ra 1,7 triệu việc làm mới.{{sfn|McNab|2009|p=54}} Mức lương trung bình bắt đầu tăng lên.{{sfn|McNab|2009|p=56}}
| |
− | | |
− | === Củng cố quyền lực ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 146-1968-101-20A, Joseph Goebbels.jpg|thumb|Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc xã]]
| |
− | Giới lãnh đạo SA tiếp tục gây áp lực nhằm đòi hỏi thêm quyền lực chính trị và quân sự. Hitler đối phó bằng việc sử dụng ''[[Schutzstaffel]]'' (SS) và [[Gestapo]] để thanh trừng toàn bộ ban lãnh đạo SA.{{sfn|Kershaw|2008|pp=309–314}} Hitler nhắm đến tham mưu trưởng [[Ernst Röhm]] và những thủ lĩnh SA khác. Họ cùng một số kẻ thù chính trị của Hitler (như [[Gregor Strasser]] và cựu thủ tướng [[Kurt von Schleicher]]) bị bắt rồi bắn chết. Có khoảng 200 người đã bị giết từ ngày 30 tháng 6 đến 2 tháng 7 năm 1934 trong sự kiện mà nay được biết đến là [[Đêm của những con dao dài]].{{sfn|Kershaw|2008|pp=306–313}}
| |
− | | |
− | Vào ngày 2 tháng 8 năm 1934 Hindenburg qua đời. Trước đó một ngày nội các đã ban hành "Luật Liên quan đến Chức vụ Nhà nước Cao nhất của Đế chế", phát biểu rằng vào lúc mà Hindenburg qua đời chức tổng thống sẽ bị bãi bỏ và quyền hành của nó sẽ được sáp nhập với quyền hành của thủ tướng.{{sfn|Overy|2005|p=63}} Nhờ đó Hitler đã trở thành người đứng đầu nhà nước cũng như chính phủ và chính thức được chỉ định là ''[[Führer|Führer und Reichskanzler]]'' (Lãnh tụ và Thủ tướng, về sau bỏ đi ''Reichskanzler'').{{sfn|Evans|2005|p=44}} Đức giờ là một quốc gia toàn trị với Hitler đứng đầu.{{sfn|Shirer|1960|pp=226–227}} Trong vai nguyên thủ quốc gia, Hitler trở thành Tư lệnh Tối cao của lực lượng vũ trang. Luật mới sửa đổi lời tuyên thệ trung thành của quân nhân, theo đó quân nhân xác nhận trung thành với cá nhân Hitler thay vì với chức danh tư lệnh tối cao hay quốc gia.{{sfn|Kershaw|2008|p=317}} Vào ngày 19 tháng 8 việc sáp nhập hai chức vụ được phê chuẩn bởi tỉ lệ 90% cử tri đồng ý trong một cuộc trưng cầu.{{sfn|Shirer|1960|p=230}}
| |
− | | |
− | Đa số người Đức được xoa dịu rằng xung đột và bạo lực đường phố thời Weimar đã chấm dứt. Giờ trong đầu họ chỉ còn toàn lời lẽ dẫn dụ của Bộ trưởng Bộ Giác ngộ Quần chúng và Tuyên truyền [[Joseph Goebbels]], người hứa hẹn hòa bình và sung túc cho tất cả trong một đất nước thống nhất, phi Mác-xít, không còn bị ràng buộc bởi hòa ước Versailles.{{sfn|Kershaw|2001|pp=50–59}} Đảng Quốc xã thu thập và hợp pháp hóa quyền lực thông qua những hoạt động cách mạng ban đầu, kế đến là vận dụng cơ chế hợp pháp, lợi dụng quyền lực cảnh sát, rồi tiếp quản các tổ chức bang và liên bang.{{sfn|Hildebrand|1984|pp=20–21}}{{sfn|Childers|2017|p=248}} Trại tập trung lớn đầu tiên đi vào hoạt động là [[Trại tập trung Dachau|Dachau]] vào năm 1933, ban đầu dành cho tù nhân chính trị.{{sfn|Evans|2003|p=344}} Đến hết năm đó đã có thêm hàng trăm trại với quy mô và chức năng khác nhau được lập nên.{{sfn|Evans|2008|loc=map, p. 366}}
| |
− | | |
− | Kể từ tháng 4 năm 1933, rất nhiều biện pháp nhằm xác định địa vị và quyền hạn của người Do Thái được khởi động.{{sfn|Walk|1996|pp=1–128}} Những biện pháp này lên đến đỉnh điểm là sự ra đời của [[các đạo luật Nuremberg]] 1935 tước đoạt các quyền cơ bản.{{sfn|Friedländer|2009|pp=44–53}} Quốc xã sẽ lấy đi của người Do Thái của cải, quyền kết hôn với người ngoài Do Thái, và quyền lao động trong nhiều lĩnh vực như luật, y tế, hay giáo dục. Cuối cùng quốc xã tuyên bố không mong muốn người Do Thái còn là công dân Đức và tồn tại trong xã hội Đức.{{sfn|Childers|2017|pp=351–356}}
| |
− | | |
− | === Xây dựng quân đội ===
| |
− | Vào thời kỳ đầu của chế độ, nước Đức không có đồng minh còn quân đội thì suy yếu trầm trọng bởi hòa ước Versailles. Pháp, Ba Lan, Ý, và Liên Xô đều có những lý do riêng để phản đối Hitler lên cầm quyền. Ba Lan đề nghị với Pháp phối hợp tấn công phủ đầu Đức vào tháng 3 năm 1933. [[Phát xít Ý]] phản đối việc Đức đòi [[Balkan]] và [[Áo]], những địa bàn mà [[Benito Mussolini]] cho là thuộc phạm vi ảnh hưởng của Ý.{{sfn|Shirer|1960|p=209}}
| |
− | | |
− | Ngay từ tháng 2 năm 1933 Hitler đã thông báo phải khởi động tái vũ trang nhưng ban đầu thực hiện bí mật vì làm vậy là vi phạm hòa ước Versailles. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1933, trong bài phát biểu trước Reichstag, Hitler đã mô tả khái quát khát khao về [[hòa bình thế giới]] và chấp nhận đề nghị giải trừ quân bị của Tổng thống Hoa Kỳ [[Franklin D. Roosevelt]] nếu những quốc gia châu Âu khác cũng tuân thủ.{{sfn|Shirer|1960|pp=209–210}} Khi các cường quốc châu Âu không chấp nhận đề nghị này, Hitler đã đưa nước Đức rút khỏi [[Hội nghị Giải trừ quân bị Thế giới]] và [[Hội Quốc Liên]] trong tháng 10, tuyên bố những điều khoản giải trừ là không công bằng nếu chúng chỉ áp dụng cho nước Đức.{{sfn|Evans|2005|p=618}} Trong một cuộc trưng cầu ý dân tổ chức tháng 11 có tới 95% cử tri ủng hộ hành động rút lui này.{{sfn|Shirer|1960|pp=210–212}}
| |
− | | |
− | Vào năm 1934 Hitler bảo với các tướng lĩnh của mình rằng chiến tranh ở phía đông nên bắt đầu vào năm 1942.{{sfn|Evans|2005|pp=338–339}} [[Saarland]], địa bàn được Hội Quốc Liên giám sát trong 15 năm kể từ khi chiến tranh thế giới thứ Nhất kết thúc, được bầu sáp nhập vào Đức trong tháng 1 năm 1935.{{sfn|Evans|2005|p=623}} Tháng 3 năm 1935, Hitler thông báo thành lập không quân và quân số ''[[Reichswehr]]'' sẽ tăng lên 550.000.{{sfn|Kitchen|2006|p=271}} Anh đồng ý cho Đức xây dựng một hạm đội hải quân với việc ký kết [[Hiệp định Hải quân Anh-Đức]] vào ngày 18 tháng 6 năm 1935.{{sfn|Evans|2005|p=629}}
| |
− | | |
− | Khi [[Chiến tranh Ý-Ethiopia lần hai|cuộc xâm lược Ethiopia]] của Ý chỉ vấp phải sự phản đối nhẹ nhàng của chính phủ Anh và Pháp, Hitler đã lấy [[Hiệp ước Tương trợ Pháp-Liên Xô]] làm cái cớ để ra lệnh cho 3.000 lính hành quân vào khu phi quân sự ở [[Rheinland]], hành động vi phạm hòa ước Versailles.{{sfn|Evans|2005|p=633}} Vì lãnh thổ này thuộc Đức nên chính phủ Anh và Pháp cảm thấy ép tuân thủ hiệp ước là không đáng để đổi lấy nguy cơ chiến tranh.{{sfn|Evans|2005|pp=632–637}} Trong cuộc bầu cử độc đảng tổ chức ngày 29 tháng 3, quốc xã giành 98,9 phần trăm tỉ lệ ủng hộ.{{sfn|Evans|2005|pp=632–637}} Vào năm 1936 Hitler ký [[Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản]] với Nhật Bản và một hiệp ước không xâm phạm với Mussolini, người đã sớm đề cập đến "Trục Rome-Berlin".{{sfn|Evans|2005|p=641}}
| |
− | | |
− | Hitler đã gửi những sự trợ giúp về quân sự cho lực lượng dân tộc chủ nghĩa của [[Francisco Franco]] trong [[Nội chiến Tây Ban Nha]] bắt đầu tháng 7 năm 1936. Máy bay của [[Quân đoàn Condor]] đã phá hủy thành phố Guernica trong năm 1937.{{sfn|Shirer|1960|p=297}} Hai năm sau phe dân tộc chủ nghĩa giành phần thắng và trở thành đồng minh phi chính thức của Đức Quốc xã.{{sfn|Steiner|2011|pp=181–251}}
| |
− | | |
− | ==== Áo và Tiệp Khắc ====
| |
− | {{multiple image
| |
− | | align = right
| |
− | | direction = vertical
| |
− | | width = 230
| |
− | | image1 = Bundesarchiv Bild 183-1987-0922-500, Wien, Heldenplatz, Rede Adolf Hitler.jpg
| |
− | | image2 = Bundesarchiv Bild 146-1970-005-28, Anschluss sudetendeutscher Gebiete.jpg
| |
− | | footer = (Hình trên) Hitler tuyên bố ''Anschluss'' ở [[Heldenplatz]], Viên, 15 tháng 3 năm 1938<br />(Hình dưới) Người sắc tộc Đức [[kiểu chào quốc xã|chào kiểu quốc xã]] mừng binh lính Đức tiến vào Saaz, 1938
| |
− | | alt =
| |
− | }}
| |
− | Tháng 2 năm 1938, Hitler nhấn mạnh với Thủ tướng Áo [[Kurt Schuschnigg]] về sự cần thiết của việc đảm bảo biên giới nước Đức. Schuschnigg dự tính một cuộc trưng cầu ý dân về nền độc lập của Áo vào ngày 13 tháng 3 nhưng trước đó hai ngày Hitler đã gửi tối hậu thư yêu cầu Schuschnigg chuyển giao toàn bộ quyền lực cho Đảng Quốc xã Áo hoặc đối diện nguy cơ bị xâm lược. Một ngày sau binh lính Đức hành quân vào Áo và được dân chúng nơi đây chào đón nhiệt tình.{{sfn|Evans|2005|pp=646–652}}
| |
− | | |
− | [[Đệ Nhất Cộng hòa Tiệp Khắc|Cộng hòa Tiệp Khắc]] là địa bàn sinh sống của một bộ phận đáng kể người Đức thiểu số, tập trung chủ yếu ở [[Sudetenland]]. Dưới áp lực từ các nhóm ly khai trong [[Đảng Đức Sudeten]], chính phủ Tiệp Khắc đã ban những sự nhượng bộ về kinh tế cho vùng này.{{sfn|Evans|2005|p=667}} Hitler quyết định không chỉ sáp nhập Sudetenland vào Đế chế mà còn là xóa sổ cả đất nước Tiệp Khắc.{{sfn|Kershaw|2008|p=417}} Quốc xã tiến hành một chiến dịch tuyên truyền nhằm cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ cho một cuộc xâm lược.{{sfn|Kershaw|2008|p=419}} Các tướng lĩnh quân đội hàng đầu phản đối kế hoạch do nước Đức chưa sẵn sàng cho chiến tranh.{{sfn|Evans|2005|pp=668–669}}
| |
− | | |
− | Tình trạng khủng hoảng khiến Anh, Tiệp Khắc, và Pháp (đồng minh của Tiệp Khắc) có những hành động chuẩn bị. Để ngăn chặn chiến tranh, Thủ tướng Anh [[Neville Chamberlain]] đã sắp xếp một loạt hội nghị và thành quả là việc [[hiệp ước Munich]] được ký kết vào ngày 29 tháng 9 năm 1938. Chính phủ Tiệp Khắc bị ép phải để cho Đức thôn tính Sudetenland. Khi đặt chân về đến Luân Đôn, Chamberlain được chào đón trong không khí hân hoan và nói hiệp ước đã mang lại "hòa bình cho thời đại chúng ta".{{sfn|Evans|2005|pp=671–674}} Trong khi đó [[Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan|Ba Lan]] chiếm một dải đất hẹp gần [[Cieszyn]] vào ngày 2 tháng 10 và như một hệ quả của hiệp ước Munich, [[Vương quốc Hungary (1920–1946)|Hungary]] đã yêu cầu và nhận được 12.000 km<sup>2</sup> lãnh thổ dọc biên giới phía bắc của họ trong [[Nghị quyết Viên lần thứ Nhất]] ngày 2 tháng 11.{{sfn|Evans|2005|pp=679–680}} Sau những phiên đàm phán với Tổng thống [[Emil Hácha]] thì vào ngày 15 tháng 3 năm 1939 Hitler đã chiếm nốt nửa phần Séc của Tiệp Khắc rồi lập ra [[Vùng bảo hộ Bohemia và Moravia]], trước đó một ngày là sự ra đời của [[Cộng hòa Slovak (1939–1945)|Cộng hòa Slovak]] ở nửa còn lại.{{sfn|Evans|2005|pp=682–683}} Cũng trong ngày 15 tháng 3 Hungary chiếm đóng và thôn tính [[Karpatska Ukraina]], địa bàn mới tuyên bố nhưng chưa được công nhận, cùng một miếng đất tranh chấp với Slovakia.{{sfn|Kirschbaum|1995|p=190}}{{sfn|Evans|2005|p=687}}
| |
− | | |
− | Đức Quốc xã chiếm đoạt của Áo và Séc nguồn dự trữ ngoại hối, các kho lưu trữ nguyên liệu thô như kim loại và thành phẩm như vũ khí và máy bay, những thứ này được vận chuyển về Đức. Tập đoàn công nghiệp ''[[Reichswerke Hermann Göring]]'' tiếp quản các cơ sở sản xuất than và thép ở cả hai quốc gia.{{sfn|Mazower|2008|pp=264–265}}
| |
− | | |
− | ==== Ba Lan ====
| |
− | [[File:Nazi World War II poster Danzig is German.jpg|thumb|left|150px|Một áp phích tuyên truyền của quốc xã tuyên bố [[Danzig]] thuộc về Đức]]
| |
− | Tháng 1 năm 1934, Đức ký một hiệp ước không xâm lược với Ba Lan.{{sfn|Weinberg|2010|p=60}} Đến tháng 3 năm 1939 Hitler yêu cầu trả lại [[Thành phố Tự do Danzig]] và [[Hành lang Ba Lan]], một dải đất chia cắt [[Đông Phổ]] với phần còn lại của nước Đức. Anh thông báo sẽ giúp đỡ Ba Lan nếu nước này bị tấn công. Hitler tin rằng Anh sẽ không thực sự hành động và ra lệnh chuẩn bị cho một cuộc xâm lược diễn ra vào tháng 9 năm 1939.{{sfn|Evans|2005|pp=689–690}} Vào ngày 23 tháng 5, Hitler mô tả với các tướng lĩnh kế hoạch tổng quát không chỉ chiếm Hành lang Ba Lan mà còn bành trướng đáng kể lãnh thổ Đức về phía đông lấn sang Ba Lan. Ông dự kiến lần này mình sẽ vấp phải vũ lực.{{sfn|Kershaw|2008|p=486}}
| |
− | | |
− | Đức tái xác nhận mối liên minh với Ý và ký những hiệp ước không xâm lược với Đan Mạch, Estonia, Latvia, đồng thời chính thức hóa quan hệ thương mại với Romania, Na Uy, và Thụy Điển.{{sfn|Evans|2005|p=691}} Bộ trưởng Ngoại giao [[Joachim von Ribbentrop]] dàn xếp đàm phán một hiệp ước không xâm lược với Liên Xô mang tên [[hiệp ước Molotov–Ribbentrop]] ký vào tháng 8 năm 1939.{{sfn|Kershaw|2008|p=496}} Hiệp ước này còn chứa những điều khoản bí mật phân chia Ba Lan và các nước Baltic thành những phạm vi ảnh hưởng của Đức và Liên Xô.{{sfn|Snyder|2010|p=116}}
| |
− | | |
− | === Thế chiến thứ Hai ===
| |
− | {{multiple image
| |
− | | align = right
| |
− | | direction = vertical
| |
− | | width = 260
| |
− | | image1 = Second world war europe animation large de.gif
| |
− | | image2 = World War II in Europe, 1942-vi.svg
| |
− | | footer = (Hình trên) Ảnh động diễn tả chuỗi sự kiện ở châu Âu trong suốt chiến tranh thế giới thứ Hai<br />(Hình dưới) Đức Quốc xã và đồng minh tại đỉnh cao thắng lợi, 1942}}
| |
− | ==== Chính sách đối ngoại ====
| |
− | Chính sách đối ngoại thời chiến của Đức bao gồm việc tạo dựng các chính phủ đồng minh chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp từ Berlin. Họ dự kiến thu thập binh sĩ từ các đồng minh như Ý, Hungary cùng lao động và nguồn cung từ đồng minh như [[Pháp Vichy]].{{sfn|Mazower|2008|loc=chapter 9}} Hungary ký [[Hiệp ước Tam cường]] vào ngày 27 tháng 9 năm 1940, là quốc gia thứ tư gia nhập phe Trục. Bulgaria ký hiệp ước này vào ngày 17 tháng 11. Đức thực hiện những nỗ lực nhằm đảm bảo vấn đề dầu mỏ như đàm phán nguồn cung từ đồng minh mới của họ là [[Vương quốc Romania|Romania]], nước ký hiệp ước Tam cường ngày 27 tháng 11, bên cạnh Cộng hòa Slovak.{{sfn|Evans|2008|p=151}}{{sfn|Kershaw|2008|p=584}}{{sfn|Shirer|1960|p=803}} Đến cuối năm 1942 trên mặt trận phía Đông có 24 sư đoàn của Romania, 10 của Ý và 10 của Hungary.{{sfn|Weinberg|2005|p=414}} Đức đích thân quản lý toàn diện Pháp vào năm 1942, Ý năm 1943, và Hungary năm 1944. Mặc dù là một đồng minh hùng mạnh nhưng quan hệ giữa Nhật Bản và Đức không thân mật, ít có sự phối hợp hay hợp tác. Ví dụ, Đức đã từ chối chia sẻ công thức tổng hợp dầu mỏ từ than đá cho đến cuối cuộc chiến.{{sfn|Martin|2005|p=279–80}}
| |
− | | |
− | ==== Chiến tranh bùng nổ ====
| |
− | [[Cuộc xâm lược Ba Lan|Đức xâm lược Ba Lan]] và chiếm Thành phố Tự do Danzig vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, khơi mào chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu.{{sfn|Evans|2005|pp=699–701}} Anh, Pháp tôn trọng nghĩa vụ của họ và tuyên chiến với Đức hai ngày sau.{{sfn|Beevor|2012|pp=22, 27–28}} Ba Lan nhanh chóng thất thủ khi Liên Xô tấn công từ phía đông vào ngày 17 tháng 9.{{sfn|Beevor|2012|p=32}} Vào ngày 21 tháng 9 [[Reinhard Heydrich]], thủ lĩnh ''[[Sicherheitspolizei]]'' (SiPo, Cảnh sát Trị an) và ''[[Sicherheitsdienst]]'' (SD, Sở An ninh), ra lệnh bố ráp và dồn người Do Thái Ba Lan vào những thành phố lớn có hệ thống đường ray đảm bảo với ý định ban đầu là trục xuất họ xa hơn về phía đông hoặc có thể là tới [[Kế hoạch Madagascar|Madagascar]].{{sfn|Longerich|2010|pp=148–149}} Vận dụng những danh sách được chuẩn bị từ trước, đến hết năm 1939 quốc xã đã sát hại khoảng 65.000 trí thức, quý tộc, giáo sĩ, giáo viên Ba Lan trong một nỗ lực nhằm tiêu diệt bản sắc quốc gia này.{{sfn|Longerich|2010|p=144}}{{sfn|Evans|2008|p=15}} Lực lượng Liên Xô tiến vào Phần Lan trong [[chiến tranh mùa Đông]] trong khi lực lượng Đức có những hoạt động trên biển. Song ngoài ra ít còn hoạt động nào khác cho tới tháng 5 nên giai đoạn này được gọi là "[[chiến tranh kỳ quặc]]".{{sfn|Beevor|2012|p=40}}
| |
− | | |
− | Từ khi chiến tranh bắt đầu, Anh đã [[phong tỏa nước Đức (1939–45)|phong tỏa]] hàng hóa vận chuyển tới Đức, ảnh hưởng đến kinh tế nước này. Đức phụ thuộc nhiều vào nguồn cung dầu mỏ, than đá, ngũ cốc từ bên ngoài.{{sfn|Mazower|2008|p=260}} Cấm vận và phong tỏa đã khiến lượng hàng nhập khẩu vào Đức sụt giảm 80 phần trăm.{{sfn|Tooze|2006|p=332}} Để bảo vệ những chuyến hàng quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức, Hitler đã ra lệnh [[chiến dịch Weserübung|xâm lược Đan Mạch và Na Uy]], bắt đầu từ ngày 9 tháng 4. [[Cuộc xâm lược Đan Mạch (1940)|Đan Mạch thất thủ]] trong chưa đầy một ngày còn [[Chiến dịch Na Uy|hầu hết Na Uy]] nhận kết cục tương tự lúc tháng 4 qua đi.{{sfn|Beevor|2012|pp=73–76}}{{sfn|Evans|2005|p=120}} Đến đầu tháng 6 Đức đã chiếm đóng toàn bộ Na Uy.{{sfn|Shirer|1960|p=709}}
| |
− | | |
− | ==== Chinh phạt châu Âu ====
| |
− | Bỏ ngoài tai lời khuyên của nhiều tướng lĩnh cấp cao, Hitler đã ra lệnh [[Trận Pháp|tấn công Pháp]] và [[Vùng đất Thấp]] trong tháng 5 năm 1940.{{sfn|Beevor|2012|pp=70–71, 79}}{{sfn|Shirer|1960|p=715–719}} Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phạt [[Cuộc xâm lược Luxembourg|Luxembourg]] và [[Trận Hà Lan|Hà Lan]], áp đảo Đồng minh ở [[Trận Bỉ|Bỉ]], ép nhiều binh sĩ Anh và Pháp [[Cuộc di tản Dunkirk|di tản ở Dunkirk]].{{sfn|Shirer|1960|pp=731–738}} Pháp cũng thất thủ và đầu hàng vào ngày 22 tháng 6.{{sfn|Shirer|1960|pp=696–730}} Chiến thắng ở Pháp đã nâng cao đáng kể danh tiếng của Hitler và làm dậy lên cơn sốt chiến tranh ở Đức.{{sfn|Kershaw|2008|p=562}}
| |
− | | |
− | Các hãng công nghiệp ở Hà Lan, Pháp, Bỉ bị buộc phải chuyển sang sản xuất vật liệu chiến tranh cho Đức, hành động vi phạm những điều khoản của [[Công ước Hague 1899 và 1907|Công ước Hague]].{{sfn|Mazower|2008|p=265}}
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 183-L05487, Paris, Avenue Foch, Siegesparade.jpg|thumb|left|Binh lính Đức hành quân gần [[Arc de Triomphe|Khải Hoàn Môn]] ở Paris, 14 tháng 6 năm 1940]]
