Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Bệnh dại”
Dòng 75: Dòng 75:
 
Gần như mọi ca dại ở người đều dẫn đến tử vong cho đến khi [[Louis Pasteur]] và [[Émile Roux]] tìm ra vắc-xin vào năm 1885. Vắc-xin ban đầu thu từ thỏ bệnh, ở đó virus trong mô thần kinh bị làm yếu bằng cách để khô 5 đến 10 ngày.<ref>{{cite journal | vauthors = Geison GL | title = Pasteur's work on rabies: reexamining the ethical issues | journal = The Hastings Center Report | volume = 8 | issue = 2 | pages = 26–33 | date = April 1978 | pmid = 348641 | doi = 10.2307/3560403 | jstor = 3560403 }}</ref> Những vắc-xin có nguồn gốc từ mô thần kinh tương tự hiện vẫn được dùng ở một số nước do chi phí rẻ hơn nhiều vắc-xin nuôi cấy tế bào hiện đại.<ref name="pmid15069272">{{cite journal | vauthors = Srivastava AK, Sardana V, Prasad K, Behari M | title = Diagnostic dilemma in flaccid paralysis following anti-rabies vaccine | journal = Neurology India | volume = 52 | issue = 1 | pages = 132–3 | date = March 2004 | pmid = 15069272 | url = http://www.neurologyindia.com/article.asp?issn=0028-3886;year=2004;volume=52;issue=1;spage=132;epage=133;aulast=Srivastava | url-status = live | archive-url = https://web.archive.org/web/20090802195908/http://www.neurologyindia.com/article.asp?issn=0028-3886%3Byear%3D2004%3Bvolume%3D52%3Bissue%3D1%3Bspage%3D132%3Bepage%3D133%3Baulast%3DSrivastava | archive-date = 2 August 2009 }}</ref>
 
Gần như mọi ca dại ở người đều dẫn đến tử vong cho đến khi [[Louis Pasteur]] và [[Émile Roux]] tìm ra vắc-xin vào năm 1885. Vắc-xin ban đầu thu từ thỏ bệnh, ở đó virus trong mô thần kinh bị làm yếu bằng cách để khô 5 đến 10 ngày.<ref>{{cite journal | vauthors = Geison GL | title = Pasteur's work on rabies: reexamining the ethical issues | journal = The Hastings Center Report | volume = 8 | issue = 2 | pages = 26–33 | date = April 1978 | pmid = 348641 | doi = 10.2307/3560403 | jstor = 3560403 }}</ref> Những vắc-xin có nguồn gốc từ mô thần kinh tương tự hiện vẫn được dùng ở một số nước do chi phí rẻ hơn nhiều vắc-xin nuôi cấy tế bào hiện đại.<ref name="pmid15069272">{{cite journal | vauthors = Srivastava AK, Sardana V, Prasad K, Behari M | title = Diagnostic dilemma in flaccid paralysis following anti-rabies vaccine | journal = Neurology India | volume = 52 | issue = 1 | pages = 132–3 | date = March 2004 | pmid = 15069272 | url = http://www.neurologyindia.com/article.asp?issn=0028-3886;year=2004;volume=52;issue=1;spage=132;epage=133;aulast=Srivastava | url-status = live | archive-url = https://web.archive.org/web/20090802195908/http://www.neurologyindia.com/article.asp?issn=0028-3886%3Byear%3D2004%3Bvolume%3D52%3Bissue%3D1%3Bspage%3D132%3Bepage%3D133%3Baulast%3DSrivastava | archive-date = 2 August 2009 }}</ref>
  