| |
− | | |
− | Đức Quốc xã đã chiếm đoạt của Pháp hàng ngàn đầu máy và toa xe lửa, kho dự trữ vũ khí, và nguyên liệu thô như đồng, thiếc, dầu, niken.{{sfn|Evans|2008|pp=333–334}} Pháp, Bỉ, Na Uy phải gánh vác phí tổn chiếm đóng.{{sfn|Mazower|2008|p=271}} Những rào cản thương mại dẫn tới hành vi tích trữ, [[chợ đen]], và tương lai không rõ ràng.{{sfn|Mazower|2008|pp=272, 279}} Nguồn cung lương thực là bấp bênh còn sản lượng thì sụt giảm ở hầu khắp châu Âu.{{sfn|Mazower|2008|p=262}} Nhiều quốc gia bị chiếm đóng đã trải qua nạn đói.{{sfn|Mazower|2008|p=262}}
| |
− | | |
− | Hitler đề nghị hòa bình với Thủ tướng mới của Anh là [[Winston Churchill]] nhưng bị từ chối vào tháng 7 năm 1940. Tháng 6 năm đó Đại Đô đốc [[Erich Raeder]] khuyên bảo Hitler rằng để xâm lược Anh thành công thì điều kiện tiên quyết là phải giành ưu thế trên không. Bởi vậy Hitler ra lệnh tiến hành một loạt cuộc không kích nhằm vào các trạm rađa, căn cứ của [[Không quân Hoàng gia]] (RAF) và [[Blitz|ném bom các thành phố Anh vào ban đêm]] trong đó có Luân Đôn, Plymouth, và Coventry. Luftwaffe đã không thể đánh bại RAF trong trận chiến nước Anh và đến hết tháng 10 Hitler nhận ra ưu thế trên không sẽ không đạt được. Ông hoãn vĩnh viễn cuộc xâm lược, một kế hoạch mà các tư lệnh quân đội Đức chưa bao giờ thực sự nghiêm túc.{{sfn|Shirer|1960|pp=753, 774–782}}{{sfn|Kershaw|2000b|pp=301–303, 309–310}} Một số nhà sử học như Andrew Gordon tin rằng lý do chính khiến kế hoạch xâm lược đổ bể là sự ưu việt của Hải quân Hoàng gia Anh chứ không phải những hoạt động của Không quân.{{sfn|Harding|2006}}
| |
− | | |
− | Tháng 2 năm 1941, ''[[Afrika Korps]]'' (Quân đoàn Phi châu) của Đức tới [[Libya thuộc Ý|Libya]] để giúp đỡ lực lượng Ý trong [[chiến dịch Bắc Phi]].{{sfn|Evans|2008|p=149}} Vào ngày 6 tháng 4 Đức [[Cuộc xâm lược Nam Tư|xâm lược Nam Tư]] và [[Trận Hy Lạp|Hy Lạp]].{{sfn|Evans|2008|p=153}}{{sfn|Shirer|1960|pp=815–816}} Các nước Đức, Hungary, Ý, và Bulgaria chia nhau toàn bộ Nam Tư và một phần Hy Lạp sau đó.{{sfn|Tomasevich|1975|p=52–53}}{{sfn|Richter|1998|p=616}}
| |
− | | |
− | ==== Xâm lược Liên Xô ====
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 183-B22436, Russland, Kampf um Stalingrad, Ruinen.jpg|thumb|250px|Sự tàn phá và chết chóc trong [[trận Stalingrad]], tháng 10 năm 1942]]
| |
− | Vào ngày 22 tháng 6 năm 1941, Hitler xé bỏ hiệp ước Molotov–Ribbentrop và đem 3,8 triệu quân tấn công Liên Xô.{{sfn|Clark|2012|p=73}} Bên cạnh mục đích giành lấy ''Lebensraum'' (không gian sống) như Hitler tuyên bố, cuộc tấn công quy mô lớn này, mật danh [[chiến dịch Barbarossa]], còn có ý định tiêu diệt Liên Xô và chiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cuộc chiến sau này với các cường quốc phương Tây.{{sfn|Evans|2008|pp=160–161}} Phản ứng của người dân Đức là bất ngờ và bối rối bởi số đông lo lắng liệu chiến tranh bao giờ mới kết thúc hay hoài nghi về khả năng chiến thắng của Đức khi phải tham chiến trên hai mặt trận.{{sfn|Evans|2008|pp=189–190}}
| |
− | | |
− | Đức Quốc xã đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn bao gồm [[các nước Baltic]], [[Belarus]], và miền tây [[Ukraina]]. Sau [[Trận Smolensk (1941)|trận Smolensk]] tháng 9 năm 1941, Hitler đã chỉ thị [[Cụm tập đoàn quân Trung tâm]] ngừng tiến quân tới Moskva và điều bộ phận Panzer của nó đến hỗ trợ vây hãm [[Leningrad]] và [[Kyev]].{{sfn|Stolfi|1982|pp=32–34, 36–38}} Sự trì hoãn này đã trao cơ hội cho [[Hồng quân]] huy động lực lượng dự bị mới. Cuộc tấn công Moskva được khôi phục vào tháng 10 năm 1941 đã [[Trận Moskva|có kết cục thảm họa]] trong tháng 12.{{sfn|Stolfi|1982|pp=45–46}} Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản [[Cuộc tấn công Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]], Hawaii. Bốn ngày sau, Đức tuyên chiến với Mỹ.{{sfn|Shirer|1960|pp=900–901}}
| |
− | | |
− | Tại những lãnh thổ Liên Xô và Ba Lan chinh phạt, lương thực là khan hiếm do kẻ địch rút lui đã đốt cháy mùa màng ở một số nơi và đa phần những gì còn lại thì được vận chuyển về chính quốc.{{sfn|Evans|2008|p=43}} Khẩu phần ở Đức bị cắt giảm trong năm 1942. Trong vai trò Toàn quyền Kế hoạch Bốn Năm, [[Hermann Göring]] yêu cầu tăng số chuyến hàng ngũ cốc từ Pháp và cá từ Na Uy. Vụ mùa năm 1942 là thành công và nguồn cung lương thực vẫn đủ đáp ứng ở Tây Âu.{{sfn|Mazower|2008|pp=284–287}}
| |
− | | |
− | ==== Bước ngoặt và sụp đổ ====
| |
− | Nước Đức nói riêng và châu Âu nói chung phụ thuộc gần như hoàn toàn vào nhập khẩu dầu mỏ từ bên ngoài.{{sfn|Mazower|2008|p=290}} Để giải quyết tình trạng thiếu hụt, Đức đã phát động ''[[Fall Blau]]'' vào tháng 6 năm 1942, một cuộc tấn công nhắm đến những mỏ dầu ở Kavkaz.{{sfn|Glantz|1995|pp=108–110}} Hồng quân Liên Xô mở cuộc phản công vào ngày 19 tháng 11 và bốn ngày sau đã bao vây, giam hãm lực lượng phe Trục trong [[Trận Stalingrad|Stalingrad]].{{sfn|Melvin|2010|pp=282, 285}} Göring cam đoan với Hitler rằng [[Tập đoàn quân số 6 (Wehrmacht)|Tập đoàn quân số 6]] có thể được tiếp tế bằng không vận nhưng điều này hóa ra không khả thi.{{sfn|Evans|2008|pp=413, 416–417}} Hitler không cho phép rút lui và hậu quả là 200.000 binh sĩ Đức và Romania thiệt mạng, 91.000 binh sĩ đầu hàng trong thành phố vào ngày 31 tháng 1 năm 1943 và chỉ có 6.000 trong số này sống sót quay trở lại Đức sau chiến tranh.{{sfn|Evans|2008|pp=419–420}}
| |
− | | |
− | Những thất bại liên tiếp sau Stalingrad đã làm sụt giảm nghiêm trọng nhuệ khí cũng như danh tiếng của Đảng Quốc xã.{{sfn|Kershaw|2011|p=208}} Quân đội Liên Xô tiếp tục tiến về phía tây sau chiến thắng trong [[trận Kursk]] diễn ra vào mùa hè năm 1943. Đến hết năm 1943, Đức Quốc xã đã đánh mất hầu hết lãnh thổ phía đông từng chiếm được.{{sfn|Shirer|1960|p=1007}} Ở Ai Cập, quân đoàn Phi châu của Thống chế [[Erwin Rommel]] bị lực lượng Anh dưới quyền Thống chế [[Bernard Montgomery]] đánh bại trong tháng 10 năm 1942.{{sfn|Evans|2008|p=467}} Tháng 7 năm 1943 Đồng minh đổ bộ Sicily rồi hai tháng sau là Ý.{{sfn|Evans|2008|p=471}} Trong khi đó, các phi đội máy bay ném bom xuất phát từ Anh bắt đầu tấn công nước Đức. Các đợt tấn công không ít lần cố tình nhằm vào dân thường nhằm đập tan nhuệ khí của kẻ thù.{{sfn|Evans|2008|pp=438–441}} Sản lượng máy bay của Đức không thể bù đắp kịp số mất mát và thiếu đi sự yểm trợ của không quân, hoạt động ném bom của Đồng minh càng có sức tàn phá ác liệt. Với việc nhắm đến những nhà máy và cơ sở lọc dầu thì đến cuối năm 1944 Đồng minh đã khiến bộ máy chiến tranh của Đức Quốc xã trở nên tê liệt.{{sfn|Evans|2008|p=461}}
| |
− | | |
− | Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, quân Anh, Mỹ, và Canada thiết lập một mặt trận ở Pháp bằng cuộc đổ bộ ở [[Normandy]].{{sfn|Beevor|2012|pp=576–578}} Hơn một tháng sau Hitler thoát chết trong một [[Âm mưu 20 tháng 7|vụ ám sát]] vào ngày 20 tháng 7.{{sfn|Beevor|2012|pp=604–605}} Hitler ra lệnh trả thù tàn khốc và kết quả là 7.000 người bị bắt cùng hơn 4.900 người bị xử tử.{{sfn|Shirer|1960|p=1072}} [[Chiến dịch Ardennes]] diễn ra từ 16 tháng 12 năm 1944 đến 25 tháng 1 năm 1945 là cuộc tấn công lớn cuối cùng của Đức ở mặt trận phía Tây.{{sfn|Shirer|1960|pp=1090–1097}} Hồng quân Liên Xô tiến vào lãnh thổ Đức trong ngày 27 tháng 1.{{sfn|Shirer|1960|pp=1090–1097}} Việc Hitler không chấp nhận thất bại và nhất quyết đòi chiến đấu đến người cuối cùng đã dẫn đến những tổn thất về người và của không đáng có trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến.{{sfn|Kershaw|2008|pp=910–912}} Thông qua Bộ trưởng Tư pháp [[Otto Georg Thierack]], Hitler ra lệnh bất kỳ ai không sẵn sàng chiến đấu đều sẽ bị đưa ra tòa án quân sự và hàng ngàn người đã nhận án tử hình.{{sfn|Kershaw|2011|pp=224–225}} Ở nhiều nơi, người dân đầu hàng quân Đồng minh đang đến bất chấp lời hô hào tiếp tục chiến đấu của lãnh đạo địa phương. Hitler ban sắc lệnh [[tiêu thổ]] phá hủy các nhà máy, cây cầu, con đường nhưng Bộ trưởng Vũ trang [[Albert Speer]] đã ngăn không cho mệnh lệnh này được thi hành trọn vẹn.{{sfn|Kershaw|2008|pp=910–912}}
| |
− | | |
− | [[File:SFP 186 - Flug ueber Berlin.ogv|thumb|left|Thước phim quay tháng 7 năm 1945 của [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ]] mô tả sự tàn phá ở trung tâm Berlin]]
| |
− | | |
− | Trong [[trận Berlin]] diễn ra từ ngày 16 tháng 4 đến 2 tháng 5 năm 1945, Hitler cùng ban tham mưu sống trong ''[[Führerbunker]]'' dưới mặt đất.{{sfn|Shirer|1960|p=1108}} Hitler và vợ là [[Eva Braun]] [[Cái chết của Adolf Hitler|tự sát]] vào ngày 30 tháng 4 trong tình cảnh Hồng quân Liên Xô đã tiệm cận [[Reichskanzlei|Phủ Thủ tướng]].{{sfn|Kershaw|2008|pp=954–955}} Đô đốc [[Karl Dönitz]] kế nhiệm Hitler chức tổng thống còn Goebbels kế nhiệm chức thủ tướng.{{sfn|Shirer|1960|p=1126}} Goebbels cùng vợ [[Magda Goebbels|Magda]] tự sát vào ngày 1 tháng 5 sau khi hạ độc sáu đứa con của mình.{{sfn|Beevor|2002|p=381}} Sang ngày 2 tháng 5 tướng [[Helmuth Weidling]] đầu hàng vô điều kiện tướng [[Vasily Chuikov]].{{sfn|Beevor|2002|p=386}} Trong khoảng ngày 4 đến ngày 8 tháng 5 hầu hết binh lính vũ trang còn lại của Đức cũng đầu hàng vô điều kiện. [[Văn kiện đầu hàng của Đức]] được ký vào ngày 8 tháng 5, đặt dấu chấm hết cho chế độ quốc xã và [[chiến tranh thế giới thứ Hai ở châu Âu]].{{sfn|Beevor|2002|pp=400–403}}
| |
− | | |
− | Sự ủng hộ của người dân dành cho Hitler gần như tan biến khi chiến tranh gần kết thúc.{{sfn|Evans|2008|p=714}} Tỷ lệ tự sát ở Đức gia tăng, nhất là ở những nơi Hồng quân đang tiến đến. Đối với binh sĩ và cán bộ đảng thì tự sát thường được xem là hành động vẻ vang và quả cảm hơn đầu hàng. Những lời lẽ tuyên truyền và tường thuật trực tiếp về hành xử man rợ của quân Liên Xô đang đến khiến dân chúng ở mặt trận phía Đông hoảng loạn, đặc biệt là phụ nữ do lo sợ bị hãm hiếp.{{sfn|Kershaw|2011|pp=355–357}} Hơn một ngàn trong tổng số 16.000 cư dân Demmin đã tự sát vào khoảng ngày 1 tháng 5 khi Tập đoàn quân 65 của [[Phương diện quân Belorussia 2]] xông vào một nhà máy chưng cất rồi tràn qua thị trấn. Những địa điểm khác có số người tự sát cao gồm [[Neubrandenburg]] (600), [[Stolp]] (1.000),{{sfn|Lakotta|2005|pp=218–221}} và Berlin với ít nhất 7.057 người tự sát trong năm 1945.{{sfn|Goeschel|2009|p=165}}
| |
− | | |
− | ==== Thương vong của Đức ====
| |
− | Ước tính tổng số người Đức thiệt mạng vì chiến tranh rơi vào tầm 5,5 đến 6,9 triệu.{{sfn|Hubert|1998|p=272}} Theo nghiên cứu của nhà sử học người Đức [[Rüdiger Overmans]] thì số quân nhân Đức tử trận và mất tích là 5.3 triệu, bao gồm 900.000 lính nhập ngũ từ bên ngoài biên giới nước Đức năm 1937.{{sfn|Overmans|2000|p=Bd. 46}} Vào năm 2014 [[Richard Overy]] ước tính khoảng 353.000 dân thường đã bỏ mạng bởi những cuộc không kích của Đồng minh.{{sfn|Overy|2014|pp=306–307}} Quốc xã đã bức hại 300.000 người Đức (bao gồm người Do Thái) vì những lý do tôn giáo, chủng tộc, chính trị{{sfn|''Germany Reports''|1961|p=62}} và 200.000 người trong [[Aktion T4|chương trình an tử]].{{sfn|Bundesarchiv, "Euthanasie" im Nationalsozialismus}} Các tòa án chính trị gọi là ''[[Sondergericht]]'' đã tuyên án tử hình khoảng 12.000 thành viên của phong trào kháng chiến, trong khi các tòa dân sự tuyên án 40.000 người Đức khác.{{sfn|Hoffmann|1996|p=xiii}}
| |
− | | |
− | == Địa lý ==
| |
− | === Thay đổi về lãnh thổ ===
| |
− | Sau thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất cùng hòa ước Versailles hệ quả, Đức đã để mất [[Elsass-Lothringen]], [[Nordschleswig]], và [[Memelland]]. Saarland trở thành vùng bảo hộ của Pháp kèm theo điều kiện cư dân của nó sau này sẽ quyết định gia nhập nước nào bằng một cuộc trưng cầu dân ý. Ba Lan trở thành quốc gia độc lập và giáp biển nhờ Hành lang Ba Lan mới hình thành ngăn cách Phổ và phần còn lại của nước Đức. Danzig giờ là thành phố tự do.{{sfn|Evans|2003|p=62}}
| |
− | | |
− | Đức giành lại Saarland nhờ cuộc trưng cầu dân ý tổ chức năm 1935 và thôn tính Áo trong ''Anschluss'' năm 1938.{{sfn|Evans|2005|pp=623, 646–652}} Hiệp ước Munich 1938 đã trao cho Đức Sudetenland và sáu tháng sau họ chiếm nốt phần còn lại của Tiệp Khắc.{{sfn|Evans|2005|pp=671–674}} Đứng trước nguy cơ bị xâm lược bằng đường biển, Litva đã phải giao nộp quận Memel vào tháng 3 năm 1939.{{sfn|Shirer|1960|pp=461–462}}
| |
− | | |
− | Giai đoạn 1939 đến 1941, Đức đã xâm lược Ba Lan, Đan Mạch, Na Uy, Pháp, Luxembourg, Hà Lan, Bỉ, Nam Tư, Hy Lạp, và Liên Xô.{{sfn|Shirer|1960|pp=696–730}} Tháng 4 năm 1941 Đức sáp nhập một phần miền bắc Nam Tư.{{sfn|Tomasevich|1975|p=52–53}}{{sfn|Richter|1998|p=616}} Mussolini nhượng lại [[Trieste]], [[Nam Tyrol]], và [[Istria]] cho Đức vào năm 1943.{{sfn|Shirer|1960|p=1005}}
| |
− | | |
− | === Các lãnh thổ chiếm đóng ===
| |
− | [[File:Public execution of 54 Poles in Rożki (1942).jpg|thumb|left|upright=0.6|Hành hình công khai 54 người Ba Lan ở [[Rożki]] (gần [[Radom]]), Ba Lan, 1942]]
| |
− | | |
− | Một số lãnh thổ chinh phạt bị sáp nhập vào nước Đức như một phần mục tiêu dài hạn của Hitler là tạo ra Đế chế Đại Đức. Một số khu vực như Elsass-Lothringen do ''[[Gau]]'' giáp ranh cai quản. ''[[Reichskommissariat]]'', chế độ kiểu bán thuộc địa, được thành lập ở một số nước chiếm đóng. Những địa bàn Đức quản lý bao gồm [[Xứ bảo hộ Bohemia và Moravia]], ''[[Reichskommissariat Ostland]]'' (bao hàm các nước Baltic và Belarus), và ''[[Reichskommissariat Ukraine]]''. [[Chính phủ quân sự ở Bỉ và Bắc Pháp]] quản lý những lãnh thổ Bỉ và Pháp chinh phạt.{{sfn|Evans|2008|p=373}} Đức thôn tính [[Eupen-Malmedy]], địa bàn từng thuộc nước Đức trước năm 1919. Một phần Ba Lan bị sáp nhập và [[Generalgouvernement]] (Tổng đốc phủ) được tạo dựng ở miền trung Ba Lan.{{sfn|Longerich|2010|p=147}} Chính quyền Đan Mạch, Na Uy (''[[Reichskommissariat Norwegen]]''), và Hà Lan (''[[Reichskommissariat Niederlande]]'') được giao cho dân thường mà chủ yếu là người bản địa.{{sfn|Evans|2008|p=373}}{{efn|name=districts}} Hitler dự định sáp nhập đa số lãnh thổ trên vào Đế chế.{{sfn|Umbreit|2003|p=26}} Đức lập ra một chính phủ bù nhìn ở Serbia vào năm 1941 và chiếm đóng bảo hộ xứ Albania cùng đốc xứ Montenegro của Ý hai năm sau.{{sfn|Shirer|1960|p=1006}}
| |
− | | |
− | == Chính trị ==
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 102-04062A, Nürnberg, Reichsparteitag, SA- und SS-Appell.jpg|thumb|220px|[[Heinrich Himmler]], Hitler, và [[Viktor Lutze]] thực hiện [[kiểu chào quốc xã]] tại [[Đại hội Nuremberg]], tháng 9 năm 1934]]
| |
− | === Ý thức hệ ===
| |
− | Quốc xã là một đảng chính trị cực hữu nổi lên trong thời kỳ kinh tế, xã hội biến động sau chiến tranh thế giới thứ Nhất.{{sfn|Spielvogel|2016|p=1}} Trước Đại Suy thoái năm 1929, đây vẫn là một đảng nhỏ và bên lề, giành 2,6% phiếu liên bang vào năm 1928.{{sfn|Evans|2005|pp=6–9}} Tuy nhiên chỉ hai năm sau đảng này đã giành 18,3% phiếu liên bang, trở thành đảng chính trị lớn thứ hai trong nghị viện.{{sfn|Kershaw|2008|p=204}} Trong thời gian ở tù sau vụ [[Đảo chính nhà hàng bia]] thất bại năm 1923, Hitler đã viết ''[[Mein Kampf]]'', cuốn sách trình bày kế hoạch chuyển đổi xã hội Đức thành một xã hội căn cứ theo chủng tộc.{{sfn|Kershaw|2008|pp=146–147}} Ý thức hệ quốc xã quy tụ những yếu tố của chủ nghĩa bài Do Thái, [[thanh lọc chủng tộc]], và [[thuyết ưu sinh]], kết hợp chúng với [[chủ nghĩa toàn Đức]] và chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ với mục tiêu giành thêm ''Lebensraum'' (không gian sinh tồn) cho người Đức.{{sfn|Evans|2008|p=7}} Chế độ nỗ lực giành lấy lãnh thổ mới bằng hành động tấn công Ba Lan và Liên Xô rồi dự định trục xuất hoặc giết hại người Do Thái và Slav sống ở đó, những đối tượng bị cho là hạ đẳng so với chủng tộc thượng đẳng Aryan và nằm trong âm mưu [[Chủ nghĩa Do Thái Bolshevik|Do Thái-Bolshevik]].{{sfn|Bendersky|2007|p=161}}{{sfn|Gellately|1996|pp=270–274}} Những người quốc xã tin rằng chỉ người Đức mới có thể đánh bại thế lực Bolshevik và cứu nhân loại thoát khỏi ách thống trị của dân Do Thái.{{sfn|Bytwerk|1998}} Còn những nhóm người mà quốc xã cho là không đáng sống gồm người khuyết tật về thể chất và trí tuệ, [[người Digan]], [[người đồng tính]], tín hữu [[Nhân chứng Jehovah]], và người không phù hợp với xã hội.{{sfn|Longerich|2010|p=49}}{{sfn|Evans|2008|p=759}}
| |
− | | |
− | Chịu ảnh hưởng của [[phong trào Völkisch|phong trào ''Völkisch'']], chế độ chống lại [[chủ nghĩa hiện đại]] văn hóa và ủng hộ phát triển quân sự sâu rộng đánh đổi lấy khía cạnh tri thức.{{sfn|Kershaw|2008|p=81}}{{sfn|Evans|2005|pp=7, 443}} Tính sáng tạo và nghệ thuật bị dập tắt trừ khi chúng có thể phục vụ cho tuyên truyền.{{sfn|Evans|2005|pp=210–211}} Đảng Quốc xã sử dụng những biểu tượng như ''[[Blutfahne]]'' (Cờ máu) và lễ nghi như những kỳ đại hội đảng để cổ vũ tình đoàn kết và củng cố uy tín của chế độ.{{sfn|Evans|2005|pp=121–122}}
| |
− | | |
− | === Chính quyền===
| |
− | [[File:WWII, Europe, Germany, "Nazi Hierarchy, Hitler, Goering, Goebbels, Hess", The Desperate Years p143 - NARA - 196509.jpg|thumb|left|Hitler, Göring, Goebbels, và [[Rudolf Hess]] trong một cuộc duyệt binh vào năm 1933]]
| |
− | Hitler cai trị nước Đức một cách độc đoán bằng việc xác nhận ''[[Führerprinzip]]'' (nguyên tắc của lãnh đạo) kêu gọi toàn thể cấp dưới tuyệt đối vâng lời. Ông xem kết cấu chính quyền như một kim tự tháp với bản thân mình, người lãnh đạo không thể sai lầm, đứng trên đỉnh. Chức vụ trong đảng không xác định qua bầu cử mà do người cấp cao hơn quyết định.{{sfn|Kershaw|2008|pp=170, 172, 181}} Đảng Quốc xã vận dụng tuyên truyền để xây dựng sự [[sùng bái cá nhân]] xung quanh Hitler.{{sfn|Evans|2005|p=400}} Các nhà sử học như Kershaw nhấn mạnh kỹ năng hùng biện của Hitler có tác động đến tâm lý.{{sfn|Kershaw|2008|pp=105–106}} Roger Gill phát biểu: "những bài diễn thuyết cảm động của ông ta đã chiếm lấy trái tim và tâm trí của rất nhiều người Đức: ông ta gần như thôi miên thính giả của mình".{{sfn|Gill|2006|p=259}}
| |
− | | |
− | Mặc dù các quan chức hàng đầu nghe theo chính sách của Hitler và báo cáo lên ông nhưng họ có quyền tự chủ đáng kể.{{sfn|Kershaw|2001|p=253}} Hitler mong đợi họ "làm việc hướng về lãnh tụ" để chủ động xúc tiến chính sách và hành động tuân theo mục tiêu của đảng và mong muốn của Hitler mà không cần ông tham gia ra quyết định hàng ngày.{{sfn|Kershaw|2008|pp=320–321}} Chính phủ là một tập hợp các bè phái vô tổ chức do giới tinh hoa đảng cầm đầu, nhóm đấu tranh để giành giật quyền lực và sự tín nhiệm của Hitler.{{sfn|McElligott|Kirk|Kershaw|2003|p=6}} Kiểu cách lãnh đạo của Hitler là ban những mệnh lệnh mâu thuẫn xuống cấp dưới, không phân định rạch ròi nhiệm vụ và trách nhiệm giữa người này và người kia.{{sfn|Speer|1971|p=281}} Bằng cách này ông cổ vũ sự ngờ vực, cạnh tranh, đấu đá giữa thuộc hạ để củng cố và nâng tầm tối đa quyền lực của mình.{{sfn|Manvell|Fraenkel|2007|p=29}}
| |
− | | |
− | Những sắc lệnh ''[[Reichsstatthalter]]'' liên tiếp trong khoảng 1933 đến 1935 đã bãi bỏ ''Länder'' (bang cấu thành) của nước Đức và thay thế chúng bằng đơn vị hành chính mới là ''Gaue'' do ''[[Gauleiter]]'' cai quản.{{sfn|Evans|2005|pp=48–49}} Thay đổi này chưa bao giờ được thực thi trọn vẹn khi mà Länder vẫn được dùng làm đơn vị hành chính cho một số phòng ban chính phủ như giáo dục. Điều này dẫn đến một mớ hỗn độn trách nhiệm và quyền hạn chồng chéo quan liêu, nét đặc thù trong phong cách hành chính của chế độ quốc xã.{{sfn|Freeman|1995|p=6}}
| |
− | | |
− | Công chức Do Thái mất việc làm vào năm 1933 trừ những người từng thực thi nghĩa vụ quân sự trong chiến tranh thế giới thứ Nhất. Các đảng viên hoặc người ủng hộ đảng được bổ nhiệm thay thế vị trí của họ.{{sfn|Evans|2005|pp=14–15, 49}} Luật Chính quyền Địa phương 1935 đã hủy bỏ các cuộc bầu cử địa phương và thị trưởng do Bộ trưởng Nội vụ tiến cử như một phần của quá trình ''Gleichschaltung''.{{sfn|Evans|2005|p=49}}
| |
− | | |
− | === Luật pháp ===
| |
− | [[File:Nuremberg_laws.jpg|thumb|Biểu đồ phân loại chủng tộc [[giả khoa học]] được dùng trong những chính sách chủng tộc của Đức Quốc xã]]
| |
− | Tháng 8 năm 1934, công chức và quân nhân bị yêu cầu tuyên thệ phục tùng Hitler vô điều kiện. Phép tắc này trở thành nền tảng của ''Führerprinzip'', khái niệm rằng lời nói của Hitler xếp trên mọi luật lệ hiện hành.{{sfn|Evans|2005|pp=43–44}} Mọi hành động đã được Hitler phê chuẩn, kể cả giết người, thì đều là hợp pháp.{{sfn|Evans|2005|p=45}} Tất cả pháp chế do bộ trưởng nội các đề xuất đều phải qua phê duyệt của văn phòng phó lãnh tụ [[Rudolf Hess]], người còn có quyền bác bỏ những sự bổ nhiệm công chức hàng đầu.{{sfn|Evans|2005|p=46}}
| |
− | | |
− | Hầu hết những bộ luật phù hợp và hệ thống tư pháp của Cộng hòa Weimar được giữ lại để đối phó với tội phạm phi chính trị.{{sfn|Evans|2005|p=75}} Các tòa tuyên và thi hành nhiều án tử hình hơn trước khi quốc xã lên nắm quyền.{{sfn|Evans|2005|p=75}} Người nào bị kết phạm ba tội trở lên, dù là tội nhỏ, có thể bị xem là có thói quen phạm tội và giam vô thời hạn.{{sfn|Evans|2005|p=76}} Gái mại dâm và kẻ móc túi bị phán xét là tội phạm vốn dĩ và mối đe dọa đến cộng đồng. Hàng ngàn người đã bị bắt và bỏ tù vô thời hạn mà không qua xét xử.{{sfn|Evans|2005|pp=79–80}}
| |
− | | |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 183-J03166, Berlin, Amtsübernahme Dr. Thierack.jpg|thumb|left|220px|Cuộc gặp của bốn nhà luật học đã áp đặt ý thức hệ quốc xã lên hệ thống luật pháp của Đức (trái sang phải: [[Roland Freisler]], [[Franz Schlegelberger]], [[Otto Georg Thierack]], và [[Curt Rothenberger]])]]
| |
− | | |
− | Một loại tòa án mới là ''[[Volksgerichtshof]]'' (Tòa án Nhân dân) được thành lập vào năm 1924 để đối phó với tội phạm chính trị.{{sfn|Evans|2005|pp=68, 70}} Tòa này đã tuyên hơn 5.000 án tử hình cho đến khi giải thể vào năm 1945.{{sfn|Evans|2008|p=514}} Các tội mà có thể nhận án tử bao gồm theo cộng sản, in tờ rơi xúi giục nổi loạn, hay đem Hitler và những lãnh đạo đảng khác ra làm trò cười.{{sfn|Evans|2005|p=72}} Gestapo đảm trách công tác trị an để thi hành ý thức hệ quốc xã với việc truy lùng, bắt giam tội phạm chính trị, người Do Thái, và đối tượng không mong muốn khác {{sfn|Weale|2012|p=154}} Tù nhân chính trị mới được thả thường bị Gestapo bắt lại ngay lập tức và giam trong một trại tập trung.{{sfn|Evans|2005|p=73}}
| |
− | | |
− | Quốc xã lợi dụng tuyên truyền để truyền bá quan niệm ''[[Rassenschande]]'' (ô uế chủng tộc), qua đó biện minh cho sự cần thiết của luật về chủng tộc.{{sfn|Evans|2005|pp=539, 551}} Vào tháng 9 năm 1935 các đạo luật Nuremberg được ban hành mà ban đầu cấm quan hệ tình cảm và kết hôn giữa người Aryan và Do Thái, về sau mở rộng đối tượng bao gồm "người Digan, da đen hay con ngoài giá thú của họ".{{sfn|Gellately|2001|p=216}} Luật này còn cấm thuê phụ nữ Đức dưới 45 tuổi vào làm người giúp việc trong các gia đình Do Thái.{{sfn|Kershaw|2008|p=346}} Đạo luật Công dân phát biểu rằng chỉ "người Đức hoặc dòng dõi liên quan" mới là công dân,{{sfn|Evans|2005|p=544}} do vậy người Do Thái và người ngoài Aryan khác đã bị tước đoạt tư cách công dân Đức. Luật này còn cho phép những người quốc xã bác bỏ tư cách công dân của bất kỳ ai không ủng hộ chế độ nhiệt thành.{{sfn|Evans|2005|p=544}} Một sắc lệnh bổ sung ban hành tháng 11 định nghĩa người Do Thái là bất kỳ người nào có ba ông bà là người Do Thái, hoặc hai ông bà và theo đức tin Do Thái.{{sfn|Kershaw|2008|p=347}}
| |
− | {{clear}}
| |
− | == Quân sự và bán quân sự ==
| |
− | === Wehrmacht ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 101I-218-0510-22, Russland-Süd, Panzersoldat.jpg|thumb|Xe tăng và xe bọc thép khác của ''[[Panzerwaffe]]'' gần Stalingrad, 1942]]
| |
− | Lực lượng vũ trang thống nhất của Đức từ 1935 đến 1945 được gọi là ''[[Wehrmacht]]'' (lực lượng vệ quốc), bao gồm ''[[Lục quân Đức (Wehrmacht)|Heer]]'' (lục quân), ''[[Kriegsmarine]]'' (hải quân), và ''[[Luftwaffe]]'' (không quân). Kể từ ngày 2 tháng 8 năm 1934, các thành viên của lực lượng vũ trang bị yêu cầu tuyên thệ phục tùng cá nhân Hitler vô điều kiện. Trái với lời thề trước đó đòi hỏi trung thành với hiến pháp và cơ sở hợp pháp của quốc gia, lời thề mới ép buộc quân nhân vâng lời Hitler kể cả khi họ có nhận lệnh làm gì đó phi pháp.{{sfn|Evans|2005|pp=43–45}} Hitler chỉ thị quân đội phải phớt lờ hay thậm chí hỗ trợ hậu cần cho ''[[Einsatzgruppen]]'', những toán quân tử thần di động là thủ phạm sát hại hàng triệu người ở Đông Âu, trong tình huống có thể.{{sfn|Longerich|2010|p=146}} Binh sĩ ''Wehrmacht'' cũng trực tiếp can dự vào [[Holocaust]] với hành vi bắn chết dân thường hay tiến hành diệt chủng dưới vỏ bọc hoạt động chống kháng quân.{{sfn|Longerich|2010|pp=242–247}} Theo chỉ dẫn của đảng, người Do Thái là kẻ xúi bẩy kháng chiến do đó cần phải bị tiêu diệt.{{sfn|Kershaw|2000b|p=467}} Vào ngày 8 tháng 7 năm 1941, Heydrich thông báo toàn thể người Do Thái ở những lãnh thổ chinh phạt phía đông đều được xem là kháng quân và ra lệnh bắn bỏ mọi nam giới Do Thái tuổi từ 15 đến 45.{{sfn|Longerich|2010|p=198}} Đến tháng 8 phạm vi đối tượng mở rộng ra toàn bộ dân Do Thái.{{sfn|Longerich|2010|p=207}}
| |
− | | |
− | Bất chấp những nỗ lực chuẩn bị về quân sự, nền kinh tế sẽ không thể duy trì một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài. Một chiến lược được phát triển dựa trên chiến thuật ''[[Blitzkrieg]]'' (chiến tranh chớp nhoáng) có đặc điểm vận dụng các đòn tấn công phối hợp nhanh chóng và tránh những điểm mạnh của đối phương. Trình tự tiến hành lần lượt là pháo kích, không kích, xe tăng tấn công và cuối cùng là bộ binh xông lên để nắm chắc lãnh thổ đã chiếm.{{sfn|Constable|1988|pp=139, 154}} Chiến thắng liên tiếp đến với quốc xã tới giữa năm 1940 nhưng việc không thể đánh bại Anh là bước ngoặt lớn đầu tiên của cuộc chiến. Hành động tấn công Liên Xô và thất bại quyết định tại Stalingrad đã buộc quân đội Đức phải thoái lui rồi cuối cùng là bại trận.{{sfn|Evans|2008|pp=760–761}} Tổng số binh sĩ phục vụ trong ''Wehrmacht'' từ năm 1935 đến 1945 là khoảng 18,2 triệu, trong đó 5,3 triệu người đã tử trận.{{sfn|Overmans|2000|p=Bd. 46}}
| |
− | | |
− | === SA và SS ===
| |
− | {{multiple image
| |
− | | align = left
| |
− | | direction = vertical
| |
− | | width = 230
| |
− | | image1 = Bundesarchiv Bild 102-14468, Berlin, NS-Boykott gegen jüdische Geschäfte crop.jpg
| |
− | | image2 = Bundesarchiv Bild 183-H15390, Berlin, Kaserne der LSSAH, Vergatterung.jpg
| |
− | | footer = (Hình trên) Các thành viên SA tiến hành tẩy chay cửa hàng của người Do Thái, 1 tháng 5 năm 1933<br />(Hình dưới) Xét duyệt binh sĩ ''[[Sư đoàn Panzer SS số 1 Leibstandarte SS Adolf Hitler|Leibstandarte SS Adolf Hitler]]'' ở Berlin, 1938}}
| |
− | ''[[Sturmabteilung]]'' (SA, Biệt đội Bão táp, hay Quân áo nâu) thành lập năm 1921 là tổ chức bán quân sự đầu tiên của Đảng Quốc xã. Nhiệm vụ ban đầu của họ là bảo vệ các lãnh đạo đảng tại những kỳ họp và đại hội.{{sfn|Weale|2012|pp=15–16}} Họ còn tham gia những trận chiến đường phố đối đầu lực lượng của các đảng chính trị địch thủ và hành động bạo lực chống người Do Thái hoặc đối tượng khác.{{sfn|Weale|2012|pp=70, 166}} Dưới sự lãnh đạo của [[Ernst Röhm]] thì đến năm 1934 quân số SA đã tăng đến hơn nửa triệu, tính cả quân dự bị là 4,5 triệu, vào lúc mà quân đội chính quy vẫn bị giới hạn ở con số 100.000 người bởi hòa ước Versailles.{{sfn|Weale|2012|p=88}}
| |
− | | |
− | Röhm mong muốn làm tư lệnh quân đội và sáp nhập quân đội với SA vào làm một.{{sfn|Kershaw|2008|p=306}} Hindenburg và Bộ trưởng Quốc phòng [[Werner von Blomberg]] đe dọa áp đặt thiết quân luật nếu SA không giảm thiểu những hành vi đáng lo ngại.{{sfn|Tooze|2006|p=67}} Vì xem SA như một mối đe dọa, Hitler đã ra lệnh trừ khử giới lãnh đạo SA trong đó có Rohm. Sau cuộc thanh trừng năm 1934 thì SA không còn là thế lực đáng gờm.{{sfn|Kershaw|2008|pp=306–313}}
| |
− | | |
− | Từ một đơn vị vệ sĩ nhỏ đặt dưới sự bảo trợ của SA, ''[[Schutzstaffel]]'' (SS, Đội cận vệ) đã phát triển thành một trong những tổ chức lớn và hùng mạnh bậc nhất ở Đức Quốc xã.{{sfn|Weale|2012|pp=1, 26–29}} SS do ''[[Reichsführer-SS]]'' [[Heinrich Himmler]] lãnh đạo từ năm 1929 đã có quân số hơn 250.000 tính đến năm 1938.{{sfn|Longerich|2012|pp=113, 255}} Himmler ban đầu hình dung SS là một đội vệ sĩ ưu tú, hàng phòng vệ cuối cùng của Hiler.{{sfn|Longerich|2012|pp=122–123}} Nhánh quân sự của SS là [[Waffen-SS]] đã trở thành lục quân thứ hai. Waffen-SS lệ thuộc vào quân đội chính quy về khoản trang thiết bị, vũ khí hạng nặng và đa số đơn vị do [[Oberkommando der Wehrmacht|Bộ Tư lệnh Tối cao các Lực lượng Vũ trang]] (OKW) quản lý về phương diện chiến thuật.{{sfn|Stein|2002|pp=18, 23, 287}}{{sfn|Weale|2012|p=195}} Đến hết năm 1942 những yêu cầu về chủng tộc và quy trình chọn lựa thành viên nghiêm ngặt đã không còn được tuân thủ như lúc đầu. Sang năm 1943 Waffen-SS không còn được xem là lực lượng chiến đấu ưu tú khi mà tuyển mộ chỉ nhắm mục tiêu gia tăng quân số.{{sfn|Wegner|1990|pp=307, 313, 325, 327–331}}
| |
− | | |
− | Các đơn vị SS đã phạm nhiều tội ác chiến tranh chống lại dân thường và tù binh.{{sfn|Stein|2002|pp=75–76, 276–280}} Kể từ năm 1935 SS tập trung bức hại người Do Thái, dồn ép họ vào trong những khu Do Thái (ghetto) và trại tập trung.{{sfn|Longerich|2012|p=215}} Sau khi chiến tranh thế giới thứ Hai bùng phát các đơn vị ''[[Einsatzgruppe]]'' đã theo chân quân đội đến Ba Lan và Liên Xô, sát hại hơn hai triệu người, trong đó 1,3 triệu là Do Thái, trong giai đoạn 1941 đến 1945.{{sfn|Kershaw|2008|pp=518–519}} Một phần ba thành viên ''Einsatzgruppe'' được tuyển mộ từ hàng ngũ Waffen-SS.{{sfn|Bartrop|Jacobs|2014|p=1424}}{{sfn|Rhodes|2002|p=257}} ''[[SS-Totenkopfverbände]]'' (đơn vị đầu lâu) điều hành các trại tập trung và trại hành quyết, nơi có hàng triệu người bị giết hại.{{sfn|Weale|2012|p=116}}{{sfn|Evans|2008|p=318}} Số nhân viên Waffen-SS phục vụ trong các trại lên cao nhất khoảng 60.000.{{sfn|Wiederschein|2015}}
| |
− | | |
− | Vào năm 1931 Himmler thành lập cơ quan tình báo SS trở nên được biết đến là ''[[Sicherheitsdienst]]'' (SD, Sở An ninh) và giao cho đại diện của mình là Heydrich quản lý.{{sfn|Longerich|2012|p=125}} Tổ chức này có nhiệm vụ truy lùng, bắt giữ những người cộng sản và kẻ thù chính trị khác.{{sfn|Longerich|2012|pp=212–213}}{{sfn|Weale|2012|p=411}} Himmler thiết lập sự khởi đầu của một nền kinh tế song song do Văn phòng Chỉ đạo Hành chính và Kinh tế SS bảo trợ. Công ty cổ phần mẹ này sở hữu các tập đoàn nhà đất, nhà máy, và các nhà xuất bản.{{sfn|Sereny|1996|pp=323, 329}}{{sfn|Evans|2008|p=343}}
| |
− | | |
− | == Kinh tế ==
| |
− | === Nền kinh tế quốc gia ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 146-2007-0066, IG-Farbenwerke Auschwitz.jpg|thumb|250px|Nhà máy dầu tổng hợp [[IG Farben]] đang được thi công tại [[Monowitz Buna Werke|Monowitz]] (1941). Đây là một phần của khu phức hợp tại [[trại tập trung Auschwitz]].]]
| |
− | Vấn đề kinh tế cấp bách nhất mà những người quốc xã phải đối mặt ban đầu là tỷ lệ thất nghiệp 30% trên toàn quốc.{{sfn|DeLong|1997}} Tháng 5 năm 1933, nhà kinh tế học đồng thời là Chủ tịch [[Reichsbank]] và Bộ trưởng Kinh tế [[Hjalmar Schacht]] đã sáng lập một kế hoạch xử lý thâm hụt tài chính. Các dự án vốn được thanh toán bằng việc phát hành lệnh phiếu gọi là Mefo. Reichsbank in tiền khi phiếu được xuất trình để thanh toán. Hitler và đội ngũ kinh tế kỳ vọng hoạt động mở rộng lãnh thổ sắp tới sẽ mang lại những biện pháp giúp trả món nợ quốc gia đang tăng vọt.{{sfn|Evans|2005|p=345}} Nhờ năng lực quản trị của Schacht, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm mạnh hơn bất kỳ nước nào khác trong Đại Suy thoái.{{sfn|DeLong|1997}} Kinh tế hồi phục nhưng không đều với việc số giờ làm giảm và hàng thiết yếu lúc đủ lúc thiếu, xua tan ảo tưởng về chế độ ngay từ năm 1934.{{sfn|Tooze|2006|p=97}}
| |
− | | |
− | Tháng 10 năm 1933 chính quyền sung công [[Junkers|Xưởng Máy bay Junkers]]. Dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Hàng không Hermann Göring, sản lượng máy bay tăng vọt tương tự như những nhà máy khác. Từ một lực lượng lao động 3.200 người sản xuất 100 máy bay mỗi năm vào năm 1932 thì chưa đến 10 năm sau ngành công nghiệp đã tăng trưởng lên 25.000 công nhân làm ra hơn 10.000 máy bay tân tiến mỗi năm.{{sfn|Tooze|2006|pp=125–127}}
| |
− | | |
− | Một bộ máy quan liêu phức tạp được lập nên để điều chỉnh hoạt động nhập khẩu nguyên liệu thô và thành phẩm với ý định loại bỏ sự cạnh tranh từ nước ngoài trong thị trường nội địa và cải thiện [[cán cân thanh toán]] quốc gia. Chính phủ khuyến khích phát triển những phương pháp tổng hợp thay thế cho các loại vật liệu như dầu mỏ và vải dệt.{{sfn|Tooze|2006|p=131}} Vào năm 1933 khi nguồn cung thừa thãi và giá xăng dầu thấp, chính phủ đã đề nghị thỏa thuận chia sẻ lợi nhuận với [[IG Farben]], bảo đảm cho họ 5 phần trăm vốn đầu tư vào nhà máy dầu tổng hợp của họ tại [[Leuna]]. Nhà nước sẽ thu hồi bất kỳ khoản lợi nhuận nào vượt quá con số này. Đến năm 1936 Farben hối hận với thỏa thuận do lợi nhuận dư đang được sinh ra.{{sfn|Tooze|2006|pp=106, 117–118}} Trong một nỗ lực khác nhằm đảm bảo nguồn cung xăng dầu thời chiến, Đức đã hăm dọa buộc [[Romania]] ký một hiệp định thương mại vào tháng 3 năm 1939.{{sfn|Tooze|2006|pp=308–309}}
| |
− | | |
− | [[File:German Autobahn 1936 1939.jpg|thumb|left|250px|''[[Reichsautobahn|Autobahn]]'', cuối thập niên 1930]]
| |
− | | |
− | Các dự án công trình công cộng lớn được cấp vốn nhờ bội chi bao gồm việc thi công hệ thống ''[[Reichsautobahn|Autobahnen]]'' và tài trợ cho các chương trình về nhà ở và cải thiện nông nghiệp do chế độ cũ khởi xướng.{{sfn|Evans|2005|pp=322–326, 329}} Để kích thích ngành công nghiệp xây dựng, chính phủ đề nghị tín dụng đến các doanh nghiệp tư nhân và trợ cấp cho việc mua và sửa chữa nhà ở.{{sfn|Evans|2005|p=320}} Trong hoàn cảnh người vợ không gia nhập lực lượng lao động, những cặp đôi trẻ dòng dõi Aryan có ý định kết hôn có thể tiếp cận khoản vay lên tới 1.000 Reichsmark và số nợ phải trả sẽ giảm 25 phần trăm tương ứng mỗi đứa con sinh ra.{{sfn|Evans|2005|pp=330–331}} Đến năm 1937 phụ nữ đã có thể tìm việc làm bên ngoài do thiếu hụt lao động có tay nghề.{{sfn|Evans|2005|p=166}}