Vắc-xin dại tế bào lưỡng bội người được khởi động năm 1967. Vắc-xin tế bào phôi gà và vắc-xin tế bào vero tinh khiết rẻ hơn hiện sẵn có.<ref name="Ly2009" /> Một vắc-xin tái tổ hợp gọi là V-RG được dùng ở Bỉ, Pháp, Đức, Mỹ để ngăn bệnh dại bùng phát trong động vật không thuần hóa.<ref name="Reece_2006">{{cite journal | vauthors = Reece JF, Chawla SK | title = Control of rabies in Jaipur, India, by the sterilisation and vaccination of neighbourhood dogs | journal = The Veterinary Record | volume = 159 | issue = 12 | pages = 379–83 | date = September 2006 | pmid = 16980523 | doi = 10.1136/vr.159.12.379 | s2cid = 5959305 | url = https://semanticscholar.org/paper/e34f27f501782639d29ed8a0d2e351f2fa3f1d7a }}</ref> Chủng ngừa tiền phơi nhiễm được áp dụng cả ở người và động vật trong những hoàn cảnh được cho là cần thiết.<ref>{{cite web |title=Compendium of Animal Rabies Prevention and Control |date=31 December 2007 |access-date=2010-01-03 |publisher=National Association of State Public Health Veterinarians |url=http://www.nasphv.org/Documents/RabiesCompendium.pdf |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20100712235752/http://www.nasphv.org/Documents/RabiesCompendium.pdf |archive-date=12 July 2010 }}</ref>[[File:Rabiesvaccination.png|thumb|A female child about to receive PEP after being bitten by an animal thought to be rabid.]]The Missouri Department of Health and Senior Services Communicable Disease Surveillance 2007 Annual Report states the following can help reduce the risk of contracting rabies:<ref>{{cite report|date=2007|title=2007 Annual Report|url=http://www.dhss.mo.gov/living/healthcondiseases/communicable/communicabledisease/annual07/Annual07.pdf|publisher=Bureau of Communicable Disease Control and Prevention}}</ref>
+
Vắc-xin dại tế bào lưỡng bội người được khởi động năm 1967. Vắc-xin tế bào phôi gà và vắc-xin tế bào vero tinh khiết rẻ hơn hiện sẵn có.<ref name="Ly2009" /> Một vắc-xin tái tổ hợp gọi là V-RG được dùng ở Bỉ, Pháp, Đức, Mỹ để ngăn bệnh dại bùng phát trong động vật không thuần hóa.<ref name="Reece_2006">{{cite journal | vauthors = Reece JF, Chawla SK | title = Control of rabies in Jaipur, India, by the sterilisation and vaccination of neighbourhood dogs | journal = The Veterinary Record | volume = 159 | issue = 12 | pages = 379–83 | date = September 2006 | pmid = 16980523 | doi = 10.1136/vr.159.12.379 | s2cid = 5959305 | url = https://semanticscholar.org/paper/e34f27f501782639d29ed8a0d2e351f2fa3f1d7a }}</ref> Chủng ngừa tiền phơi nhiễm được áp dụng cả ở người và động vật trong những hoàn cảnh được cho là cần thiết.<ref>{{cite web |title=Compendium of Animal Rabies Prevention and Control |date=31 December 2007 |access-date=2010-01-03 |publisher=National Association of State Public Health Veterinarians |url=http://www.nasphv.org/Documents/RabiesCompendium.pdf |url-status=dead |archive-url=https://web.archive.org/web/20100712235752/http://www.nasphv.org/Documents/RabiesCompendium.pdf |archive-date=12 July 2010 }}</ref>
 +
 
 +
[[File:Rabiesvaccination.png|thumb|Một bé gái bị động vật nghi dại cắn chuẩn bị được dự phòng sau phơi nhiễm]]
  
 
Mô tả
 
Mô tả

Phiên bản lúc 14:25, ngày 16 tháng 1 năm 2021

Bệnh dại
Manwithrabies4.png
Một bệnh nhân dại, 1958
Chuyên khoaBệnh truyền nhiễm
Triệu chứngSốt, sợ nước, lú lẫn, tăng tiết nước bọt, ảo giác, mất ngủ, liệt, hôn mê[1][2]
Nguyên nhânVirus dại, lyssavirus dơi Úc[3]
Phòng ngừaVắc-xin dại, kiểm soát động vật, globulin miễn dịch dại[1]
Điều trịChăm sóc hỗ trợ
Tiên lượngGần như luôn luôn tử vong sau khi triệu chứng khởi phát[1]
Số người chết17.400 (2015)[4]