| |
− | | |
− | Hình dung về viễn cảnh xe hơi trở nên phổ quát, Hitler đã sắp xếp để nhà thiết kế [[Ferdinand Porsche]] phác thảo kế hoạch cho ''KdF-wagen'', ý định biến nó thành loại xe mà bất kỳ ai cũng có cơ hội sở hữu. Một nguyên mẫu của xe này đã được trưng bày tại [[Triển lãm Ô tô Quốc tế]] ở Berlin vào ngày 17 tháng 2 năm 1939. Do chiến tranh thế giới thứ Hai bùng phát nên nhà máy đã chuyển sang sản xuất phương tiện quân sự. Không có chiếc nào được bán ra cho đến sau chiến tranh, lúc mà nó được đổi tên thành [[Volkswagen Beetle|Volkswagen]] (xe của nhân dân).{{sfn|Evans|2005|pp=327–328, 338}}
| |
− | | |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 101III-Reprich-012-08, Wolfschanze, Hitler, Ley, Porsche und Göring.jpg|right|thumb|250px|(từ trái sang) Hitler, Robert Ley, Ferdinand Porsche, và Hermann Göring, 1942]]
| |
− | | |
− | Số người thất nghiệp đã giảm từ sáu triệu khi quốc xã lên cầm quyền năm 1933 xuống dưới một triệu năm 1937.{{sfn|Evans|2005|pp=328, 333}} Điều này một phần do việc loại phụ nữ ra khỏi lực lượng lao động.{{sfn|Evans|2005|p=331}} Tiền lương thực tế giảm 25 phần trăm trong khoảng 1933 và 1938.{{sfn|DeLong|1997}} Sau khi công đoàn giải tán vào tháng 5 năm 1933, chính quyền đã chiếm đoạt ngân quỹ và bắt giữ lãnh đạo của họ,{{sfn|Kershaw|2008|p=289}} kể cả người nỗ lực hợp tác với quốc xã.{{sfn|Shirer|1960|p=202}} Một tổ chức mới là [[Mặt trận Lao động Đức]] được thành lập và đặt dưới sự quản trị của công chức [[Robert Ley]].{{sfn|Kershaw|2008|p=289}} Số giờ làm việc trung bình một tuần tăng từ 43 giờ năm 1933 lên 47 giờ năm 1939.{{sfn|McNab|2009|pp=54, 71}}
| |
− | | |
− | Đến đầu năm 1934 thì trọng tâm được chuyển sang tái vũ trang. Trong năm 1935 phí tổn quân sự đã chiếm đến 73 phần trăm chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của chính phủ.{{sfn|Tooze|2006|pp=61–62}} Vào ngày 18 tháng 10 năm 1936 Hitler bổ nhiệm Göring làm Toàn quyền Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu tăng tốc tái vũ trang.{{sfn|Evans|2005|pp=357–360}} Bên cạnh kêu gọi đẩy nhanh tiến độ thi công các nhà máy như thép hay cao su tổng hợp, Göring còn khởi động kiểm soát giá cả và tiền lương cũng như hạn chế phát hành [[cổ tức]].{{sfn|DeLong|1997}} Chính phủ chi tiêu mạnh tay cho tái vũ trang bất chấp thâm hụt gia tăng.{{sfn|Evans|2005|p=360}} Các kế hoạch phát triển đồ sộ không quân và hải quân mà được hé lộ vào cuối năm 1938 đã không thể thực hiện do nước Đức thiếu nguồn tài chính, nguyên liệu để xây dựng những đơn vị mong muốn và thiếu nhiên liệu để duy trì vận hành chúng.{{sfn|Tooze|2006|p=294}} Trước năm 1935 ''Reichswehr'' bị hạn chế quân số ở ngưỡng 100.000 bởi những điều khoản của hòa ước Versailles. Sau đó khi nghĩa vụ quân sự bắt buộc được đề ra thì lực lượng này có 750.000 lính tại ngũ cùng một triệu lính dự bị tại thời điểm bắt đầu chiến tranh thế giới thứ Hai.{{sfn|Evans|2005|pp=141–142}} Số người thất nghiệp tiếp tục giảm xuống 301.800 vào tháng 1 năm 1939 rồi đến tháng 9 năm đó chỉ còn 77.500.{{sfn|McNab|2009|p=59}}
| |
− | | |
− | === Kinh tế thời chiến và lao động khổ sai ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 146-2007-0074, IG-Farbenwerke Auschwitz.jpg|thumb|Phụ nữ đeo huy hiệu ''[[Ostarbeiter]]'' tại nhà máy [[IG Farben]] ở Auschwitz]]
| |
− | Loại hình kinh tế chiến tranh của Đức Quốc xã là [[kinh tế hỗn hợp]], kết hợp thị trường tự do với kế hoạch tập trung. Nhà sử học [[Richard Overy]] mô tả nó như ở đâu đó giữa kinh tế chỉ huy của Liên Xô và hệ thống tư bản chủ nghĩa của Hoa Kỳ.{{sfn|Overy|2006|p=252}}
| |
− | | |
− | Vào năm 1942, Hitler bổ nhiệm [[Albert Speer]] làm Bộ trưởng Vũ trang thay thế người tiền nhiệm [[Fritz Todt]] mới qua đời.{{sfn|Speer|1971|pp=263–264}} Chế độ phân phối hàng tiêu dùng thời chiến khiến người dân tiết kiệm hơn còn các khoản quỹ được chính phủ vay để hỗ trợ nỗ lực chiến tranh.{{sfn|Tooze|2006|pp=354–356}} Tính đến năm 1944, chiến tranh đang làm hao tốn 75 phần trăm [[tổng sản phẩm nội địa]] của Đức so với 60 phần trăm của Liên Xô và 55 phần trăm của Anh.{{sfn|Evans|2008|p=333}} Speer cải thiện sản lượng bằng tập trung hóa công tác lập kế hoạch và quản lý, giảm sản xuất hàng tiêu dùng, sử dụng [[Lao động khổ sai dưới ách cai trị của Đức trong chiến tranh thế giới thứ Hai|nô lệ và lao động khổ sai]].{{sfn|Speer|1971|p=337}}{{sfn|Fest|1999|pp=142–44, 146–50}} Nền kinh tế thời chiến rốt cục lệ thuộc chủ yếu vào việc thuê lao động nô lệ quy mô lớn. Đức nhập khẩu và nô dịch hóa khoảng 12 triệu người từ 20 nước châu Âu để làm việc trong nhà máy và trên nông trường, với khoảng 75 phần trăm là từ Đông Âu.{{sfn|Beyer & Schneider}} Nhiều lao động đã thiệt mạng trong những cuộc không kích của Đồng minh bởi họ ít được bảo vệ. Điều kiện sống nghèo nàn dẫn đến tỷ lệ cao bệnh tật, thương tật, tử vong, cùng hành vi phá hoại và phạm tội.{{sfn|Panayi|2005|pp=490, 495}} Kinh tế thời chiến còn phụ thuộc vào cướp bóc quy mô lớn, ban đầu là nhà nước chiếm đoạt tài sản của người Do Thái rồi về sau là bóc lột tài nguyên của những lãnh thổ chiếm đóng.{{sfn|Hamblet|2008|pp=267–268}}
| |
− | | |
− | Công nhân nước ngoài đến Đức được phân thành bốn nhóm: công nhân khách trú, tù binh, công nhân dân thường, và công nhân miền Đông. Có những quy định khác nhau dành cho mỗi nhóm. Quốc xã cấm quan hệ tình cảm giữa người Đức và công nhân nước ngoài.{{sfn|Nazi forced labour|1942}}{{sfn|Special treatment|1942}}
| |
− | | |
− | Đến năm 1944 có hơn nửa triệu phụ nữ đóng vai quân bổ sung trong lực lượng vũ trang Đức.{{sfn|USHMM, ''Women in the Third Reich''}} Số phụ nữ được thuê làm công ăn lương chỉ tăng 271.000 (1,8 phần trăm) giai đoạn 1939 đến 1944.{{sfn|Evans|2008|p=361}} Khi sản lượng hàng tiêu dùng bị cắt giảm, phụ nữ rời bỏ những ngành công nghiệp này để gia nhập nền kinh tế chiến tranh. Họ còn đảm nhận những công việc của nam giới trước kia, nhất là trên nông trường và trong những cửa hàng gia đình.{{sfn|Evans|2008|pp=358–359}}
| |
− | | |
− | Những đợt [[Ném bom chiến lược trong chiến tranh thế giới thứ Hai|ném bom chiến lược]] của Đồng minh nhằm vào các nhà máy tinh chế xăng và dầu tổng hợp, hệ thống vận tải đặc biệt là các bãi đường sắt và kênh đào, gây thiệt hại rất nặng nề.{{sfn|Davis|1995}} Tới tháng 9 năm 1944 ngành công nghiệp vũ trang bắt đầu suy sụp. Hai tháng sau, sản lượng than đá không còn đạt mục tiêu khiến việc sản xuất vũ khí mới không thể thực hiện.{{sfn|Speer|1971|pp=524–527}} Overy lập luận rằng hoạt động ném bom đã kéo căng nền kinh tế chiến tranh buộc nước Đức phải điều động một phần tư nhân lực và công nghiệp cho công tác phòng không, điều rất có thể đã giúp rút ngắn cuộc chiến.{{sfn|Overy|2006|pp=128–130}}
| |
− | | |
− | === Khai thác tài chính các lãnh thổ chinh phạt ===
| |
− | [[File:Looted Art - German loot stored at Schlosskirche Ellingen - Ellingen (Bavaria - Germany).jpg|thumb|left|Của cải cướp bóc cất giữ tại Schlosskirche [[Ellingen]], Bayern, tháng 4 năm 1945]]
| |
− | Trong tiến trình chiến tranh, quốc xã đã có hành vi cướp bóc đáng kể từ các nước châu Âu chiếm đóng. Nhà sử học và phóng viên chiến trường [[William L. Shirer]] viết: "Tổng số của cải mà quốc xã cướp đi sẽ không bao giờ được biết, nó xem ra vượt quá năng lực tính toán chính xác của con người."{{sfn|Shirer|1960|p=943}} Quốc xã thường hay áp đặt khoản phí chiếm đóng lớn, chiếm đoạt vàng dự trữ và cổ phần nước ngoài khác từ [[ngân hàng nhà nước]] của những nước chiếm đóng. Tính đến hết chiến tranh, phí tổn chiếm đóng mà quốc xã tính là 60 tỷ Reichsmark, chỉ riêng Pháp đã phải trả 31,5 tỷ. [[Ngân hàng Pháp]] bị ép cung cấp 4,5 tỷ Reichsmark dưới dạng tín dụng, trong khi Pháp Vichy bị đòi thêm 500.000 Reichsmark dưới dạng thù lao và phí linh tinh khác. Các quốc gia khác cũng bị bóc lột tương tự. Sau chiến tranh, [[Cục Khảo sát Ném bom Chiến lược Hoa Kỳ]] kết luận Đức Quốc xã đã thu về 104 tỷ Reichsmark phí chiếm đóng và của cải vận chuyển từ các nước châu Âu, bao gồm hai phần ba tổng sản phẩm nội địa của Bỉ và Hà Lan.{{sfn|Shirer|1960|p=943}}
| |
− | | |
− | Những thứ bị cướp đi bao gồm các bộ sưu tập nghệ thuật cá nhân và công cộng, đồ tạo tác, kim loại quý, sách, và tài sản cá nhân. Hitler và Göring quan tâm đến những kho tàng nghệ thuật cướp được từ các nước châu Âu.{{sfn|Shirer|1960|p=945}} Hitler có kế hoạch lấy những tác phẩm nghệ thuật đánh cắp để lấp đầy gian phòng của ''[[Führermuseum]]'' (Bảo tàng Lãnh tụ),{{sfn|Spotts|2002|pp=377–378}} còn Göring thì để phục vụ sở thích sưu tầm cá nhân. Trong vòng sáu tháng sau cuộc xâm lược Ba Lan, Göring đã lấy đi hầu hết tác phẩm nghệ thuật của nước này và cuối cùng giá trị bộ sưu tập lên đến hơn 50 triệu Reichsmark.{{sfn|Shirer|1960|p=945}} Vào năm 1940, [[Đội đặc nhiệm Reichsleiter Rosenberg]] được thành lập để đánh cắp vật phẩm văn hóa và nghệ thuật từ những bộ sưu tập, thư viện, bảo tàng tư nhân và công cộng trên khắp châu Âu. Pháp là nước bị mất mát nhiều nhất. Khoảng 26.000 toa tàu chứa kho tàng nghệ thuật, đồ nội thất, cùng vật phẩm khác đã được vận chuyển từ Pháp về Đức.{{sfn|Manvell|2011|pp=283–285}} Đến tháng 1 năm 1941, Rosenberg ước tính giá trị số hàng cưỡng đoạt từ Pháp là hơn một tỷ Reichsmark.{{sfn|Shirer|1960|p=946}} Bên cạnh đó, binh sĩ cũng lấy cắp hoặc mua những thứ mà đang trở nên khó kiếm ở Đức như sản vật hoặc hàng may mặc để gửi về nhà.{{sfn|Evans|2008|p=334}}
| |
− | | |
− | Hàng hóa và nguyên liệu thô cũng bị lấy đi. Trong thời kỳ chiến tranh, quốc xã đã chiếm đoạt 80 phần trăm sản lượng dầu mỏ, 74 phần trăm sản lượng thép, và 9.000.000 tấn ngũ cốc bao gồm 75% yến mạch của Pháp. Giá trị số hàng này ước đạt 184,5 tỷ [[franc]]. Ở Ba Lan, quốc xã cướp bóc nguyên liệu thô khi mà cuộc xâm lược còn chưa kết thúc.{{sfn|Shirer|1960|p=944}}
| |
− | | |
− | Liên Xô là nạn nhân tiếp theo sau chiến dịch Barbarossa. Chỉ trong năm 1943 9.000.000 tấn ngũ cốc, 2.000.000 tấn rơm, 3.000.000 tấn khoai tây, và 662.000 tấn thịt đã được vận chuyển về Đức. Quốc xã lấy đi khoảng 12 triệu con lợn và 13 triệu con cừu trong thời gian chiếm đóng. Ước tính trị giá số hàng cướp đoạt là 4 tỷ Reichsmark. Con số này khá thấp so với những nước châu Âu khác có thể phần nào do chiến tranh tàn phá trên mặt trận phía Đông.{{sfn|Shirer|1960|pp=943–944}}
| |
− | | |
− | == Chính sách chủng tộc và thuyết ưu sinh ==
| |
− | === Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và bài Do Thái ===
| |
− | Phân biệt chủng tộc và bài Do Thái là những giáo lý cơ bản của chế độ quốc xã. Chính sách chủng tộc của Đức Quốc xã dựa trên niềm tin của họ về sự tồn tại của một [[chủng tộc thượng đẳng]] ưu việt. Những người quốc xã công nhận tình trạng xung đột giữa chủng tộc thượng đẳng [[chủng tộc Aryan|Aryan]] và những chủng tộc hạ đẳng, nhất là Do Thái, thành phần họ xem là lai tạp đã thâm nhập xã hội và đàn áp cũng như bóc lột chủng tộc Aryan.{{sfn|Longerich|2010|pp=30–32}}
| |
− | | |
− | === Người Do Thái ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 102-14469, Berlin, Boykott-Posten vor jüdischem Warenhaus.jpg|thumb|Quốc xã tẩy chay các cửa hàng Do Thái, tháng 4 năm 1933. Các tấm biển viết: "Người Đức! Hãy tự bảo vệ mình! Đừng mua gì từ bọn Do Thái!"]]
| |
− | Quốc xã có hành động phân biệt đối xử chống người Do Thái ngay sau khi lên nắm quyền. Sau một loạt cuộc tấn công các giáo đường và cửa hàng Do Thái kéo dài một tháng do thành viên SA tiến hành thì đến ngày 1 tháng 4 năm 1933 Hitler ra lệnh tẩy chay các cửa hàng Do Thái trên toàn quốc.{{sfn|Shirer|1960|p=203}} Luật Khôi phục Ngành Dân chính Chuyên nghiệp thông qua ngày 7 tháng 4 đã buộc mọi công chức không là người Aryan từ bỏ nghề luật và công vụ.{{sfn|Majer|2003|p=92}} Các đạo luật tương tự đã sớm tước quyền hành nghề của nhiều người Do Thái khác. Vào ngày 11 tháng 4 một sắc lệnh được ban bố nêu rằng bất kỳ ai có một cha mẹ hay ông bà là người Do Thái thì không được xem là người Aryan.{{sfn|Majer|2003|p=60}} Các thành viên của [[Liên đoàn Sinh viên Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa]] đã lọc khỏi thư viện những cuốn sách không có tính Đức và hoạt động đốt sách diễn ra trên cả nước vào ngày 10 tháng 5 như một phần cuộc vận động nhằm loại bỏ ảnh hưởng Do Thái ra khỏi đời sống văn hóa.{{sfn|Longerich|2010|pp=38–39}}
| |
− | | |
− | Chế độ sử dụng bạo lực và áp lực kinh tế để khuyến khích người Do Thái tự nguyện rời đất nước.{{sfn|Longerich|2010|pp=67–69}} Các doanh nghiệp Do Thái bị cấm quảng cáo, không được phép tiếp cận thị trường hay những hợp đồng chính phủ. Công dân Do Thái bị sách nhiễu và bạo hành thể chất.{{sfn|Longerich|2010|p=41}} Nhiều thị trấn đã treo biển cấm người Do Thái đi vào.{{sfn|Shirer|1960|p=233}}
| |
− | | |
− | Vào tháng 11 năm 1938 một thanh niên người Do Thái yêu cầu được phỏng vấn đại sứ Đức ở Paris. Người này đã gặp và bắn chết thư ký tòa công sứ để phản đối cái cách gia đình mình bị đối xử ở Đức. Vụ việc đã trao cho những người quốc xã cái cớ đế kích động bạo loạn chống người Do Thái vào ngày 9 tháng 11 năm 1938. Các thành viên SA đập phá hoặc thiêu hủy những giáo đường và cơ ngơi của người Do Thái trên khắp nước Đức. Ít nhất 91 người Do Thái Đức bị giết trong cuộc bạo động mà sau này được gọi là ''[[Kristallnacht]]'' (Đêm thủy tinh vỡ).{{sfn|Kitchen|2006|p=273}}{{sfn|Longerich|2010|p=112–113}} Trong những tháng tiếp theo quốc xã áp đặt thêm những hạn chế lên người Do Thái, họ bị cấm kinh doanh hay làm việc trong những cửa hàng bán lẻ, lái xe, đến rạp phim hay thư viện, sở hữu vũ khí và học sinh Do Thái bị đuổi khỏi trường học. Cộng đồng Do Thái bị phạt một tỷ mark vì thiệt hại gây bởi ''Kristallnacht'' và mọi khoản thanh toán bảo hiểm sẽ bị tịch thu.{{sfn|Longerich|2010|p=117}} Đến năm 1939 khoảng 250.000 trong số 437.000 người Do Thái Đức đã di cư đến Hoa Kỳ, Argentina, Anh, Palestine, hay nước khác.{{sfn|Longerich|2010|p=127}}{{sfn|Evans|2005|pp=555–558}} Nhiều người chọn ở lại châu Âu lục địa. Người di cư đến Palestine được phép mang theo tài sản dưới điều khoản của [[hiệp định Haavara]] nhưng người đến nước khác phải để lại gần như toàn bộ tài sản và chúng sẽ bị chính quyền chiếm đoạt.{{sfn|Evans|2005|pp=555–558}}
| |
− | | |
− | === Người Digan ===
| |
− | Cũng như người Do Thái, [[người Digan]] là đối tượng bị áp bức từ những ngày đầu của chế độ. Họ không được phép kết hôn với người dòng dõi Đức, bị đưa đến các trại tập trung từ năm 1935 và nhiều người đã bị giết.{{sfn|Longerich|2010|p=49}}{{sfn|Evans|2008|p=759}} Sau cuộc xâm lược Ba Lan, quốc xã đã trục xuất 2.500 người Digan và [[Sinti]] đến Tổng đốc phủ Ba Lan rồi giam trong những trại lao động. Những người sống sót có thể đã bị sát hại trong các trại hành quyết như [[Trại hành quyết Bełżec|Bełżec]], [[Trại hành quyết Sobibor|Sobibor]], hay [[Treblinka]]. Cuối năm 1941 có thêm 5.000 người Sinti và Lalleri Áo bị đưa đến [[Ghetto Łódź]], ước tính một nửa trong số đó đã thiệt mạng. Số người còn sống sẽ di chuyển đến [[trại hành quyết Chelmno]] vào đầu năm 1942.{{sfn|USHMM, ''Genocide of European Roma''}}
| |
− | | |
− | Quốc xã dự định trục xuất toàn bộ người Digan ra khỏi nước Đức và giam họ trong ''Zigeunerlager'' (trại Gypsy). Himmler ra lệnh thực hiện điều này vào tháng 12 năm 1942 với một số ngoại lệ. Có khoảng 23.000 người Digan bị đưa đến [[trại tập trung Auschwitz]], 20.000 trong đó bỏ mạng.{{sfn|Rees|2005|p=248}} Ở ngoài nước Đức, người Digan thường được sử dụng làm lao động khổ sai, dù vậy cũng có không ít người bị giết. SS, lục quân Đức, và ''Einsatzgruppen'' đã sát hại 30.000 người Digan ở các nước Baltic và Liên Xô. Con số này lần lượt là 1.000 đến 12.000 ở Serbia chiếm đóng và gần 25.000 ở [[Nhà nước Croatia Độc lập]]. Cho tới khi chiến tranh kết thúc, ước tính tổng số người Digan thiệt mạng vào khoảng 220.000, tương ứng 25% dân số Digan ở châu Âu.{{sfn|USHMM, ''Genocide of European Roma''}}
| |
− | | |
− | === Người sắc tộc Ba Lan ===
| |
− | Quốc xã xem người Ba Lan là phi Aryan hạ đẳng và đã sát hại 2,7 triệu người sắc tộc Ba Lan trong thời kỳ chiếm đóng Ba Lan.{{sfn|Materski|Szarota|2009|p=9}} Dân thường Ba Lan là đối tượng bị đưa đi làm lao động khổ sai trong ngành công nghiệp Đức, giam hãm, trục xuất hàng loạt để dọn đường cho người Đức đến định cư, và tàn sát. Giới chức Đức tham gia vào nỗ lực hủy diệt văn hóa và bản sắc dân tộc Ba Lan một cách có hệ thống. Trong chiến dịch [[AB-Aktion]], nhiều giảng viên đại học và người thuộc giới trí thức Ba Lan đã bị bắt, đưa đến những trại tập trung, hoặc xử tử. Ước tính trong chiến tranh, Ba Lan mất đi 39 đến 45 phần trăm bác sĩ và nha sĩ, 26 đến 57 phần trăm luật sư, 15 đến 30 phần trăm giáo viên, 30 đến 40 phần trăm nhà khoa học và giảng viên đại học, và 18 đến 28 phần trăm giáo sĩ.{{sfn|Wrobel|1999}}
| |
− | | |
− | === Nạn nhân khác ===
| |
− | [[File:Neues Volk eugenics poster, c. 1937 (brightened).jpeg|thumb|upright=0.8|Áp phích từ Văn phòng Chính sách Chủng tộc của Đảng Quốc xã viết: "60 000 RM là tổn thất mà người mắc bệnh di truyền này gây ra cho cộng đồng trong suốt cuộc đời. Hỡi đồng bào, đó cũng là tiền của bạn."]]
| |
− | ''[[Aktion T4]]'' là chương trình tàn sát có hệ thống người tàn tật về thể chất, trí tuệ và bệnh nhân trong những bệnh viện tâm thần diễn ra chủ yếu từ năm 1939 đến 1941 nhưng vẫn tiếp tục đến khi chiến tranh kết thúc. Ban đầu nạn nhân bị ''Einsatzgruppen'' hoặc đơn vị khác bắn chết, đến đầu năm 1940 thì xe và [[phòng hơi ngạt]] cấp [[carbon monoxide]] được sử dụng.{{sfn|Longerich|2010|pp=138–141}}{{sfn|Evans|2008|pp=75–76}} Dưới [[Luật Phòng chống Con đẻ mắc Bệnh Di truyền]] ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1933, hơn 400.000 người đã bị triệt sản bắt buộc.{{sfn|Kershaw|2008|p=295}} Hơn nửa số này bị xem là khiếm khuyết trí tuệ, bao gồm không chỉ người đạt điểm số thấp trong những bài kiểm tra trí thông minh mà còn cả người lệch lạc khỏi những tiêu chuẩn mong đợi về hành vi liên quan đến tình dục, tính tiết kiệm, tính sạch sẽ. Số đông nạn nhân thuộc những nhóm thua thiệt như gái mại dâm, người nghèo, người vô gia cư, và tội phạm.{{sfn|Longerich|2010|pp=47–48}} Những đối tượng bị khủng bố và sát hại khác gồm có tín hữu Nhân chứng Jehovah, người đồng tính, người không phù hợp với xã hội, thành viên phe chính trị và tôn giáo đối lập.{{sfn|Evans|2008|p=759}}{{sfn|Niewyk|Nicosia|2000|p=45}}
| |
− | | |
− | === Kế hoạch phương Đông tổng thể ===
| |
− | [[Mặt trận phía Đông (thế chiến II)|Cuộc chiến của Đức ở phía đông]] bắt nguồn từ quan điểm đã có từ lâu của Hitler rằng người Do Thái là kẻ thù lớn của dân tộc Đức và ''Lebensraum'' (không gian sinh tồn) là thứ cần giành được. Hitler dồn sự chú ý vào Đông Âu, hướng đến chinh phạt Ba Lan và Liên Xô.{{sfn|Bendersky|2007|p=161}}{{sfn|Gellately|1996|pp=270–274}} Sau khi Đức chiếm đóng Ba Lan vào năm 1939, toàn bộ người Do Thái ở Tổng đốc phủ Ba Lan bị giam trong các ghetto còn người đủ sức khỏe bị bắt đi lao động.{{sfn|Kershaw|2000a|p=111}} Vào năm 1941 Hitler quyết định tận diệt dân tộc Ba Lan, trong vòng 15 đến 20 năm diệt sạch người sắc tộc Ba Lan ở Tổng đốc phủ và tái định cư bằng người Đức.{{sfn|Berghahn|1999|p=32}} Khoảng 3,8 đến 4 triệu người Ba Lan vẫn được giữ làm một phần của lực lượng lao động nô lệ 14 triệu người mà quốc xã dự định tạo ra từ công dân các nước chinh phạt.{{sfn|Powszechna PWN|2004|p=267}}{{sfn|Gellately|1996|pp=270–274}}{{sfn|Heinemann et al.|2006}}
| |
− | | |
− | ''Generalplan Ost'' (Kế hoạch Tổng quát cho phía Đông) kêu gọi trục xuất số dân ở Liên Xô và Đông Âu chiếm đóng đến Siberia để dùng làm lao động nô lệ hoặc sát hại.{{sfn|Snyder|2010|p=416}} Để xác định đối tượng tiêu diệt, Himmler tạo ra ''[[Volksliste]]'', hệ thống phân loại những người được xem là có dòng dõi Đức.{{sfn|Overy|2005|p=544}} Himmler ra lệnh trục xuất người dòng dõi Đức không chấp nhận bị xếp vào nhóm người Đức sắc tộc đến các trại tập trung hoặc cho đi lao động khổ sai và bắt con của họ đi.{{sfn|Nicholas|2006|p=247}}{{sfn|Lukas|2001|p=113}} Kế hoạch còn bao gồm bắt cóc những đứa trẻ mang đặc điểm Aryan-Bắc Âu, đối tượng được xem như có dòng máu Đức.{{sfn|Sereny|1999}} Mục tiêu là tiến hành ''Generalplan Ost'' hậu chinh phạt Liên Xô nhưng khi không làm được điều này Hitler đã tính đến những phương án khác.{{sfn|Snyder|2010|p=416}}{{sfn|Kershaw|2008|p=683}} Một đề xuất là trục xuất hàng loạt người Do Thái đến Ba Lan, Palestine, hoặc Madagascar.{{sfn|Kershaw|2000a|p=111}}
| |
− | | |
− | Bên cạnh diệt trừ dân Do Thái, quốc xã còn dự tính làm giảm dân số của những lãnh thổ chinh phạt xuống 30 triệu người bằng biện pháp bỏ đói trong một kế hoạch gọi là ''[[Hungerplan]]''. Lương thực sẽ được chuyển hướng đến quân đội và người dân Đức. Các thành phố bị san bằng và đất đai dành cho rừng hoặc người Đức tái định cư.{{sfn|Snyder|2010|pp=162–163, 416}} Hai kế hoạch ''Hungerplan'' và ''Generalplan Ost'' kết hợp sẽ khiến 80 triệu người dân Liên Xô chết đói.{{sfn|Dorland|2009|p=6}} Thực tế chúng chỉ hoàn thành một phần khiến ước tính 19,3 triệu dân thường và tù binh ở Liên Xô hay nơi khác ở châu Âu thiệt mạng.{{sfn|Rummel|1994|loc=[http://www.hawaii.edu/powerkills/NAZIS.TAB1.1.GIF table, p. 112]}} Chiến tranh thế giới thứ Hai đã cướp đi của Liên Xô [[Thương vong của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ Hai|27 triệu sinh mạng]], chưa đến 9 triệu trong đó chết trên chiến trường.{{sfn|Hosking|2006|p=242}} Một phần tư dân số Liên Xô đã chết hoặc bị thương.{{sfn|Smith|1994|p=204}}
| |
− | | |
− | === Holocaust và Giải pháp cuối cùng ===
| |
− | [[File:Buchenwald Corpses 60623.jpg|thumb|left|upright=0.7|Một toa xe chất đầy tử thi bên ngoài nhà thiêu ở [[trại tập trung Buchenwald]] đã được quân đội Hoa Kỳ giải phóng, 1945]]
| |
− | Vào khoảng thời gian cuộc tấn công Moskva thất bại tháng 12 năm 1941, Hitler đã quyết định lập tức diệt trừ dân Do Thái châu Âu.{{sfn|Longerich, Chapter 17|2003}} Trong lúc hoạt động tàn sát dân thường Do Thái đang diễn ra ở những lãnh thổ Ba Lan và Liên Xô chiếm đóng, các kế hoạch nhằm xóa sổ hoàn toàn dân Do Thái châu Âu (11 triệu người) được chính thức hóa tại [[hội nghị Wannsee]] vào ngày 20 tháng 1 năm 1942. Một số sẽ phải làm việc đến chết còn số khác sẽ bị giết trong quá trình thực thi [[Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái]].{{sfn|Longerich|2012|pp=555–556}} Ban đầu là những tổ bắn ''Einsatzgruppen'' giết nạn nhân, kế đến là sử dụng phòng hơi ngạt cố định hoặc xe hơi ngạt nhưng những phương pháp này tỏ ra không phù hợp cho một chiến dịch quy mô như vậy.{{sfn|Evans|2008|pp=256–257}}{{sfn|Browning|2005|pp=188–190}} Đến năm 1942 các trại hành quyết có phòng hơi ngạt được xây tại [[Auschwitz II|Auschwitz]], [[Chełmno]], Sobibor, Treblinka, và nơi khác.{{sfn|Longerich|2010|pp=279–280}} Ước tính tổng số người Do Thái bị giết hại là 5,5 đến 6 triệu,{{sfn|Evans|2008|p=318}} trong đó có 1 triệu trẻ em.{{sfn|USHMM, ''Children during the Holocaust''}}
| |
− | | |
− | Phe Đồng minh tiếp nhận thông tin về cuộc tàn sát từ [[chính phủ Ba Lan lưu vong]] và giới chức Ba Lan ở Warszawa, chủ yếu căn cứ vào tin tình báo của [[Nhà nước Ba Lan bí mật]].{{sfn|Fleming|2014|pp=31–32, 35–36}}{{sfn|Evans|2008|pp=559–560}} Công dân Đức biết những gì đang xảy ra khi binh sĩ quay về từ những lãnh thổ chiếm đóng tường thuật những điều họ thấy và làm.{{sfn|Evans|2008|pp=555–556, 560}} Nhà sử học [[Richard J. Evans]] phát biểu rằng đa số người dân Đức phản đối cuộc diệt chủng.{{sfn|Evans|2008|pp=560–561}}
| |
− | | |
− | {{clear}}
| |
− | | |
− | === Ngược đãi tù binh Liên Xô ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 192-208, KZ Mauthausen, Sowjetische Kriegsgefangene.jpg|thumb|upright=0.7|left|Tù binh Liên Xô kiệt quệ trong [[trại tập trung Mauthausen]]]]
| |
− | Đức Quốc xã đã bắt 5,75 triệu tù binh Liên Xô, nhiều hơn số tù binh mà họ bắt từ tất cả các nước Đồng minh khác cộng lại. Trong số đó quốc xã đã sát hại ước tính 3,3 triệu người,{{sfn|Shirer|1960|p=952}} 2,8 triệu bị giết trong khoảng tháng 6 năm 1941 đến tháng 1 năm 1942.{{sfn|Goldhagen|1996|p=290}} Nhiều tù binh bị bỏ đói đến chết hoặc đặt vào tình cảnh buộc phải ăn thịt đồng loại trong lúc bị giam ở những khu bãi ngoài trời tại Auschwitz và nơi khác.{{sfn|Evans|2008|pp=295–296}}
| |
− | | |
− | Từ năm 1942 trở đi, tù binh Liên Xô được xem là nguồn lao động khổ sai và được đối xử tốt hơn vì họ có thể làm việc.{{sfn|Shirer|1960|p=954}} Tính đến tháng 12 năm 1944 có 750.000 tù binh Liên Xô đang làm việc trong những nhà máy vũ trang, hầm mỏ và nông trường.{{sfn|Shirer|1960|pp=951, 954}}
| |
− | | |
− | == Xã hội ==
| |
− | === Giáo dục ===
| |
− | Các đạo luật bài Do Thái thông qua năm 1933 đã khai trừ mọi giáo viên, giảng viên, và viên chức Do Thái ra khỏi hệ thống giáo dục. Hầu hết giáo viên bị yêu cầu gia nhập Liên đoàn Giáo viên Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (''Nationalsozialistische Lehrerbund'') còn giảng viên đại học phải gia nhập Liên đoàn Giảng viên Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (''Nationalsozialistischer Deutscher Dozentenbund'').{{sfn|Nakosteen|1965|p=386}}{{sfn|Pine|2011|pp=14–15, 27}} Giáo viên phải tuyên thệ trung thành và tuân lệnh Hitler, những ai không biểu hiện đi theo lý tưởng của đảng đến mức độ đủ thường bị học sinh hoặc đồng nghiệp tố giác rồi sa thải.{{sfn|Shirer|1960|p=249}}{{sfn|Evans|2005|p=270}} Việc thiếu nguồn tài chính để trả lương đã khiến nhiều giáo viên bỏ nghề. Số học sinh trung bình trong lớp đã tăng từ 37 năm 1927 lên 43 năm 1938 do thiếu giáo viên.{{sfn|Evans|2005|p=269}}
| |
− | | |
− | Bộ trưởng Nội vụ Wilhelm Frick, Bộ trưởng Bộ Khoa học, Giáo dục và Văn hóa [[Bernhard Rust]] cùng những cơ quan khác thường hay đưa ra những chỉ thị mâu thuẫn liên quan đến nội dung bài học và sách giáo khoa được chấp nhận sử dụng trong các trường tiểu học và trung học.{{sfn|Evans|2005|pp=263–264, 270}} Những cuốn sách mà chế độ xem là không thể chấp nhận bị loại khỏi thư viện trường học.{{sfn|Evans|2005|p=264}} Kể từ tháng 1 năm 1943 công tác truyền bá tư tưởng quốc xã là bắt buộc.{{sfn|Evans|2005|p=264}} Học sinh được chọn làm đảng viên ưu tú tương lai tiếp nhận giáo dục tiểu học tại Trường Adolf Hitler và trung học tại Viện Giáo dục Chính trị Quốc gia. Người nắm quân hàm cấp cao trong tương lai được truyền giảng kỹ lưỡng tại [[NS-Ordensburgen|NS-''Ordensburgen'']].{{sfn|Shirer|1960|p=255}}
| |
− | | |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 183-2007-0329-501, Reichsgründungsfeier, Schulklasse.jpg|thumb|left|upright=0.8|Kiểu chào quốc xã trong trường học (1934): trẻ em được truyền bá tư tưởng từ nhỏ]]
| |
− | | |
− | Giáo dục tiểu học và trung học chú trọng sinh học chủng tộc, chính sách dân số, văn hóa, địa lý, và thể dục thể thao.{{sfn|Pine|2011|pp=13–40}} Chương trình giảng dạy ở hầu hết lĩnh vực bao gồm sinh học, địa lý, hay thậm chí số học bị thay đổi để hướng trọng tâm vào chủng tộc.{{sfn|Evans|2005|pp=263–265}} Giáo dục quân sự là thành phần trung tâm của giáo dục thể chất còn bộ môn vật lý thì hướng đến những đề tài có tính ứng dụng quân sự như đạn đạo và khí động học.{{sfn|Farago|1972|p=65}}{{sfn|Evans|2005|p=265}} Học sinh bị yêu cầu xem tất cả các phim do bộ phận học đường của Bộ Giác ngộ Quần chúng và Tuyên truyền chuẩn bị.{{sfn|Evans|2005|p=264}}
| |
− | | |
− | Ở cấp độ đại học, công tác bổ nhiệm các chức vụ hàng đầu là đề tài tranh đấu quyền lực giữa bộ giáo dục, hội đồng đại học, và Liên đoàn Sinh viên Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.{{sfn|Evans|2005|p=292}} Mặc cho áp lực từ liên đoàn và các bộ chính phủ khác nhau, đa số giảng viên đại học không thay đổi bài giảng hay giáo trình trong thời quốc xã.{{sfn|Evans|2005|pp=302–303}} Điều này đặc biệt rõ nét đối với các trường đại học nằm ở địa bàn mà Công giáo phổ biến.{{sfn|Evans|2005|p=305}} Số sinh viên nhập học giảm từ 104.000 năm 1931 xuống 41.000 năm 1939 nhưng tình cảnh ở các trường y lại trái ngược do bác sĩ Do Thái bị buộc thôi việc nên sinh viên tốt nghiệp ngành này có triển vọng công việc tốt.{{sfn|Evans|2005|pp=295–297}} Từ năm 1934 sinh viên đại học phải tham dự những khóa huấn luyện quân sự thường xuyên và dài ngày do SA tổ chức.{{sfn|Evans|2005|p=293}} Sinh viên năm nhất còn phải phục vụ sáu tháng trong một trại lao động cho Sở Lao động và với sinh viên năm hai thời gian này dài hơn 10 tuần.{{sfn|Evans|2005|p=299}}
| |
− | | |
− | === Vai trò của phụ nữ và gia đình ===
| |
− | Chính sách xã hội của quốc xã xem phụ nữ là nền móng. Quốc xã phản đối [[phong trào nữ quyền]], tuyên bố nó là sáng tạo của giới trí thức Do Thái và thay vào đó ủng hộ một xã hội [[phụ quyền]] nơi mà phụ nữ Đức công nhận "thế giới là chồng, con, ngôi nhà, và gia đình" của mình.{{sfn|Evans|2005|p=331}} Các nhóm nữ quyền bị dẹp bỏ hoặc sáp nhập vào Liên đoàn Phụ nữ Quốc gia Xã hội chủ nghĩa, tổ chức phối hợp những hội nhóm trên khắp đất nước nhằm xúc tiến những hoạt động liên quan đến gia đình và bà mẹ. Các khóa học nuôi dạy trẻ, may vá, nấu ăn được mời chào. Những nhà hoạt động nữ quyền nổi bật như [[Anita Augspurg]], [[Lida Gustava Heymann]], [[Helene Stöcker]] cảm thấy buộc phải sống lưu vong.{{sfn|Evans|2005|pp=516–517}} Liên đoàn xuất bản ''[[NS-Frauen-Warte]]'', tạp chí phụ nữ duy nhất được chấp nhận ở Đức Quốc xã.{{sfn|Heidelberg University Library}} Mặc dù chứa đựng một vài khía cạnh tuyên truyền nhưng đây chủ yếu vẫn là một tạp chí phụ nữ thông thường.{{sfn|Rupp|1978|p=45}}
| |
− | | |
− | Chế độ khuyến khích phụ nữ rời lực lượng lao động, tuyên truyền thúc đẩy việc tạo ra những đại gia đình từ những phụ nữ phù hợp về chủng tộc. Phụ nữ sinh bốn con được trao giải thưởng đồng gọi là ''Ehrenkreuz der Deutschen Mutter'' (Chữ thập Danh dự của Người mẹ Đức), sinh sáu con được trao giải bạc, tám con trở lên là giải vàng.{{sfn|Evans|2005|pp=516–517}} Các gia đình đông con được trợ cấp để giải quyết những chi phí. Mặc dù các biện pháp đã làm tăng tỷ lệ sinh nhưng số gia đình có bốn con trở lên giảm 5 phần trăm trong khoảng 1935 đến 1940.{{sfn|Evans|2005|pp=518–519}} Chính sách loại phụ nữ ra khỏi lực lượng lao động không có tác dụng mong muốn là nhường việc cho nam vì có những công việc như nội trợ, thêu thùa, hay trong ngành công nghiệp đồ uống và thực phẩm vốn chủ yếu dành cho nữ và không hấp dẫn nam giới.{{sfn|Evans|2005|pp=332–333}} Triết lý của quốc xã ngăn cấm thuê số lượng lớn phụ nữ vào làm trong các nhà máy đạn dược vào thời kỳ trước chiến tranh nên lao động nước ngoài được dùng thay thế. Sau khi chiến tranh bắt đầu lao động nô lệ được sử dụng rộng rãi.{{sfn|Evans|2005|p=369}} Tháng 1 năm 1943 Hitler ký một sắc lệnh yêu cầu tất cả phụ nữ tuổi dưới 50 trình diện để giao việc, giúp sức cho nỗ lực chiến tranh.{{sfn|Kershaw|2008|p=749}} Sau đó phụ nữ ồ ạt gia nhập ngành công nghiệp, nông nghiệp và đến tháng 9 năm 1944 có 14,9 triệu phụ nữ đang làm việc trong các nhà máy sản xuất đạn dược.{{sfn|McNab|2009|p=164}}
| |
− | | |
− | Các nhà lãnh đạo quốc xã tán thành quan niệm công việc dựa trên lý thuyết và lý trí không phù hợp với bản chất của phụ nữ, do đó không khuyến khích phụ nữ theo học cấp bậc cao hơn.{{sfn|Stephenson|2001|p=70}} Một đạo luật thông qua vào tháng 4 năm 1933 đã hạn chế số nữ giới tại bậc đại học xuống mức bằng 10 phần trăm số nam giới.{{sfn|Evans|2005|p=297}} Vì lẽ đó số nữ giới gia nhập các trường trung học đã giảm từ 437.000 năm 1926 xuống 205.000 năm 1937 còn sau trung học giảm từ 128.000 năm 1933 xuống 51.000 năm 1938. Tuy nhiên vào thời chiến do nam giới phải gia nhập lực lượng vũ trang nên đến năm 1944 một nửa số kết nạp vào hệ thống hậu trung học là nữ.{{sfn|Pauley|2003|pp=119–137}}
| |
− | | |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 183-2000-0110-500, BDM, Gymnastikvorführung.jpg|thumb|upright=0.8|Các cô gái của ''[[Bund Deutscher Mädel]]'' (Liên đoàn Thanh nữ Đức) rèn luyện thân thể vào năm 1941]]
| |
− | | |
− | Chế độ kỳ vọng phụ nữ trở nên mạnh mẽ, khỏe đẹp và năng động.{{sfn|Overy|2005|p=248}} Quốc xã xem nữ tá điền cường tráng làm việc trên mảnh đất và sinh ra những đứa con khỏe mạnh là lý tưởng, đồng thời ca ngợi những phụ nữ lực lưỡng và rám nắng do làm việc ngoài trời.{{sfn|Rupp|1978|pp=45–46}} Các tổ chức được thành lập để truyền thụ những giá trị quốc xã. Từ ngày 25 tháng 3 năm 1939 mọi trẻ em trên 10 tuổi bị bắt kết nạp [[Đoàn Thanh niên Hitler]].{{sfn|Evans|2005|p=272}} Trong Đoàn Thanh niên Hitler có ''[[Jungmädelbund]]'' (Liên đoàn Thiếu nữ) dành cho nữ giới tuổi 10 đến 14 và ''[[Bund Deutscher Mädel]]'' (BDM, Liên đoàn Thanh nữ Đức) dành cho nữ giới tuổi 14 đến 18. Liên đoàn Thanh nữ Đức chú trọng vào giáo dục thể chất với các hoạt động như chạy, nhảy xa, nhào lộn, đi bộ trên dây, diễu hành, và bơi lội.{{sfn|Grunberger|1971|p=278}}
| |
− | | |
− | Chế độ quốc xã xúc tiến một bộ luật hạnh kiểm phóng khoáng liên quan đến vấn đề giới tính và ủng hộ phụ nữ sinh con ngoài giá thú.{{sfn|Biddiscombe|2001|pp=612, 633}} Vào thời chiến tình trạng lang chạ gia tăng với việc binh sĩ chưa lập gia đình thường thân mật với vài phụ nữ một lúc. Vợ của binh sĩ thường xuyên dính dáng đến những mối quan hệ ngoài hôn nhân. Lao động nước ngoài đôi khi lợi dụng tình dục như mặt hàng để đối lấy việc làm tốt hơn.{{sfn|Biddiscombe|2001|p=612}} Các sách nhỏ chỉ thị phụ nữ Đức tránh quan hệ tình cảm với công nhân nước ngoài vì điều này gây nguy hại cho giống nòi.{{sfn|Rupp|1978|pp=124–125}}
| |
− | | |
− | Himmler mong muốn xã hội mới của chế độ quốc xã đón nhận những đứa trẻ sinh ngoài giá thú, nhất là trẻ có cha là thành viên SS, đối tượng đã được kiểm tra kỹ lưỡng về tính thuần khiết chủng tộc và Hitler tán thành điều này.{{sfn|Longerich|2012|p=370}} Himmler hy vọng mỗi gia đình SS sẽ có từ bốn đến sáu đứa con.{{sfn|Longerich|2012|p=370}} Hiệp hội ''[[Lebensborn]]'' (Cội nguồn Sự sống) do Himmler sáng lập năm 1935 đã xây nên một loạt nhà hộ sinh cấp cho những bà mẹ đơn thân trong thời kỳ mang thai.{{sfn|Longerich|2012|p=371}} Cả cha và mẹ đều phải trải qua cuộc kiểm tra về chủng tộc trước khi được chấp nhận.{{sfn|Longerich|2012|p=371}} Các gia đình SS thường nhận nuôi những đứa trẻ sinh ra.{{sfn|Longerich|2012|p=371}} Nhà ở cũng được xây sẵn cho vợ của đảng viên và thành viên SS, đối tượng nhanh chóng chiếm lĩnh hơn một nửa vị trí.{{sfn|Evans|2005|p=521}}
| |
− | | |
− | Chế độ quốc xã thực thi nghiêm ngặt những đạo luật cấm phá thai hiện hành ngoại trừ vì lý do y tế. Số trường hợp phá thai hàng năm đã giảm từ 35.000 vào đầu thập niên 1930 xuống dưới 2.000 vào cuối thập niên, dù vậy trong năm 1935 một đạo luật được thông qua cho phép phá thai vì lý do ưu sinh.{{sfn|Evans|2005|p=515}}
| |
− | | |
− | === Y tế ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv B 145 Bild-P017100, Berlin, Olympiade, Pariser Platz bei Nacht.jpg|thumb|left|upright=0.8|Các bức tượng đại diện cho thân hình lý tưởng được dựng trên những tuyến phố ở Berlin vào dịp [[Thế vận hội Mùa hè 1936]]]]
| |
− | Đức Quốc xã có phong trào chống thuốc lá mạnh do nghiên cứu tiên phong của Franz H. Müller vào năm 1939 đã chứng minh quan hệ nhân quả giữa hút thuốc lá và [[ung thư phổi]].{{sfn|Proctor|1999|p=196}} Bộ Y tế thực hiện những biện pháp nhằm cố gắng hạn chế việc hút thuốc bao gồm giáo dục và tuyên truyền.{{sfn|Proctor|1999|p=198}} Hành vi hút thuốc bị cấm ở nhiều nơi làm việc, trên tàu hỏa, và đối với quân nhân đang làm nhiệm vụ.{{sfn|Proctor|1999|p=203}} Các cơ quan chính phủ cũng hành động để kiểm soát những chất gây ung thư như [[amiăng]] và thuốc trừ sâu.{{sfn|Evans|2005|p=319}} Chính quyền tiến hành làm sạch nguồn nước, loại bỏ chì và thủy ngân ra khỏi sản phẩm tiêu dùng, và thúc giục phụ nữ đi tầm soát ung thư vú định kỳ.{{sfn|Proctor|1999|p=40}}
| |
− | | |
− | Các chương trình bảo hiểm chăm sóc sức khỏe của chính phủ sẵn sàng cho người dân tiếp cận nhưng kể từ năm 1933 loại ra người Do Thái. Cũng trong năm đó bác sĩ Do Thái bị cấm điều trị cho bệnh nhân nhận gói bảo hiểm của chính phủ. Đến năm 1937 bác sĩ Do Thái chỉ còn được phép chữa cho bệnh nhân Do Thái và sang năm 1938 họ bị tước hoàn toàn quyền hành nghề y.{{sfn|Busse|Riesberg|2004|p=20}}
| |
− | | |
− | Các thí nghiệm y khoa mà không ít là [[giả khoa học]] được thực hiện trên tù nhân trại tập trung bắt đầu từ năm 1941.{{sfn|Evans|2008|p=611}} Bác sĩ khét tiếng nhất về thí nghiệm y khoa là SS-''[[Hauptsturmführer]]'' [[Josef Mengele]] làm việc tại Auschwitz.{{sfn|Evans|2008|p=608}} Nhiều nạn nhân của Mengele đã tử vong hoặc cố tình bị giết.{{sfn|Evans|2008|pp=609–661}} Các hãng dược phẩm mua lại tù nhân trại tập trung để phục vụ thử nghiệm thuốc và những thí nghiệm khác.{{sfn|Evans|2008|p=612}}
| |
− | | |
− | === Chủ nghĩa môi trường ===
| |
− | Xã hội Đức Quốc xã có những yếu tố ủng hộ quyền động vật và nhiều người yêu thích vườn thú hay động vật hoang dã.{{sfn|DeGregori|2002|p=153}} Chính quyền đã thực hiện một số biện pháp nhằm bảo vệ môi trường và động vật. Vào năm 1933 những người quốc xã ban hành một đạo luật bảo vệ động vật nghiêm ngặt quy định loài được phép dùng trong nghiên cứu y tế.{{sfn|Hanauske-Abel|1996|p=10}} Luật này không được thực thi nghiêm chỉnh và bất chấp lệnh cấm giải phẫu sinh thể, Bộ Nội vụ vẫn sẵn sàng cấp giấy phép cho các thí nghiệm trên động vật.{{sfn|Uekötter|2006|p=56}}
| |
− | | |
− | Bộ Lâm nghiệp của Göring triển khai những quy định yêu cầu nhân viên quản lý rừng trồng các loại cây để đảm bảo sinh cảnh phù hợp cho động vật hoang dã.{{sfn|Closmann|2005|pp=30–32}} Vào năm 1935 chế độ ban hành Luật Bảo vệ Thiên nhiên nhằm gìn giữ cảnh quan thiên nhiên trước tình trạng phát triển kinh tế quá mức. Luật này cho phép sung công đất tư để tạo ra những khu bảo tồn thiên nhiên và hỗ trợ kế hoạch dài hạn.{{sfn|Closmann|2005|pp=18, 30}} Chính quyền có một số hành động qua loa nhằm hạn chế ô nhiễm không khí nhưng vấn đề này không còn được chú tâm kể từ khi chiến tranh bắt đầu.{{sfn|Uekötter|2005|pp=113, 118}}
| |
− | | |
− | === Áp bức giáo hội ===
| |
− | Vào lúc quốc xã lên nắm quyền năm 1933 có khoảng 67 phần trăm dân số Đức theo đạo [[Tin Lành]], 33 phần trăm theo [[Công giáo La Mã]], còn [[Do Thái giáo]] chiếm chưa đến 1 phần trăm.{{sfn|Evans|2005|p=222}}{{sfn|USHMM, ''The German Churches and the Nazi State''}} Theo cuộc điều tra dân số năm 1939 thì 54 phần trăm người dân tự nhận mình theo đạo Tin Lành, 40 phần trăm Công giáo La Mã, 3,5 phần trăm ''[[Gottgläubig]]'' (tin vào Chúa, một phong trào tôn giáo quốc xã) và 1,5 phần trăm [[phi tôn giáo]].{{sfn|Ericksen|Heschel|1999|p=10}}
| |
− | | |
− | Dưới quá trình ''[[Gleichschaltung]]'', Hitler nỗ lực tạo ra một Giáo hội Tin Lành Đế chế thống nhất từ 28 giáo hội Tin Lành địa phương hiện tại{{sfn|Shirer|1960|p=237}} với mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ các giáo hội ở Đức.{{sfn|Shirer|1960|p=240}} [[Ludwig Müller]], một người thân quốc xã, được cử làm Giám mục Đế chế và Cơ đốc hữu Đức, một nhóm áp lực thân quốc xã, nắm quyền quản lý giáo hội mới.{{sfn|Shirer|1960|pp=234–238}} Họ chống lại [[Cựu Ước]] do nó có nguồn gốc Do Thái và yêu cầu khai trừ người Do Thái cải đạo ra khỏi giáo hội của họ.{{sfn|Evans|2005|pp=220–230}} Mục sư [[Martin Niemöller]] phản ứng bằng việc thành lập [[Giáo hội Xưng tội]] mà từ đó một số giáo sĩ chống đối lại chế độ.{{sfn|Kershaw|2008|pp=295–297}} Vào năm 1935 hội nghị Giáo hội Xưng tội phản đối chính sách tôn giáo của quốc xã và 700 mục sư của họ đã bị bắt.{{sfn|Berben|1975|p=140}} Müller từ chức và Hitler bổ nhiệm [[Hanns Kerrl]] làm Bộ trưởng Giáo hội để tiếp tục nỗ lực kiểm soát đạo Tin Lành.{{sfn|Shirer|1960|pp=238–239}} Trong năm 1936 một đặc sứ của Giáo hội Xưng tội phản đối Hitler vì hành vi đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền{{sfn|Berben|1975|p=140}} và thêm hàng trăm mục sư khác đã bị bắt.{{sfn|Shirer|1960|pp=238–239}} Giáo hội tiếp tục kháng cự và đến đầu năm 1937 Hitler từ bỏ hy vọng thống nhất các giáo hội Tin Lành.{{sfn|Berben|1975|p=140}} Niemöller bị bắt vào ngày 1 tháng 7 năm 1937 và dành phần lớn thời gian ở trại tập trung Sachsenhausen và Dachau trong 7 năm tiếp theo.{{sfn|Shirer|1960|p=239}} Chính quyền đóng cửa các trường đại học thần học, bắt giữ mục sư và nhà thần học của các giáo phái Tin Lành khác.{{sfn|Berben|1975|p=140}}
| |
− | | |
− | [[File:Prisoner's barracks dachau.jpg|thumb|left|Khu nhà của tù nhân tại [[trại tập trung Dachau]], ở đây có một khu dành riêng cho giáo sĩ chống chế độ vào năm 1940{{sfn|Berben|1975|pp=276–277}}]]
| |
− | | |
− | Giáo hội Công giáo là nạn nhân khác bị quốc xã áp bức.{{sfn|Kershaw|2008|p=332}} Hitler nhanh chóng tiến tới diệt trừ Công giáo chính trị, lùng bắt cán bộ của [[Đảng Nhân dân Bayern]] và [[Đảng Trung dung (Đức)|Đảng Trung dung]] thân Công giáo. Cũng như mọi đảng phái chính trị ngoài quốc xã khác, hai đảng này chấm dứt tồn tại từ tháng 7.{{sfn|Kershaw|2008|p=290}} Vào năm 1933 chế độ ký với Vatican hiệp ước ''[[Reichskonkordat]]'' (Giáo ước Đế chế) trong tình cảnh giáo hội ở Đức vẫn đang bị sách nhiễu.{{sfn|Kershaw|2008|p=295}} Hiệp ước yêu cầu chế độ tôn trọng tính độc lập của các tổ chức Công giáo và cấm giáo sĩ can dự vào chính trị.{{sfn|Evans|2005|pp=234–235}} Hitler thường không đếm xỉa đến Giáo ước, ra lệnh đóng cửa tất cả những cơ sở Công giáo không hoàn toàn tập trung vào tôn giáo.{{sfn|Gill|1994|p=57}} Giáo sĩ, nữ tu, lãnh đạo giáo dân là mục tiêu và hàng ngàn người đã bị bắt trong những năm tiếp theo thường vì cáo buộc buôn lậu tiền hoặc phạm hành vi trái đạo đức.{{sfn|Shirer|1960|pp=234–235}} Quốc xã cũng nhắm đến một số lãnh đạo Công giáo trong sự kiện [[Đêm của những con dao dài]] năm 1934.{{sfn|Kershaw|2008|p=315}}{{sfn|Lewis|2000|p=45}}{{sfn|Conway|2001|p=92}} Số đông hội thanh niên Công giáo không chịu giải thể và thủ lĩnh Đoàn Thanh niên Hitler [[Baldur von Schirach]] khuyến khích đoàn viên của mình tấn công những thiếu niên Công giáo trên đường phố.{{sfn|Evans|2005|pp=226, 237}} Các chiến dịch tuyên truyền tuyên bố giáo hội tham nhũng, hội họp công cộng bị hạn chế và xuất bản phẩm công giáo bị kiểm duyệt. Chính quyền yêu cầu trường học Công giáo bớt giảng đạo và gỡ bỏ hình tượng thánh giá khỏi các tòa nhà quốc gia.{{sfn|Evans|2005|pp=239–240}}
| |
− | | |
− | [[Giáo hoàng Pio XI]] đã lén gửi thông tri ''"[[Mit brennender Sorge]]"'' (Với niềm quan tâm cháy bỏng) đến Đức cho ngày [[Chủ nhật thụ hình]] năm 1937 và nó được đọc lên trên mọi bục giảng, tố giác sự thù địch có hệ thống của chế độ nhằm vào giáo hội.{{sfn|Shirer|1960|pp=234–235}}{{sfn|Evans|2005|pp=241–243}} Goebbels đáp trả bằng hành động đàn áp thẳng tay và tuyên truyền bài Công giáo. Số lượng học sinh gia nhập các trường giáo phái giảm mạnh và đến năm 1939 mọi trường học kiểu này đều bị giải tán hoặc chuyển đổi thành cơ sở công cộng.{{sfn|Evans|2005|pp=245–246}} Vào ngày 22 tháng 3 năm 1942 giới giám mục Đức viết bức thư gửi con chiên về "Cuộc đấu tranh chống Cơ đốc giáo và Giáo hội".{{sfn|Fest|1996|p=377}} Có khoảng 30 phần trăm tư tế Công giáo bị cảnh sát trừng trị trong thời quốc xã.{{sfn|Evans|2005|p=244}}{{sfn|USHMM, ''Dachau''}} Một mạng lưới an ninh rộng lớn do thám hoạt động của giáo sĩ và tư tế hỗ trợ chính quyền thường xuyên phát giác, bắt giữ hay đưa các đối tượng đến trại tập trung, nhiều trong số đó được đưa đến khu dành riêng cho giáo sĩ tại Dachau.{{sfn|Berben|1975|pp=141–142}} Ở lãnh thổ Ba Lan thôn tính vào năm 1939, quốc xã đã xúi bẩy một cuộc đàn áp bạo lực và dẹp bỏ có hệ thống Giáo hội Công giáo.{{sfn|Libionka, ''The Catholic Church in Poland''}}{{sfn|Davies|2003|pp=86, 92}}
| |
− | | |
− | [[Alfred Rosenberg]], người đứng đầu Văn phòng Đối ngoại của Đảng Quốc xã và phụ trách văn hóa, giáo dục, xem Công giáo thuộc nhóm những kẻ thù hàng đầu của chế độ. Ông dự tính "thủ tiêu những đức tin Cơ đốc ngoại quốc xâm nhập nước Đức", thay thế [[Kinh Thánh]], [[Thánh Giá]] bằng ''Mein Kampf'' và chữ vạn ở mọi nhà thờ, thánh đường, và nhà nguyện. Các giáo phái Cơ đốc khác cũng bị nhắm đến khi mà vào năm 1941 Chánh Văn phòng Đảng Quốc xã [[Martin Bormann]] công khai tuyên bố "Chủ nghĩa quốc gia xã hội và Cơ đốc giáo không thể dung hòa."{{sfn|Shirer|1960|p=240}} Shirer viết rằng giới lãnh đạo đảng thù địch Cơ đốc giáo sâu sắc tới mức "dự định tiêu diệt Cơ đốc giáo ở Đức nếu có thể và thay thế bằng ngoại giáo mới của những người quốc xã cực đoan."{{sfn|Shirer|1960|p=240}}
| |
− | | |
− | === Phản kháng chế độ ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 151-25-07, Berlin, Volksgerichtshof, Erich Hoepner.jpg|thumb|upright=0.7|Tướng [[Erich Hoepner]] tại ''[[Volksgerichtshof]]'' (Tòa án Nhân dân) vào năm 1944]]
| |
− | Mặc dù không tồn tại phong trào kháng chiến thống nhất đối địch chế độ quốc xã nhưng đã có những hành động thách thức như phá hoại, làm việc trì trệ, cùng nỗ lực lật đổ chính quyền hoặc ám sát Hitler.{{sfn|Klemperer|1992|pp=4–5}} Hai đảng bị cấm là Cộng sản và Dân chủ Xã hội đã sáng lập những mạng lưới kháng chiến trong giữa thập niên 1930. Họ ít khi làm được gì khá hơn là kích động bất ổn và khơi mào những cuộc đình công ngắn ngủi sớm bị dập tắt.{{sfn|Cox|2009|pp=33–36}} [[Carl Friedrich Goerdeler]] là người ban đầu ủng hộ Hitler nhưng đã thay đổi suy nghĩ vào năm 1936 và sau này tham gia vào [[âm mưu 20 tháng 7]].{{sfn|Shirer|1960|p=372}}{{sfn|Hoffmann|1988|p=2}} Nhóm gián điệp [[Dàn nhạc Đỏ]] cung cấp cho Đồng minh thông tin về tội ác chiến tranh của quốc xã, hỗ trợ những đường dây đào tẩu khỏi nước Đức, và phân phát tời rơi. Gestapo đã phát hiện ra ổ nhóm này, kết cục là hơn 50 thành viên bị xét xử và hành hình vào năm 1942.{{sfn|Evans|2008|pp=626–627}} Cuối năm đó các nhóm kháng chiến Cộng sản và Dân chủ Xã hội khôi phục hoạt động nhưng chẳng thể làm gì hơn ngoài việc phân phát tờ rơi. Hai phe quan sát thấy họ là những đảng đối địch tiềm năng ở nước Đức thời hậu chiến và phần lớn thời gian không cùng nhau phối hợp hành động.{{sfn|Evans|2008|pp=625–626}} Vào năm 1942–43 có đội kháng chiến [[Hoa hồng Trắng]] hoạt động tích cực song không ít thành viên đã bị bắt hoặc xử tử, lần bắt giữ cuối cùng diễn ra vào năm 1944.{{sfn|Evans|2008|pp=626–269}} Một nhóm khác là [[Vòng tròn Kreisau]] có một vài mối liên hệ với những quân nhân âm mưu nhưng cũng không có kết cục tốt đẹp sau vụ âm mưu 20 tháng 7 thất bại.{{sfn|Evans|2008|pp=634, 643}}
| |
− | | |
− | Trong khi những nỗ lực của người dân có tác động đến dư luận thì quân đội là tổ chức duy nhất có đủ khả năng lật đổ chính quyền.{{sfn|Gill|1994|p=2}}{{sfn|Evans|2008|p=630}} Vào năm 1938 các tướng lĩnh cấp cao trong quân đội đã nung nấu một kế hoạch lớn. Họ tin rằng ý đồ xâm lược Tiệp Khắc của Hitler sẽ dẫn đến việc Anh tuyên chiến và Đức sẽ thua. Kế hoạch là lật đổ hoặc có thể là ám sát Hitler. [[Ludwig Beck]], [[Walther von Brauchitsch]], [[Franz Halder]], [[Wilhelm Canaris]], [[Erwin von Witzleben]] tham gia vào một âm mưu do [[Hans Oster]] và [[Helmuth Groscurth]] bày ra. Cuộc đảo chính đã lên kế hoạch bị hoãn sau sự kiện ký kết Hiệp ước Munich vào tháng 9 năm 1938.{{sfn|Evans|2005|pp=669–671}} Nhiều người trong số này tiếp tục dính dáng đến một âm mưu đảo chính khác dự kiến tiến hành trong năm 1940 nhưng một lần nữa họ thay đổi ý định và chùn bước, một phần vì thanh thế lên cao của chế độ sau những thắng lợi vẻ vang ban đầu.{{sfn|Shirer|1960|p=659}}{{sfn|Evans|2008|p=631}} Đến năm 1943 ý đồ ám sát Hitler quay trở lại khi [[Henning von Tresckow]] nhập hội với Oster bày mưu đánh bom máy bay của Hitler. Từ đó đến vụ việc ngày 20 tháng 7 năm 1944 có thêm một vài nỗ lực không đáng kể khác. Viễn cảnh bại trận đang ngày một rõ ít nhất là một phần động cơ của vụ âm mưu 20 tháng 7 thất bại.{{sfn|Evans|2008|p=635}}{{sfn|Kershaw|2008|pp=816–818}} Âm mưu này nằm trong [[Điệp vụ Valkyrie]] với kịch bản là [[Claus von Stauffenberg]] đặt một quả bom trong phòng hội thảo tại Hang Sói ở [[Rastenburg]]. Sau khi thoát chết trong gang tấc, Hitler đã ra lệnh trả thù tàn khốc và hậu quả là hơn 4.900 người bị hành quyết.{{sfn|Shirer|1960|pp=1048–1072}}
| |
− | | |
− | == Văn hóa ==
| |
− | {{Quote box |quote = Nếu hỏi trải nghiệm về Đế chế thứ Ba dạy cho chúng ta điều gì, thì đó là tình yêu âm nhạc, nghệ thuật, và văn học tuyệt vời không giúp cho con người với mọi kiểu đạo đức hay chính kiến bài trừ đi thói bạo lực, hung ác, hay sự phục tùng chế độ độc tài. |author = [[Richard J. Evans]] |source = ''[[The Coming of the Third Reich]]'' (2003) |align = right |qalign = left |width = 25% |border = .25em}}
| |
− | | |
− | Chế độ xúc tiến quan niệm ''[[Volksgemeinschaft]]'', một cộng đồng sắc tộc Đức quy mô toàn quốc. Mục tiêu là xây dựng một xã hội phi giai cấp có nền tảng sự thuần khiết chủng tộc và tư tưởng sẵn sàng cho chiến tranh, chinh phạt và một cuộc đấu chống chủ nghĩa Marx.{{sfn|Grunberger|1971|p=18}}{{sfn|Kershaw|2008|pp=182, 203, 272}} Vào năm 1933 Mặt trận Lao động Đức thành lập tổ chức ''[[Kraft durch Freude]]'' (KdF, Sức mạnh đến từ Niềm vui). Bên cạnh tiếp quản hàng chục ngàn hội nhóm giải trí tư nhân, KdF còn tổ chức những hoạt động giải trí và kỳ nghỉ đông người như đi chơi biển, điểm đến du lịch, và những buổi hòa nhạc.{{sfn|Evans|2005|pp=465–467}}{{sfn|Shirer|1960|p=265}}
| |
− | | |
− | ''[[Reichskulturkammer]]'' (Phòng Văn hóa Đế chế) được thành lập vào tháng 9 năm 1933 trực thuộc Bộ Tuyên truyền. Các phòng ban phụ được tạo ra để kiểm soát những khía cạnh của đời sống văn hóa như phim ảnh, phát thanh, báo chí, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu và văn học. Cá nhân hoạt động trong mỗi lĩnh vực bị yêu cầu gia nhập tổ chức tương ứng. Người Do Thái và người có quan điểm chính trị không đáng tin không được làm nghệ thuật và nhiều người đã di cư. Sách và bản thảo phải qua khâu xét duyệt của Bộ Tuyên truyền trước khi xuất bản. Tiêu chuẩn xuống cấp do chế độ chỉ có ý lợi dụng những sản phẩm văn hóa làm phương tiện tuyên truyền.{{sfn|Shirer|1960|pp=241–242}}
| |
− | | |
− | Truyền thanh trở nên phổ biến ở Đức trong thập niên 30 và đến năm 1939 có tới hơn 70 phần trăm hộ gia đình sở hữu một chiếc máy thu, nhiều hơn mọi quốc gia khác. Tháng 7 năm 1933 quốc xã khai trừ người phái tả và đối tượng không mong muốn khác ra khỏi đội ngũ nhân viên trạm phát thanh.{{sfn|Evans|2005|pp=133–135}} Tuyên truyền và diễn văn là nội dung được phát điển hình ngay sau khi quốc xã lên cầm quyền nhưng thời gian trôi qua Goebbels nhấn mạnh cho âm nhạc xuất hiện nhiều hơn để thính giả không chuyển sang những đài giải trí nước ngoài.{{sfn|Evans|2005|p=136}}
| |
− | | |
− | === Kiểm duyệt ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 102-14597, Berlin, Opernplatz, Bücherverbrennung.jpg|thumb|left|upright=0.9|Một buổi đốt sách vào ngày 10 tháng 5 năm 1933 ở Berlin, mục tiêu là sách của các tác giả Do Thái và tả khuynh{{sfn|Evans|2005|p=16}}]]
| |
− | Nhà nước quản lý báo chí tương tự như những phương tiện truyền thông khác. Phòng Báo chí đóng cửa hoặc mua lại những tờ báo và nhà xuất bản. Đến năm 1939 Bộ Tuyên truyền đã trực tiếp sở hữu hơn hai phần ba số báo và tạp chí.{{sfn|Evans|2005|pp=143–144}} [[Alfred Rosenberg]], tác giả cuốn ''[[Thần thoại Thế kỷ Hai Mươi]]'' tán dương sự ưu việt của người Bắc Âu, đảm nhiệm vai trò chủ biên tờ nhật báo ''[[Völkischer Beobachter]]'' (Quan sát viên Sắc tộc) của Đảng Quốc xã.{{sfn|Shirer|1960|p=149}} Goebbels kiểm soát dịch vụ điện tín và một mực yêu cầu tất cả tờ báo ở Đức chỉ cho đăng nội dung có lợi cho chế độ. Bộ Tuyên truyền của Goebbels phát đi hàng chục chỉ thị mỗi tuần liên quan đến những gì nên hay không nên đăng tải. Những tờ báo nổi bật tuân thủ chỉ thị một cách chặt chẽ, nhất là với những nội dung không nên đăng.{{sfn|Dussel|2010|pp=545, 555–557}} Lượng độc giả báo chí giảm mạnh một phần bởi chất lượng nội dung giảm sút và truyền thanh đang ngày một phổ biến.{{sfn|Evans|2005|pp=146–147}} Càng về cuối cuộc chiến công tác tuyên truyền càng kém hiệu quả do người dân đã có thể tiếp cận thông tin từ những luồng không chính thức.{{sfn|Dussel|2010|pp=561}}
| |
− | | |
− | Các tác giả viết sách lũ lượt rời bỏ đất nước và một số người đã viết tài liệu phê phán chế độ trong thời gian lưu vong. Goebbels khuyến nghị số tác giả còn lại tập trung vào chủ đề thần thoại Đức cùng quan niệm [[máu và đất]]. Đến hết năm 1933 chế độ đã cấm lưu truyền hơn một ngàn cuốn sách mà hầu hết là của tác giả Do Thái hoặc mô tả những nhân vật Do Thái.{{sfn|Evans|2005|pp=152–159}} Những hoạt động đốt sách diễn ra, tiêu biểu là trong đêm ngày 10 tháng 5 năm 1933.{{sfn|Evans|2005|p=16}} Hàng chục ngàn cuốn sách của nhiều nhân vật như [[Albert Einstein]], [[Sigmund Freud]], [[Helen Keller]], [[Alfred Kerr]], [[Marcel Proust]], [[Erich Maria Remarque]], [[Upton Sinclair]], [[Jakob Wassermann]], [[H. G. Wells]], [[Émile Zola]] bị đốt công khai. Văn chương hướng đến chủ nghĩa hòa bình, theo đuổi những giá trị tự do, dân chủ, ủng hộ Cộng hòa Weimar, hay có tác giả là người Do Thái đều bị thiêu hủy.{{sfn|Shirer|1960|p=241}}
| |
− | {{clear}}
| |
− | === Kiến trúc và nghệ thuật ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 146III-373, Modell der Neugestaltung Berlins ("Germania").jpg|thumb|upright=0.8|''[[Volkshalle]]'' (Hội trường Nhân dân) và một khải hoàn môn được dự tính xây dựng tại hai đầu một đại lộ rộng lớn.]]
| |
− | Hitler quan tâm đến kiến trúc và hợp tác chặt chẽ với hai kiến trúc sư [[Paul Troost]] và [[Albert Speer]] để xây nên những tòa nhà công cộng mang phong cách [[kiến trúc tân cổ điển|tân cổ điển]] dựa trên [[kiến trúc La Mã]].{{sfn|Scobie|1990|p=92}}{{sfn|Evans|2005|p=181}} Speer đã tạo ra những công trình hùng vĩ như khuôn viên đại hội Đảng Quốc xã ở [[Nuremberg]] và tòa nhà Phủ Thủ tướng mới ở Berlin.{{sfn|Speer|1971|pp=92, 150–151}} Trong kế hoạch tái cấu trúc Berlin của Hitler có bao gồm một mái vòm khổng lồ lấy ý tưởng [[Pantheon]] ở Roma và một [[khải hoàn môn]] cao hơn gấp đôi [[Arc de Triomphe]] ở Paris. Trên thực tế chưa có công trình nào được xây dựng.{{sfn|Speer|1971|pp=115–116, 190}}
| |
− | | |
− | Hitler tin rằng [[nghệ thuật trừu tượng]], [[phong trào Dada]], [[chủ nghĩa biểu hiện]] và [[nghệ thuật hiện đại]] là suy đồi và điều này trở thành nền tảng cho chính sách.{{sfn|Evans|2005|p=168}} Nhiều giám đốc bảo tàng nghệ thuật bị cách chức vào năm 1933 và thay thế bằng đảng viên quốc xã.{{sfn|Evans|2005|p=169}} Chính quyền dỡ bỏ khoảng 6.500 tác phẩm nghệ thuật hiện đại khỏi các bảo tàng và thay bằng những tác phẩm đã qua chọn lọc.{{sfn|Shirer|1960|pp=243–244}} Triển lãm trưng bày tác phẩm bị loại bỏ mang những tên kiểu như "Sự suy đồi trong Nghệ thuật" được tổ chức ở mười sáu thành phố khác nhau tính đến năm 1935. Goebbels cũng tổ chức [[Triển lãm Nghệ thuật Suy đồi]] ở Munich từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1937 và xem ra rất thành công khi thu hút tới hơn hai triệu lượt khách.{{sfn|Evans|2005|pp=171, 173}}
| |
− | | |
− | Nhà soạn nhạc [[Richard Strauss]] được bổ nhiệm làm chủ tịch ''[[Reichsmusikkammer]]'' (Phòng Âm nhạc Đế chế) thành lập vào tháng 11 năm 1933.{{sfn|Evans|2005|p=187}} Tương tự những hình thức nghệ thuật khác, quốc xã loại ra những nhạc sĩ có dòng dõi không thể chấp nhận và đa phần không tán thành âm nhạc quá hiện đại hay vô điệu.{{sfn|Evans|2005|p=199}} [[Jazz]] được xem là dòng nhạc đặc biệt không phù hợp và những nhạc sĩ jazz nước ngoài đã rời bỏ đất nước hoặc bị trục xuất.{{sfn|Evans|2005|p=204}} Hitler thích nhạc của [[Richard Wagner]], nhất là những bản nhạc dựa trên thần thoại Đức hay câu chuyện anh hùng. Ông tham dự [[Liên hoan Bayreuth]] hàng năm từ 1933 đến 1942.{{sfn|Evans|2005|pp=199–200}}
| |
− | | |
− | === Điện ảnh ===
| |
− | [[File:Bundesarchiv Bild 146-1988-106-29, Leni Riefenstahl bei Dreharbeiten.jpg|thumb|left|upright=0.8|Leni Riefenstahl (giữa) tại Thế vận hội Mùa hè 1936]]
| |
− | Phim ảnh phổ biến ở Đức trong thập niên 1930 và 1940.{{sfn|Evans|2005|p=130}} Cho đến năm 1934, những quy định hạn chế xuất khẩu tiền tệ đã khiến các nhà làm phim Hoa Kỳ không thể thu hồi lợi nhuận về nước, vậy nên các hãng phim lớn đã đóng cửa chi nhánh của họ ở Đức. Ít có phim nào của Đức được xuất ra nước ngoài bởi không có nước nào chấp nhận nội dung bài Do Thái. Bộ Tuyên truyền mua lại hai hãng phim lớn nhất là [[UFA GmbH|UFA]] và [[Wien-Film]]. Đến năm 1939 đa số phim của Đức là do hai hãng này sản xuất. Sản phẩm không phải luôn luôn chứa đựng yếu tố tuyên truyền công khai nhưng nhìn chung có kèm ẩn ý chính trị. Chủ đề và nội dung theo đúng chỉ dẫn của đảng còn kịch bản thì luôn được kiểm duyệt trước.{{sfn|Evans|2005|pp=130–132}}
| |
− | | |
− | Hai phim của [[Leni Riefenstahl]] là ''[[Triumph des Willens]]'' (1935) ghi lại Đại hội Nuremberg 1934 và ''[[Olympia (phim 1938)|Olympia]]'' (1938) mô tả [[Thế vận hội Mùa hè 1936]] đã tiên phong ứng dụng kỹ thuật chỉnh sửa và cử động máy quay, ảnh hưởng đến những phim sau này. Công nghệ mới như ống kính tele và gắn camera trên đường ray được áp dụng. Cả hai phim vẫn gây tranh cãi vì hình ảnh xuất sắc của chúng không thể tách biệt với nội dung tuyên truyền lý tưởng quốc xã.{{sfn|''The Daily Telegraph'', 2003}}{{sfn|Evans|2005|pp=125–126}}
| |
− | {{clear}}
| |
− | | |
− | == Di sản ==
| |
− | [[File:Defendants in the dock at the Nuremberg Trials.jpg|thumb|upright=0.8|Các bị cáo tại tòa án Nuremberg]]
| |
− | Các cường quốc Đồng minh đã lập ra những phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh, khởi đầu là [[tòa án Nuremberg|Nuremberg]] diễn ra từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 10 năm 1946 xét xử 23 quan chức quốc xã hàng đầu. Họ bị cáo buộc bốn tội danh: âm mưu thực hiện tội ác, tội ác chống hòa bình, tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại; vi phạm những luật lệ quốc tế về chiến tranh.{{sfn|Evans|2008|p=741}} Chỉ ba bị cáo không bị kết tội và mười hai người nhận án tử hình.{{sfn|Shirer|1960|p=1143}} Từ năm 1946 đến 1949 có thêm mười hai phiên tòa xử 184 bị cáo,{{sfn|Evans|2008|p=741}} phe Đồng minh điều tra 3.887 trường hợp trong đó 489 được đem ra xét xử. Kết quả 1.426 người bị kết tội, 297 án tử hình và 279 án chung thân, những người còn lại nhận bản án nhẹ hơn. Khoảng 65% án tử hình được thực thi.{{sfn|Marcuse|2001|p=98}} Ba Lan tích cực hơn các nước khác trong khoản điều tra tội ác chiến tranh, một ví dụ là họ đã truy tố 673 trên tổng số 789 nhân viên Auschwitz.{{sfn|Rees|2005|pp=295–96}}
| |
− | | |
− | Cương lĩnh chính trị mà Hitler và những người quốc xã theo đuổi đã gây ra một cuộc chiến tranh thế giới, để lại phía sau một châu Âu kiệt quệ, hoang tàn mà ngay bản thân nước Đức cũng bị tàn phá nặng nề.{{sfn|Fischer|1995|p=569}} Số dân thường thiệt mạng trong Thế chiến thứ Hai là lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.{{sfn|Murray|Millett|2001|p=554}} Chứng kiến những gì diễn ra, hầu hết mọi người đều cho rằng ý thức hệ quốc xã và những điều mà chế độ từng làm là cực kỳ vô đạo.{{sfn|Kershaw|2000a|pp=1–6}} Các nhà sử học, triết gia và chính trị gia thường dùng từ "quỷ dữ" để mô tả Hitler và chế độ quốc xã.{{sfn|Welch|2001|p=2}} Sau này, chủ đề Đức Quốc xã vẫn tiếp tục thu hút truyền thông và giới học thuật. Sử gia Richard Evans nhận xét đó là thời đại "có sức lôi cuốn hầu như phổ quát bởi quan điểm phân biệt chủng tộc tàn bạo của nó như một lời cảnh tỉnh đến toàn thể nhân loại".{{sfn|Evans|2009|p=56}} Hành động phô bày hay sử dụng những biểu tượng quốc xã như cờ, [[chữ vạn]], hay kiểu chào là bất hợp pháp ở Đức và Áo.{{sfn|''Strafgesetzbuch'', section 86a}}
| |
− | | |
− | Công cuộc phi quốc xã hóa do phe Đồng minh khởi xướng nhắm đến loại bỏ những cựu đảng viên quốc xã chỉ thành công một phần do nhu cầu chuyên gia ở các lĩnh vực như y tế và kỹ thuật là quá lớn. Tuy nhiên hành vi biểu hiện quan điểm quốc xã không được chấp nhận và những ai phạm phải điều này đều bị đuổi việc.{{sfn|Evans|2008|pp=748–749}} Thời kỳ sau chiến tranh đến hết thập niên 1950, người dân né tránh nói về chế độ quốc xã hay trải nghiệm thời chiến của họ. Trong khi gần như mọi gia đình chịu tổn thất trong chiến tranh đều có một câu chuyện để kể, họ đã giấu đi những trải nghiệm và cảm thấy mang chung lỗi lầm dù cho không trực tiếp dính líu đến những tội ác chiến tranh.{{sfn|Sontheimer|2005}}
| |
− | | |
− | Phiên tòa xử [[Adolf Eichmann]] năm 1961 và loạt chương trình truyền hình ngắn tập ''Holocaust'' năm 1979 đã phơi bày công cuộc ''[[Vergangenheitsbewältigung]]'' (Vượt qua quá khứ) ra trước nhiều người dân Đức.{{sfn|''The Economist''|2015}}{{sfn|Sontheimer|2005}} Kiến thức về Đức Quốc xã được đưa vào chương trình học từ những năm 1970 và mọi người bắt đầu tìm hiểu trải nghiệm của những thành viên gia đình họ. Công tác nghiên cứu về thời đại và tinh thần sốt sắng xem xét nghiêm túc những sai lầm của nó đã mang đến một nền dân chủ mạnh ở Đức nhưng đâu đó vẫn còn vương vãi tư tưởng tân quốc xã và bài Do Thái ngầm.{{sfn|Sontheimer|2005}}
| |
− | | |
− | Vào năm 2017 một cuộc khảo sát của Körber-Stiftung phát hiện 40 phần trăm thiếu niên 14 tuổi ở Đức không biết [[trại tập trung Auschwitz|Auschwitz]] là gì.{{sfn|Goebel|2017}} Nhà báo Alan Posener cho rằng "chứng quên lịch sử" đang tăng một phần là do ngành điện ảnh và truyền hình thất bại trong việc phản ánh chính xác lịch sử đất nước.{{sfn|Posener|2018}}
| |
− | | |
− | == Tham khảo ==
| |
− | === Chú giải ===
| |
− | {{notes
| |
− | | notes =
| |
− | {{efn
| |
− | | name = Wessel
| |
− | | Vào ngày 12 tháng 7 năm 1933, Bộ trưởng Nội vụ [[Wilhelm Frick]] ra lệnh phát ''Horst-Wessel-Lied'' ngay sau quốc ca hiện hành ''[[Das Lied der Deutschen]]'', thường gọi là ''Deutschland Über Alles''.{{harvnb|Tümmler|2010|p=63}}.
| |
− | }}
| |
− | {{efn
| |
− | | name = annexed
| |
− | | bao gồm [[Vùng bảo hộ Bohemia và Moravia]] và [[Tổng đốc phủ Ba Lan]]
| |
− | }}
| |
− | {{efn
| |
− | | name = statistics
| |
− | | Vào năm 1939, diện tích của Đức trước khi tiếp quản hai địa bàn mà nước này từng quản lý trước hòa ước Versailles là Alsace-Lorraine, Danzig và Hành lang Ba Lan là 633.786 km<sup>2</sup>. Xem {{harvnb|Statistisches Jahrbuch|2006}}.
| |
− | {{efn
| |
− | | name = districts
| |
− | | Thêm những địa phận như vậy, ví dụ ''[[Reichskommissariat Moskowien]]'' (Moskva), ''[[Reichskommissariat Kaukasus]]'' (Kavkaz) và ''[[Reichskommissariat Turkestan]]'' (Turkestan) được đề xuất trong trường hợp Đức kiểm soát những lãnh thổ này.
| |
− | }}
| |
− | }}
| |
− | {{efn
| |
− | | name = phát xít
| |
− | | Tên gọi không chính xác do [[hệ tư tưởng]] gắn liền với quốc gia này không phải [[chủ nghĩa phát xít]] mà là [[chủ nghĩa quốc xã]]. Đây là hai khái niệm phân biệt.
| |
− | }}
| |
− | {{efn
| |
− | | name = Führer
| |
− | | Lãnh đạo, lãnh tụ, quốc trưởng
| |
− | }}
| |
− | }}
| |
− | | |
− | === Trích dẫn ===
| |
− | {{Reflist|25em}}
| |
− | | |
− | === Thư mục ===
| |
− | {{refbegin}}
| |
− | * {{cite encyclopedia | editor-last1 = Bartrop | editor-first1 = Paul R. | editor-last2 = Jacobs | editor-first2 = Leonard | title = Einsatzgruppen | encyclopedia = Modern Genocide: The Definitive Resource and Document Collection | volume = 1 | publisher = ABC-CLIO | location = Santa Barbara, CA | date = 2014 | isbn = 978-1-61069-363-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Beevor | first = Antony | author-link = Antony Beevor | title = Berlin: The Downfall 1945 | year = 2002 | publisher = Viking-Penguin Books | location = London | isbn = 978-0-670-03041-5 | title-link = Berlin: The Downfall 1945 }}
| |
− | * {{cite book | last = Beevor | first = Antony | title = The Second World War | year = 2012 | publisher = Little, Brown | location = New York | isbn = 978-0-316-02374-0| title-link = The Second World War (book) }}
| |
− | * {{cite book | last = Bendersky | first = Joseph W. | title = A Concise History of Nazi Germany: 1919–1945 | year = 2007 | publisher = Rowman & Littlefield | location = Lanham, MD | isbn = 978-0-7425-5363-7 }}
| |
− | * {{cite book | last = Berben | first = Paul | title = Dachau 1933–1945: The Official History | year = 1975 | publisher = Norfolk Press | location = London | isbn = 978-0-85211-009-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Berghahn | first = Volker R. | author-link = Volker Berghahn | chapter = Germans and Poles, 1871–1945 | editor1-last = Bullivant |editor1-first = Keith | editor2-last = Giles | editor2-first = Geoffrey |editor3-last=Pape | editor3-first = Walter |title = Germany and Eastern Europe: Cultural Identities and Cultural Differences | series = Yearbook of European Studies |publisher = Rodopi | location = Amsterdam; Atlanta, GA | year = 1999 | isbn = 978-90-420-0688-1 }}
| |
− | * {{citation | last1 = Beyer | first1 = John C. | last2 = Schneider | first2 = Stephen A. | title = Forced Labour under the Third Reich – Part 1 | publisher = Nathan Associates | url = http://www.nathaninc.com/sites/default/files/Pub%20PDFs/Forced%20Labor%20Under%20the%20Third%20Reich,%20Part%20One.pdf | access-date = 12 May 2013 | ref = {{sfnRef|Beyer & Schneider}} | url-status = dead | archive-url = https://web.archive.org/web/20130509054212/http://www.nathaninc.com/sites/default/files/Pub%20PDFs/Forced%20Labor%20Under%20the%20Third%20Reich,%20Part%20One.pdf | archive-date = 9 May 2013 | df = dmy-all | postscript = .}}
| |
− | * {{cite journal | last = Biddiscombe | first = Perry | title = Dangerous Liaisons: The Anti-Fraternization Movement in the US Occupation Zones of Germany and Austria, 1945–1948 | journal = Journal of Social History | year = 2001 | volume = 34 | issue = 3 | pages = 611–647 | doi = 10.1353/jsh.2001.0002 | s2cid = 145470893 }}
| |
− | * {{cite book | last = Bracher | first = Karl Dietrich | author-link = Karl Dietrich Bracher | year = 1970 | title = The German Dictatorship | translator-first= Jean |translator-last=Steinberg | publisher = [[Penguin Books]] | location = New York | isbn = 978-0-14-013724-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Browning | first = Christopher | title = The Origins of the Final Solution: The Evolution of Nazi Jewish Policy, September 1939 – March 1942 | year = 2005 | publisher = Arrow | location = UK | isbn = 978-0-8032-5979-9 }}
| |
− | * {{citation | last1 = Busse | first1 = Reinhard | last2 = Riesberg | first2 = Annette | title = Health Care Systems in Transition: Germany | year = 2004 | publisher = WHO Regional Office for Europe on behalf of the European Observatory on Health Systems and Policies | location = Copenhagen | url = http://www.euro.who.int/__data/assets/pdf_file/0018/80703/E85472.pdf | access-date = 4 September 2019 | postscript = .}}
| |
− | * {{cite web | last = Bytwerk | first = Randall | work = German Propaganda Archive | title = Goebbels' 1943 Speech on Total War | year = 1998 | publisher = [[Calvin College]] | url = http://research.calvin.edu/german-propaganda-archive/goeb36.htm | access-date = 3 March 2016 }}
| |
− | * {{cite book | last = Childers | first = Thomas | title = The Third Reich: A History of Nazi Germany | year = 2017 | publisher = Simon & Schuster | location = New York | isbn = 978-1-45165-113-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Clark | first = Lloyd |author-link = Lloyd Clark | title = Kursk: The Greatest Battle: Eastern Front 1943 | publisher = Headline Review | location = London | year = 2012 | isbn = 978-0-7553-3639-5 }}
| |
− | * {{cite book | last = Closmann | first = Charles | editor1-last = Brüggemeier | editor1-first = Franz-Josef | editor2-last = Cioc | editor2-first = Mark | editor3-last = Zeller | editor3-first = Thomas | title = How Green Were the Nazis?: Nature, Environment, and Nation in the Third Reich | chapter = Legalizing a ''Volksgemeinschaft'': Nazi Germany's Reich Nature Protection Law of 1935 | year = 2005 | publisher = Ohio University Press | location = Athens | isbn = 978-0-8214-1646-4 }}
| |
− | * {{cite book| editor1-last = Constable | editor1-first = George | title = Fists of Steel | series = The Third Reich | year = 1988 | publisher = Time-Life Books | location = Alexandria, VA | isbn = 978-0-8094-6966-6 | url = https://archive.org/details/fistsofsteel00time}}
| |
− | * {{cite book | last = Conway | first = John S | author-link = John S. Conway (historian) | title = The Nazi Persecution of the Churches, 1933–1945 | year = 2001 | publisher = Regent College Publishing | location = Vancouver | isbn = 978-1-57383-080-5 }}
| |
− | * {{cite book | last = Cox | first = John M. | title = Circles of Resistance: Jewish, Leftist, and Youth Dissidence in Nazi Germany | publisher = Peter Lang | year = 2009 | location = New York | isbn = 978-1-4331-0557-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Cuomo | first = Glenn R. | title = National Socialist Cultural Policy | year = 1995 | publisher = Palgrave MacMillan | location = New York | isbn = 978-0-312-09094-4 }}
| |
− | * {{cite book| last = Davies | first = Norman | author-link = Norman Davies | title = Rising '44: the Battle for Warsaw | year = 2003 | publisher = Viking | location = New York | isbn = 978-0-670-03284-6 | url = https://archive.org/details/rising44battlefo00norm}}
| |
− | * {{cite journal | last = Davis | first = Richard G. | title = German Rail Yards and Cities: U.S. Bombing Policy 1944–1945 | journal = Air Power History | year = 1995 | volume = 42 | issue = 2 | pages = 46–63 }}
| |
− | * {{cite book | last = DeGregori | first = Thomas R. | title = Bountiful Harvest: Technology, Food Safety, and the Environment | publisher = Cato Institute | location = Washington | year = 2002 | isbn = 978-1-930865-31-0 }}
| |
− | * {{cite web | last = DeLong | first = J. Bradford | author-link = J. Bradford DeLong | title = Slouching Towards Utopia?: The Economic History of the Twentieth Century. XV. Nazis and Soviets | date = February 1997 | publisher = University of California at Berkeley | work = econ161.berkeley.edu | url = http://econ161.berkeley.edu/TCEH/Slouch_Purge15.html | archive-url = https://web.archive.org/web/20080511190923/http://econ161.berkeley.edu/TCEH/Slouch_Purge15.html | access-date = 21 April 2013 | archive-date = 11 May 2008 | url-status = dead | df = dmy-all}}
| |
− | * {{citation | title = Die Bevölkerung des Deutschen Reichs nach den Ergebnissen der Volkszählung 1939 | trans-title = Population of the German Realm according to the 1939 census | location = Berlin | year = 1941 | issue = 2 | postscript = . | ref = {{sfnRef|1939 Census}} }}
| |
− | * {{cite book | last = Dönitz | first = Karl | author-link = Karl Dönitz | title = Memoirs: Ten Years and Twenty Days | year = 2012 | orig-year = 1958 | publisher = Frontline | location = London | isbn = 978-1-84832-644-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Dorland | first = Michael | title = Cadaverland: Inventing a Pathology of Catastrophe for Holocaust Survival: The Limits of Medical Knowledge and Memory in France | publisher = University Press of New England | series = Tauber Institute for the Study of European Jewry series | location = Waltham, Mass | year = 2009 | isbn = 978-1-58465-784-2 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Dussel | first = Konrad | title = Wie erfolgreich war die nationalsozlalistische Presselenkung? | trans-title = How Successful was National Socialist Control of the Daily Press? | language = de | journal = Vierteljahrshefte für Zeitgeschichte | date = 2010 | volume = 58 | issue = 4 | pages = 543–561 | doi = 10.1524/vfzg.2010.0026 | s2cid = 147376008 }} {{subscription required}}
| |
− | * {{cite book | title = Encyklopedia Powszechna PWN | volume = 3 | year = 2004 | publisher = Państwowe Wydawnictwo Naukowe | location = Warsaw | language = pl | isbn = 978-83-01-14179-0 | ref = {{sfnRef|Powszechna PWN|2004}} }}
| |
− | * {{cite book| last1 = Ericksen | first1 = Robert P. | author-link1 = Robert Ericksen | last2 = Heschel | first2 = Susannah | author-link2 = Susannah Heschel | title = Betrayal: German Churches and the Holocaust | year = 1999 | publisher = Augsberg Fortress | location = Minneapolis | isbn = 978-0-8006-2931-1 | url = https://archive.org/details/betrayalgermanch00eric}}
| |
− | * {{cite web | title = "Euthanasie" im Nationalsozialismus | year = 2012 | work = Das Bundesarchiv | publisher = Government of Germany | language = de | url = https://www.bundesarchiv.de/benutzung/zeitbezug/nationalsozialismus/00303/index.html.de | access-date = 19 May 2013 | ref = {{sfnRef|Bundesarchiv, "Euthanasie" im Nationalsozialismus}} | url-status = dead | archive-url = https://web.archive.org/web/20131021060807/http://www.bundesarchiv.de/benutzung/zeitbezug/nationalsozialismus/00303/index.html.de | archive-date = 21 October 2013 | df = dmy-all}}
| |
− | * {{cite book | last = Evans | first = Richard J. | author-link = Richard J. Evans | title = The Coming of the Third Reich | year = 2003 | publisher = Penguin | location = New York | isbn = 978-0-14-303469-8 | title-link = The Coming of the Third Reich }}
| |
− | * {{cite book | last = Evans | first = Richard J. | year = 2005 | title = The Third Reich in Power | url = https://archive.org/details/thirdreichinpowe00evan | url-access = registration | publisher = Penguin | location = New York | isbn =978-0-14-303790-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Evans | first = Richard J. | year = 2008 | title = The Third Reich at War | url = https://archive.org/details/thirdreichatwar00evan_0 | url-access = registration | publisher = Penguin | location = New York | isbn = 978-0-14-311671-4 }}
| |
− | * {{cite book | last = Evans | first = Richard J. | title = Cosmopolitan Islanders: British Historians and the European Continent | year = 2009 | publisher = Cambridge University Press | location = Cambridge; New York | isbn = 978-0-521-19998-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Farago | first = Ladislas | author-link = Ladislas Farago | year = 1972 | orig-year = 1942 | title = German Psychological Warfare | publisher = Arno Press | location = New York | series = International Propaganda and Communications |isbn = 978-0-405-04747-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Fest | first = Joachim | author-link = Joachim Fest | title = Plotting Hitler's Death: The German Resistance to Hitler 1933–1945 | year = 1996 | publisher = Weidenfeld & Nicolson | location = London | isbn = 978-0-297-81774-1 }}
| |
− | * {{cite book | last = Fest | first = Joachim | translator-first = Ewald | translator-last = Osers | translator2-first = Alexandra | translator2-last = Dring | title = Speer: The Final Verdict | year = 1999 | publisher = Harcourt | location = San Diego | isbn = 978-0-15-100556-7 | url = https://archive.org/details/speerfinalverdic00fest}}
| |
− | * {{cite book | last = Fischer | first = Klaus P. | title = Nazi Germany: A New History | publisher = Constable and Company | location = London | year = 1995 | isbn = 978-0-09-474910-8 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Fleming | first = Michael | author-link = Michael Fleming (historian) | date = Spring 2014 |title = Allied Knowledge of Auschwitz: A (Further) Challenge to the 'Elusiveness' Narrative | journal = Holocaust and Genocide Studies | volume = 28 | issue = 1 | pages = 31–57 | doi = 10.1093/hgs/dcu014 | s2cid = 143736579 }}
| |
− | * {{cite book | last = Freeman | first = Michael J. | title = Atlas of Nazi Germany: A Political, Economic, and Social Anatomy of the Third Reich | year = 1995 | publisher = Longman | location = London; New York | isbn = 978-0-582-23924-1 }}
| |
− | * {{cite book | last = Friedländer | first = Saul | author-link = Saul Friedländer | title = Nazi Germany and the Jews, 1933–1945 | year = 2009 | publisher = Harper Perennial | location = New York | isbn = 978-0-06-135027-6 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Gellately | first = Robert | author-link = Robert Gellately | title = Reviewed work(s): Vom Generalplan Ost zum Generalsiedlungsplan by Czeslaw Madajczyk. Der "Generalplan Ost". Hauptlinien der nationalsozialistischen Planungs- und Vernichtungspolitik by Mechtild Rössler; Sabine Schleiermacher | journal = Central European History | volume = 29 | issue = 2 | year = 1996 | pages = 270–274 | doi = 10.1017/S0008938900013170}}
| |
− | * {{cite book | last = Gellately | first = Robert | title = Social Outsiders in Nazi Germany | year = 2001 | publisher = Princeton University Press | location = Princeton, NJ | isbn = 978-0-691-08684-2 }}
| |
− | * {{cite book | author = Germany (West) Presse- und Informationsamt | title = Germany Reports. With an introduction by Konrad Adenauer | year = 1961 | publisher = F. Steiner | location = Wiesbaden | language = de | oclc = 5092689 | ref = {{sfnRef|''Germany Reports''|1961}} }}
| |
− | * {{cite book | last = Gill | first = Anton | author-link = Anton Gill | title = An Honourable Defeat: A History of the German Resistance to Hitler | year = 1994 | publisher = Heinemann | location = London }}
| |
− | * {{cite book | last = Gill | first = Roger | title = Theory and Practice of Leadership | year = 2006 | publisher = SAGE Publications | location = London | isbn = 978-0-7619-7176-4 }}
| |
− | * {{cite book| last = Glantz | first = David M. | author-link = David Glantz | title = When Titans Clashed: How the Red Army Stopped Hitler | publisher = University Press of Kansas | location = Lawrence, KS | year = 1995 | isbn = 978-0-7006-0899-7 | url = https://archive.org/details/whentitansclashe00glan_0}}
| |
− | * {{cite news | last = Goebel | first = Nicole | title = Auschwitz-Birkenau: 4 out of 10 German students don't know what it was | url = https://www.dw.com/en/auschwitz-birkenau-4-out-of-10-german-students-dont-know-what-it-was/a-40734980 | work = Deutsche Welle | date = 28 September 2017 | archive-url = https://web.archive.org/web/20170928204158/https://www.dw.com/en/auschwitz-birkenau-4-out-of-10-german-students-dont-know-what-it-was/a-40734980 | archive-date = 28 September 2017 | url-status = live | access-date = 16 February 2019 }}
| |
− | * {{cite book | last = Goeschel | first = Christian | title = Suicide in Nazi Germany | year = 2009 | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York | isbn = 978-0-19-953256-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Goldhagen | first = Daniel | author-link = Daniel Goldhagen | title = Hitler's Willing Executioners: Ordinary Germans and the Holocaust | year = 1996 | publisher = Knopf | location = New York | isbn = 978-0-679-44695-8 | title-link = Hitler's Willing Executioners}}
| |
− | * {{cite book| last = Grunberger | first = Richard | author-link = Richard Grunberger | year = 1971 | title = The 12-Year Reich: A Social History of Nazi Germany 1933–1945 | publisher = Holt Rinehart and Winston | location = New York | isbn = 978-0-03-076435-6 | url = https://archive.org/details/12yearreichsoc00grun}}
| |
− | * {{cite journal | last = Hamblet | first = Wendy C. | title = Book Review: Götz Aly: Hitler's Beneficiaries: Plunder, Racial War, and the Nazi Welfare State | journal = Genocide Studies and Prevention | year = 2008 | volume = 3 | issue = 2 | pages = 267–268 | doi = 10.1353/gsp.2011.0076 | s2cid = 143661188 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Hanauske-Abel | first = Hartmut M. | title = Not a slippery slope or sudden subversion: German medicine and National Socialism in 1933 | journal = BMJ | date = 7 December 1996 | volume = 313 | issue = 7070 | pages = 1453–1463 | doi = 10.1136/bmj.313.7070.1453 | url = http://www.ippnw.org/pdf/mgs/3-hanauske-abel.pdf | pmid=8973235 | pmc=2352969}}
| |
− | * {{Cite news | last1 = Harding | first1 = Thomas | author-link = Thomas Harding (writer) | title = Battle of Britain was won at sea. Discuss | url = https://www.telegraph.co.uk/news/1527068/Battle-of-Britain-was-won-at-sea.-Discuss.html | website = The Telegraph | access-date = 22 December 2017 | date = 23 August 2006 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = Heinemann | first1 = Isabel | last2 = Oberkrome | first2 = Willi | last3 = Schleiermacher | first3 = Sabine | last4 = Wagner | first4 = Patrick | title = Nauka, planowanie, wypędzenia : Generalny Plan Wschodni narodowych socjalistów : katalog wystawy Niemieckiej Współnoty Badawczej | year = 2006 | publisher = Deutsche Forschungsgemeinschaft | language = pl | url = https://www.dfg.de/download/pdf/dfg_magazin/wissenschaft_oeffentlichkeit/ausstellungen/generalplan_ost/generalplan_ost_katalog_pl_120131.pdf | location = Bonn | ref = {{sfnRef|Heinemann et al.|2006}} }}
| |
− | * {{cite book|last=Richter|first=Heinz A.|title=Greece in World War II|others=transl by Kostas Sarropoulos|publisher=Govostis|year=1998|location=Athens|language=el |isbn=978-960-270-789-0}}
| |
− | * {{cite book | last = Hildebrand | first = Klaus | author-link = Klaus Hildebrand | title = The Third Reich | year = 1984 | publisher = George Allen & Unwin | location = Boston | isbn = 978-0-04-943032-7 | url-access = registration | url = https://archive.org/details/thirdreich0000hild}}
| |
− | * {{cite book | last = Hoffmann | first = Peter | author-link = Peter Hoffmann (historian) | title = German Resistance to Hitler | year = 1988 | publisher = Harvard University Press | location = Cambridge; London | isbn = 978-0-674-35085-4 | url = https://archive.org/details/germanresistance00pete}}
| |
− | * {{cite book | last = Hoffmann | first = Peter | title = The History of the German Resistance, 1933–1945 | orig-year = 1977 | year = 1996 | publisher = McGill-Queen's University Press | location = Montreal | isbn = 978-0-7735-1531-4 }}
| |
− | * {{cite book| last = Hosking | first = Geoffrey A. | author-link = Geoffrey Hosking | title = Rulers and Victims: The Russians in the Soviet Union | year = 2006 | publisher = Harvard University Press | location = Cambridge | isbn = 978-0-674-02178-5 | url = https://archive.org/details/rulersvictimsrus00hosk}}
| |
− | * {{cite book | last = Hubert | first = Michael | title = Deutschland im Wandel. Geschichte der deutschen Bevolkerung seit 1815 | year = 1998 | publisher = Steiner, Franz Verlag | language = de | location = Stuttgart | isbn = 978-3-515-07392-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Kershaw | author-link = Ian Kershaw | first = Ian | title = Hitler, 1936–1945: Nemesis | location = New York; London | publisher = W. W. Norton & Company | year = 2000b | isbn = 978-0-393-32252-1 }}
| |
− | * {{cite book| last = Kershaw | first = Ian | year = 2000a | edition = 4th | title = The Nazi Dictatorship: Problems and Perspectives of Interpretation | publisher = Arnold | location = London | isbn = 978-0-340-76028-4 | url = https://archive.org/details/nazidictatorship00kers}}
| |
− | * {{cite book |last = Kershaw | first = Ian | title = The "Hitler Myth": Image and Reality in the Third Reich | year = 2001 | orig-year = 1987 | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York | isbn = 978-0-19-280206-4 }}
| |
− | * {{cite book | last = Kershaw | first = Ian | title = Hitler: A Biography | publisher = W. W. Norton & Company | location = New York | year = 2008 | isbn = 978-0-393-06757-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Kershaw | first = Ian | title = The End: Hitler's Germany, 1944–45 | year = 2011 | publisher = Penguin | location = London; New York | isbn = 978-1-59420-314-5 | url = https://archive.org/details/enddefiancedestr00kers_0}}
| |
− | * {{citation | title = Kinobesuche in Deutschland 1925 bis 2004 | publisher = Spitzenorganisation der Filmwirtschaft e. V | url = http://www.spio.de/media_content/610.pdf | language = de | access-date = 4 September 2019 | ref = {{sfnRef|SPIO, Department of Statistics}} | url-status = dead | archive-url = https://web.archive.org/web/20120204111257/http://www.spio.de/media_content/610.pdf | archive-date = 4 February 2012 | df = dmy-all | postscript = .}}
| |
− | * {{cite book | last = Kirschbaum | first = Stanislav J. | title = A History of Slovakia: The Struggle for Survival | year = 1995 | publisher = St. Martin's Press | location = New York | isbn = 978-1-4039-6929-3 | url = https://archive.org/details/historyofslovaki00kirs}}
| |
− | * {{Cite book | last = Kitchen | first = Martin | author-link = Martin Kitchen | title = A History of Modern Germany, 1800–2000 | year = 2006 | publisher = Blackwell | location = Malden, MA | isbn = 978-1-4051-0040-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Klemperer | first = Klemens von | author-link = Klemens von Klemperer | title = German Resistance Against Hitler: The Search for Allies Abroad 1938-1945 | year = 1992 | publisher = Oxford University Press | isbn = 978-0-19-160679-3 }}
| |
− | * {{cite book| last=Koonz | first=Claudia | title=The Nazi Conscience | location=Cambridge, MA | publisher=Belknap Press of Harvard University Press | year=2003 | isbn=978-0-674-01172-4 | url=https://archive.org/details/naziconscience00koon}}
| |
− | * {{cite magazine | last = Lakotta | first = Beate | title = Tief vergraben, nicht dran rühren | magazine = [[Der Spiegel]] | date = March 2005 | issue = 2 | pages = 218–221 | publisher = Spiegel-Verlag | location = Hamburg | language = de | url = http://www.spiegel.de/spiegel/spiegelspecial/d-39863564.html }}
| |
− | * {{cite book | last = Lauryssens | first = Stan | author-link = Stan Lauryssens | title = The Man Who Invented the Third Reich: The Life and Times of Arthur Moeller van den Bruck | year = 1999 | publisher = Sutton | location = Stroud |isbn = 978-0-7509-1866-4 }}
| |
− | * {{cite news | title = Leni Riefenstahl | date=10 September 2003 | work = [[The Daily Telegraph]] | publisher = [[Telegraph Media Group|TMG]] | location = [[London]] | issn = 0307-1235 | oclc = 49632006 | url = https://www.telegraph.co.uk/news/obituaries/1440991/Leni-Riefenstahl.html?pageNum=3 | access-date = 10 May 2013 | ref = {{sfnRef|''The Daily Telegraph'', 2003}} }}
| |
− | * {{cite book | last = Lewis | first = Brenda Ralph | title = Hitler Youth: the Hitlerjugend in War and Peace 1933–1945 | year = 2000 | publisher = MBI | location = Osceola, WI | isbn = 978-0-7603-0946-9 }}
| |
− | * {{cite web | last = Libionka | first = Dariusz | title = The Catholic Church in Poland and the Holocaust, 1939–1945 | work = The Reaction of the Churches in Nazi Occupied Europe | publisher = Yad Vashem | url = http://www.yadvashem.org/download/about_holocaust/christian_world/libionka.pdf | access-date = 26 August 2013 | ref = {{sfnRef|Libionka, ''The Catholic Church in Poland''}} }}
| |
− | * {{cite journal | last = Longerich | first = Peter | author-link = Peter Longerich | title = Hitler's Role in the Persecution of the Jews by the Nazi Regime | at = 17. Radicalisation of the Persecution of the Jews by Hitler at the Turn of the Year 1941–1942 | journal = Holocaust Denial on Trial | publisher = Emory University | location = Atlanta | year = 2003 | url = http://www.hdot.org/en/trial/defense/pl1/17 | archive-url = https://web.archive.org/web/20090709111759/http://www.hdot.org/en/trial/defense/pl1/17 | archive-date = 9 July 2009 | access-date = 31 July 2013 | ref = {{sfnRef|Longerich, Chapter 17|2003}} | url-status = unfit}}
| |
− | * {{cite book | last = Longerich | first = Peter | title = Holocaust: The Nazi Persecution and Murder of the Jews | year = 2010 | isbn = 978-0-19-280436-5 | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York }}
| |
− | * {{cite book | last = Longerich | first = Peter | year = 2012 | title = Heinrich Himmler: A Life | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York | isbn = 978-0-19-959232-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Lukas | first = Richard C. | author-link = Richard C. Lukas | title = Did the Children Cry?: Hitler's War Against Jewish and Polish Children, 1939–1945 | orig-year = 1994 | year = 2001 | publisher = Hippocrene | location = New York | isbn = 978-0-7818-0870-5 | url-access = registration | url = https://archive.org/details/didchildrencryhi0000luka }}
| |
− | * {{cite book | last = Majer | first = Diemut | title = "Non-Germans" under the Third Reich: The Nazi Judicial and Administrative System in Germany and Occupied Eastern Europe, with Special Regard to Occupied Poland, 1939–1945 | year = 2003 | publisher = Johns Hopkins University Press | location = Baltimore; London | isbn = 978-0-8018-6493-3 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = Manvell | first1 = Roger | author1-link = Roger Manvell | last2 = Fraenkel | first2 = Heinrich | author2-link = Heinrich Fraenkel | title = Heinrich Himmler: The Sinister Life of the Head of the SS and Gestapo | year = 2007 | orig-year = 1965 | publisher = Greenhill; Skyhorse | location = London; New York | isbn = 978-1-60239-178-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Manvell | first = Roger | title = Goering | publisher = Skyhorse | location = London | year = 2011 | orig-year = 1962 | isbn = 978-1-61608-109-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Marcuse | first = Harold | author-link = Harold Marcuse | title = Legacies of Dachau: The Uses and Abuses of a Concentration Camp, 1933-2001 | year = 2001 | publisher = Cambridge University Press | location = Cambridge; New York | isbn = 978-0-521-55204-2 }}
| |
− | * {{cite book | last = Martin | first = Bernd | title = Japan and Germany in the Modern World | year = 2005 | orig-year = 1995 | publisher = Berghahn Books | location = New York; Oxford | isbn = 978-1-84545-047-2 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = Materski | first1 = Wojciech | last2 = Szarota | first2 = Tomasz | title = Polska 1939–1945: straty osobowe i ofiary represji pod dwiema okupacjami | year = 2009 | publisher = Instytut Pamięci Narodowej, Komisja Ścigania Zbrodni przeciwko Narodowi Polskiemu | language = pl | isbn = 978-83-7629-067-6 }}
| |
− | * {{cite book | last = Mazower | first = Mark | author-link = Mark Mazower | title = Hitler's Empire: How the Nazis Ruled Europe | year = 2008 | publisher = Penguin | location = New York; Toronto | isbn = 978-1-59420-188-2 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = McElligott | first1 = Anthony | last2 = Kirk | first2 = Tim | last3 = Kershaw | first3 = Ian | title = Working Towards the Führer: Essays in Honour of Sir Ian Kershaw | year = 2003 | publisher = Manchester University Press | location = Manchester | isbn = 978-0-7190-6732-7 }}
| |
− | * {{cite book | last = McNab | first = Chris | title = The Third Reich | publisher = Amber Books | location = London | year = 2009 | isbn = 978-1-906626-51-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Melvin | first = Mungo | author-link = Mungo Melvin | title = Manstein: Hitler's Greatest General | year = 2010 | publisher = Weidenfeld & Nicolson | location = London | isbn = 978-0-297-84561-4 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = Murray | first1 = Williamson | last2 = Millett | first2 = Allan R. | title = A War to be Won: Fighting the Second World War | year = 2001 | orig-year = 2000 | publisher = Belknap Press of Harvard University Press | location = Cambridge, MA | isbn = 978-0-674-00680-5 }}
| |
− | * {{cite book | last = Nakosteen | first = Mehdi Khan | title = The History and Philosophy of Education | year = 1965 | publisher = Ronald Press | location = New York | oclc = 175403 }}
| |
− | * {{citation | title = NS-Zwangsarbeit: "Verbotener Umgang" | year = 1942 | publisher = Stadtarchiv Göttingen Cordula Tollmien Projekt NS-Zwangsarbeiter | language = de | url = http://www.zwangsarbeit-in-goettingen.de/texte/verbotenerumgang.htm | ref = {{SfnRef|Nazi forced labour|1942}} | postscript = .}}
| |
− | * {{cite book | last = Nicholas | first = Lynn H. | author-link = Lynn H. Nicholas | title = Cruel World: The Children of Europe in the Nazi Web | year = 2006 | publisher = Vintage | location = New York | isbn = 978-0-679-77663-5 }}
| |
− | * {{cite book| last1 = Niewyk | first1 = Donald L. | last2 = Nicosia | first2 = Francis R. | title = The Columbia Guide to the Holocaust | year = 2000 | publisher = Columbia University Press | location = New York | isbn = 978-0-231-11200-0 | url = https://archive.org/details/columbiaguidetot00niew}}
| |
− | * {{citation | title = 'NS-Frauenwarte': Paper of the National Socialist Women's League | publisher = Heidelberg University Library | url = http://www.ub.uni-heidelberg.de/Englisch/helios/digi/nsfrauenwarte.html | access-date = 8 May 2013 | ref = {{sfnRef|Heidelberg University Library}} | postscript = .}}
| |
− | * {{cite book | author = Oberkommandos der Wehrmacht | title = Soldaten Atlas | url = https://archive.org/details/Tornisterschrift-des-Oberkommandos-der-Wehrmacht-Soldaten-Atlas/page/n7 | year = 1941 | language = de | ref = {{sfnRef|Soldaten-Atlas|1941}} }}
| |
− | * {{cite book | last= Overmans | first = Rüdiger | author-link = Rüdiger Overmans | title = Deutsche militärische Verluste im Zweiten Weltkrieg | year = 2000 | orig-year = 1999 | publisher = R. Oldenbourg | location = München | language = de | series = Beiträge zur Militärgeschichte | isbn = 978-3-486-56531-7 }}
| |
− | * {{cite book| last = Overy | first = Richard | author-link = Richard Overy | title = The Dictators: Hitler's Germany, Stalin's Russia | publisher = Penguin Group | location = UK | orig-year = 2004 | year = 2005 | isbn = 978-0-393-02030-4 | url = https://archive.org/details/dictators00rich}}
| |
− | * {{cite book | last = Overy | first = Richard | orig-year = 1995 | year = 2006 | title = Why The Allies Won | publisher = Random House | location = London | isbn = 978-1-84595-065-1 }}
| |
− | * {{cite book | last = Overy | first = Richard | title = The Bombers and the Bombed: Allied Air War Over Europe 1940–1945 | publisher = Viking | location = New York | year = 2014 | isbn = 978-0-698-15138-3}}
| |
− | * {{cite journal | last = Panayi | first = Panikos | title = Exploitation, Criminality, Resistance: The Everyday Life of Foreign Workers and Prisoners of War in the German Town of Osnabruck, 1939–49 | journal = Journal of Contemporary History | year = 2005 | volume = 40 | issue = 3 | pages = 483–502 | jstor = 30036339 | doi = 10.1177/0022009405054568| s2cid = 159846665 }}
| |
− | * {{cite book | last = Pauley | first = Bruce F. | title = Hitler, Stalin, and Mussolini: Totalitarianism in the Twentieth Century | year = 2003 | orig-year = 1997 | series = European History Series | publisher = Harlan Davidson | location = Wheeling, IL | isbn = 978-0-88295-993-1 }}
| |
− | * {{cite book | last = Pine | first = Lisa | year = 2011 | orig-year = 2010 | title = Education in Nazi Germany | publisher = Berg | location = Oxford; New York | isbn = 978-1-84520-265-1 }}
| |
− | * {{cite news | last = Posener | first = Alan | author-link = Alan Posener | title = German TV Is Sanitizing History | url = https://foreignpolicy.com/2018/04/09/dont-mention-the-war-germany-television-holocaust-anti-semitism-babylon-berlin-europe/ | work = [[Foreign Policy]] | date = 9 April 2018 | access-date = 16 February 2019 }}
| |
− | * {{cite book | last = Proctor | first = Robert N. | author-link = Robert N. Proctor | title = The Nazi War on Cancer | url = https://archive.org/details/naziwaroncancer00proc | url-access = registration | publisher = Princeton University Press | year = 1999 | location = Princeton, NJ | isbn = 978-0-691-07051-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Raeder | first = Erich | author-link = Erich Raeder | title = Grand Admiral: The Personal Memoir of the Commander in Chief of the German Navy From 1935 Until His Final Break With Hitler in 1943 | year = 2001 | orig-year = 1956 | publisher = Da Capo Press | location = New York | isbn = 978-0-306-80962-0 }}
| |
− | * {{cite book | last = Rees | first = Laurence | author-link = Laurence Rees | title = Auschwitz: A New History | year = 2005 | publisher = Public Affairs, member of Perseus Books Group | location = New York | isbn = 978-1-58648-303-6 | url = https://archive.org/details/auschwitznewhist00rees}}
| |
− | * {{cite book | last = Rhodes | first = Richard | author-link = Richard Rhodes | title = Masters of Death: The SS-Einsatzgruppen and the Invention of the Holocaust | publisher = Vintage Books | location = New York | year = 2002 | isbn = 978-0-375-70822-0 }}
| |
− | * {{cite book | last = Rummel | first = Rudolph | author-link = Rudolph Rummel | title = Death by Government | year = 1994 | publisher = Transaction | location = New Brunswick, NJ | isbn = 978-1-56000-145-4 | url-access = registration | url = https://archive.org/details/deathby_rum_1994_00_3431 }}
| |
− | * {{cite book| last = Rupp | first = Leila J. | author-link = Leila J. Rupp | year = 1978 | title = Mobilizing Women for War: German and American Propaganda, 1939–1945 | publisher = Princeton University Press | location = Princeton, N.J. | isbn = 978-0-691-04649-5 | oclc = 3379930 | url = https://archive.org/details/mobilizingwomenf00leil}}
| |
− | * {{cite book | last = Scobie | first = Alexander | title = Hitler's State Architecture: The Impact of Classical Antiquity | year = 1990 | publisher = Pennsylvania State University Press | location = University Park | isbn = 978-0-271-00691-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Sereny | first = Gitta | author-link = Gitta Sereny | year = 1996 | orig-year = 1995 | title = Albert Speer: His Battle With Truth | publisher = Random House | location = New York; Toronto | isbn = 978-0-679-76812-8 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Sereny | first = Gitta | date = November 1999 | title = Stolen Children | journal = Talk | url = https://www.jewishvirtuallibrary.org/jsource/Holocaust/children.html | access-date = 1 July 2012 }}
| |
− | * {{cite book | last = Shirer | first = William L. | author-link = William L. Shirer | title = The Rise and Fall of the Third Reich | publisher = Simon & Schuster | location = New York | year = 1960 | isbn = 978-0-671-62420-0 | title-link = The Rise and Fall of the Third Reich}}
| |
− | * {{cite book | last = Smith | first = J. W. | title = The World's Wasted Wealth 2: Save Our Wealth, Save Our Environment | year = 1994 | publisher = Institute for Economic Democracy | location = Cambria, CA | isbn = 978-0-9624423-2-2 }}
| |
− | * {{cite book | last = Snyder | first = Timothy | author-link = Timothy D. Snyder | title = Bloodlands: Europe between Hitler and Stalin | year= 2010 | publisher = Basic Books | location = New York | isbn = 978-0-465-00239-9 }}
| |
− | * {{cite web | title = Sonderbehandlung erfolgt durch Strang | year = 1942 | work = Documents for National Socialism | publisher = NS-Archiv | language = de | url = http://www.ns-archiv.de/imt/ps3001-ps3200/3040-ps.php | ref = {{SfnRef|Special treatment|1942}} }}
| |
− | * {{cite news | last = Sontheimer | first = Michael | title = Germany's Nazi Past: Why Germans Can Never Escape Hitler's Shadow | date = 10 March 2005 | newspaper = Spiegel Online | url = http://www.spiegel.de/international/germany-s-nazi-past-why-germans-can-never-escape-hitler-s-shadow-a-345720.html | access-date = 11 May 2013 }}
| |
− | * {{cite book | last = Speer | first = Albert | author-link = Albert Speer | orig-year = 1969 | year = 1971 | title = Inside the Third Reich | publisher = Avon | location = New York | isbn = 978-0-380-00071-5 | title-link = Inside the Third Reich}}
| |
− | * {{cite book | last = Spielvogel | first = Jackson J. | author-link = Jackson J. Spielvogel | title = Hitler and Nazi Germany: A History | year = 2016 | orig-year = 2005 | publisher = Taylor & Francis | location = Abingdon; New York | isbn = 978-0-205-84678-8 }}
| |
− | * {{cite book | last1 = Spotts | first1 = Frederic | title = Hitler and the Power of Aesthetics | date = 2002 | publisher = Overlook Press | location = New York | isbn = 978-1-58567-345-2 }}
| |
− | * {{cite journal | author = Staff | title = What the Führer means for Germans today | journal = The Economist | date = 16 December 2015 | language = en | url = https://www.economist.com/christmas-specials/2015/12/16/what-the-fuhrer-means-for-germans-today | access-date = 24 September 2018 | ref = {{sfnRef|''The Economist''|2015}} }}
| |
− | * {{cite book | title = Statistisches Jahrbuch für die Bundesrepublik Deutschland | year = 2006 | publisher = Statistisches Bundesamt | language = de | url = http://www.destatis.de/jetspeed/portal/cms/Sites/destatis/Internet/DE/Content/Publikationen/Querschnittsveroeffentlichungen/StatistischesJahrbuch/Downloads/Jahrbuch2006Inland,property=file.pdf| archive-url = https://web.archive.org/web/20070926002255/http://www.destatis.de/jetspeed/portal/cms/Sites/destatis/Internet/DE/Content/Publikationen/Querschnittsveroeffentlichungen/StatistischesJahrbuch/Downloads/Jahrbuch2006Inland,property=file.pdf | archive-date = 26 September 2007 | access-date = 17 March 2012 | page = 34 | ref = {{sfnRef|Statistisches Jahrbuch|2006}} | url-status = dead | df = dmy-all}}
| |
− | * {{cite book | last = Stein | first = George | title = The Waffen-SS: Hitler's Elite Guard at War 1939–1945 | publisher = Cerberus Publishing | year = 2002 | orig-year = 1966 | isbn = 978-1-84145-100-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Steiner | first = Zara | title = The Triumph of the Dark: European International History 1933–1939 | year = 2011 | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York | isbn = 978-0-19-921200-2 }}
| |
− | * {{cite book | last = Stephenson | first = Jill | title = Women in Nazi Germany | year = 2001 | publisher = Longman | location = London | isbn = 978-0-582-41836-3 }}
| |
− | * {{cite journal | last = Stolfi | first = Russel | title = Barbarossa Revisited: A Critical Reappraisal of the Opening Stages of the Russo-German Campaign (June–December 1941)
| |
− | | journal = [[Journal of Modern History]] | date = March 1982 | volume = 54 | issue = 1 | pages = 27–46 | doi = 10.1086/244076 | hdl = 10945/44218}}
| |
− | * {{citation | title = Strafgesetzbuch, StGB | date = 13 November 1998 | work = German Law Archive | url = https://germanlawarchive.iuscomp.org/?p=752#80a | ref = {{sfnRef|''Strafgesetzbuch'', section 86a}} | postscript = .}}
| |
− | * {{cite book | last = Tomasevich | first = Jozo | year = 1975 | title = War and Revolution in Yugoslavia, 1941–1945: The Chetniks | publisher = Stanford University Press | location = Stanford, CA | isbn = 978-0-8047-0857-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Tooze | first = Adam | author-link = Adam Tooze | title = The Wages of Destruction: The Making and Breaking of the Nazi Economy | year = 2006 | publisher = Viking | location = New York; Toronto | isbn = 978-0-670-03826-8 | title-link = The Wages of Destruction}}
| |
− | * {{cite book | last = Tümmler | first = Holger | title = Hitlers Deutschland: Die Mächtigen des Dritten Reiches | year = 2010 | publisher = Melchior Verlag | location = Wolfenbüttel | language = de | isbn = 978-3-941555-88-4 }}
| |
− | * {{cite book | last = Uekötter | first = Frank | title = The Green and the Brown: A History of Conservation in Nazi Germany | year = 2006 | publisher = Cambridge University Press | location = Cambridge; New York | isbn = 978-0-521-84819-0 }}
| |
− | * {{cite book | last = Uekötter | first = Frank | editor1-last = Brüggemeier | editor1-first = Franz-Josef | editor2-last = Cioc | editor2-first = Mark | editor3-last = Zeller | editor3-first = Thomas | title = How Green Were the Nazis?: Nature, Environment, and Nation in the Third Reich | chapter = Polycentrism in Full Swing: Air Pollution Control in Nazi Germany | year = 2005 | publisher = Ohio University Press | location = Athens | isbn = 978-0-82144-196-1 }}
| |
− | * {{cite book | last = Umbreit | first = Hans | editor1-last = Kroener | editor1-first = Bernhard | editor2-last = Müller | editor2-first = Rolf-Dieter | editor3-last = Umbreit | editor3-first = Hans | title = Germany and the Second World War, Vol. 5. Organization and Mobilization in the German Sphere of Power. Part 2: Wartime Administration, Economy, and Manpower Resources, 1942–1944/5 | chapter = Hitler's Europe: The German Sphere of Power | year = 2003 | publisher = Oxford University Press | location = Oxford; New York | isbn = 978-0-19-820873-0 }}
| |
− | * {{cite web | author=USHMM | title=Children during the Holocaust| website=United States Holocaust Memorial Museum—Holocaust Encyclopedia | url = http://www.ushmm.org/wlc/en/article.php?ModuleId=10005142 | access-date = 24 April 2013 | ref = {{sfnRef|USHMM, ''Children during the Holocaust''}} }}
| |
− | * {{cite web | author=USHMM | title=Dachau | website=United States Holocaust Memorial Museum—Holocaust Encyclopedia | url = http://www.ushmm.org/wlc/en/article.php?ModuleId=10005214 | access-date = 14 July 2013 | ref={{sfnRef|USHMM, ''Dachau''}} }}
| |
− | * {{cite web | author=USHMM | title=Genocide of European Roma (Gypsies), 1939–1945 | website=United States Holocaust Memorial Museum—Holocaust Encyclopedia | url = https://encyclopedia.ushmm.org/content/en/article/genocide-of-european-roma-gypsies-1939-1945 | access-date = 16 September 2018 | ref = {{sfnRef|USHMM, ''Genocide of European Roma''}} }}
| |
− | * {{cite web | author=USHMM | title=The German Churches and the Nazi State | website=United States Holocaust Memorial Museum—Holocaust Encyclopedia | url = http://www.ushmm.org/wlc/en/article.php?ModuleId=10005206 | access-date = 25 September 2016 | ref = {{sfnRef|USHMM, ''The German Churches and the Nazi State''}} }}
| |
− | * {{cite web | author=USHMM | title=Women in the Third Reich | website=United States Holocaust Memorial Museum—Holocaust Encyclopedia | url=https://encyclopedia.ushmm.org/content/en/article/women-in-the-third-reich | access-date=19 August 2017 | ref={{sfnRef|USHMM, ''Women in the Third Reich''}} }}
| |
− | * {{cite book | last = Walk | first = Joseph | title = Das Sonderrecht für die Juden im NS-Staat: Eine Sammlung der gesetzlichen Maßnahmen und Rechtlinien, Inhalt und Bedeutung | edition = 2nd | year = 1996 | publisher = Müller Verlag | location = Heidelberg | language = de | isbn=978-3-82521-889-8 }}
| |
− | * {{cite book | last = Weale | first = Adrian | author-link = Adrian Weale | title = Army of Evil: A History of the SS | year = 2012 | orig-year = 2010 | publisher = NAL Caliber (Penguin Group) | location = New York; Toronto | isbn = 978-0-451-23791-0 }}
| |
− | * {{cite book | last = Wegner | first = Bernd | author-link = Bernd Wegner | title = The Waffen-SS: Organization, Ideology and Function | publisher = Blackwell | location = Hoboken, NJ | year = 1990 | isbn = 978-0-631-14073-3 }}
| |
− | * {{cite book | last = Weinberg | first = Gerhard L. | author-link = Gerhard Weinberg | title = Hitler's Foreign Policy 1933–1939: The Road to World War II | year = 2010 | orig-year = 1970 | publisher = Enigma Books | location = New York | isbn = 978-1-929631-91-9 }}
| |
− | * {{cite book | last = Weinberg | first = Gerhard L. | title = A World at Arms: A Global History of World War II | year = 2005 | orig-year = 1994 | publisher = Cambridge University Press | location = Cambridge; Oxford | isbn = 978-0-521-85316-3 }}
| |
− | * {{cite book| last = Welch | first = David | title = Hitler: Profile of a Dictator | year = 2001 | publisher = Routledge | location = London | isbn = 978-0-415-25075-7 }}
| |
− | * {{cite web | last = Wiederschein | first = Harald | url = https://www.focus.de/wissen/mensch/geschichte/zweiter-weltkrieg/militaerisch-unbedeutend-brutal-verbrecherisch-mythos-waffen-ss-hitlers-ueberschaetzte-elitetruppen_id_4826676.html | title = Mythos Waffen-SS | work = [[Focus (German magazine)|Focus]] | date = 21 July 2015 | access-date = 3 October 2018 | language = de }}
| |
− | * {{cite book | last = Wrobel | first = Peter | work = The Devil's Playground: Poland in World War II | title = Warsaw Uprising 1944 | year = 1999 | publisher = The Canadian Foundation for Polish Studies of the Polish Institute of Arts & Sciences Price-Patterson Ltd | isbn=978-0-96927-841-2 }}
| |
− | {{refend}}
| |