Dạibệnh do virus gây viêm não ở người và động vật có vú khác.[1] Triệu chứng ban đầu có thể bao gồm sốt và ngứa ran nơi vết thương;[1] tiếp đến là một hoặc nhiều hơn những triệu chứng sau: hành động bạo lực, kích động không kiểm soát, sợ nước, không thể cử động các phần cơ thể, lú lẫn, và mất ý thức.[1] Một khi triệu chứng đã biểu hiện, kết cục gần như luôn là tử vong.[1] Thời gian từ khi mắc bệnh đến khi xuất hiện triệu chứng thường rơi vào khoảng một đến ba tháng song có thể dao động từ dưới một tuần đến hơn một năm tùy thuộc vào quãng đường virus phải di chuyển để đến hệ thần kinh trung ương.[5]

Các loại Lyssavirus bao gồm virus dạilyssavirus dơi Úc là thủ phạm gây bệnh.[3] Căn bệnh lây lan khi động vật bị nhiễm cắn hoặc cào động vật khác hoặc con người.[1] Nước bọt từ động vật bị nhiễm cũng có thể truyền bệnh nếu tiếp xúc với mắt, miệng, hay mũi.[1] Tổng quan thì chó là động vật liên quan phổ biến nhất.[1] Hơn 99% ca dại ở các quốc gia mà chó thường nhiễm bệnh là do chó cắn.[6] Ở châu Mỹ, dơi cắn là nguồn gây nhiễm dại phổ biến nhất ở người, trong khi số ca từ chó chưa đến 5%.[1][6] Các loài gặm nhấm rất hiếm khi bị dại.[6] Bệnh chỉ có thể chẩn đoán sau khi xuất hiện triệu chứng.[1]

Các chương trình tiêm chủng và kiểm soát động vật đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh dại từ chó ở một số vùng trên thế giới.[1] Tiêm chủng từ trước được khuyến cáo với nhóm nguy cơ cao gồm người làm việc với dơi hay người dành nhiều thời gian ở những nơi mà bệnh phổ biến.[1] Ở người bị phơi nhiễm, vắc-xin dại và đôi khi là globulin miễn dịch hiệu quả trong phòng bệnh nếu người bệnh được điều trị trước khi triệu chứng khởi phát.[1] Rửa vết cào và cắn bằng xà phòng và nước, povidon iod, hay chất tẩy trong 15 phút có thể làm giảm số lượng virus và phần nào đó ngăn được sự truyền nhiễm.[1][7] Tính đến năm 2016, chỉ 14 người qua khỏi bệnh dại sau khi biểu hiện triệu chứng.[8][9][10]

Trên thế giới năm 2015, bệnh dại đã giết chết khoảng 17.400 người.[4] Hơn 95% số ca tử vong xảy ra ở châu Á, châu Phi[1] và khoảng 40% là ở trẻ dưới 15 tuổi.[11] Căn bệnh có mặt tại hơn 150 quốc gia và mọi lục địa trừ châu Nam Cực.[1] Hơn ba tỷ người đang sống ở những vùng có bệnh dại.[1] Một số nước như Úc, Nhật Bản, và hầu khắp Tây Âu, không có bệnh dại trong chó.[12][13] Nhiều đảo Thái Bình Dương cũng không tồn tại bệnh này.[13] Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp dại thuộc nhóm các bệnh nhiệt đới bị lãng quên.[14]

Dấu hiệu và triệu chứng

Một bệnh nhân dại biểu hiện chứng sợ nước (Viện các bệnh Nhiệt đới và Truyền nhiễm Quốc gia, Hà Nội, Việt Nam, 28 tháng 6 năm 2007)

Thời kỳ ủ bệnh (từ khi bị nhiễm đến những triệu chứng đầu tiên) ở người thường là 1–3 tháng song đã ghi nhận trường hợp ngắn đến bốn ngày và dài đến hơn 6 năm tùy vào vị trí, mức độ nghiêm trọng của vết thương, và số lượng virus xâm nhập.[15] Các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của bệnh dại thường không đặc biệt như sốt và đau đầu.[15] Khi bệnh tiến triển gây viêm não và viêm màng não, dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm liệt nhẹ hoặc một phần, lo âu, mất ngủ, lú lẫn, hành xử bất thường, hoang tưởng, quấy rối, ảo giác, rồi tiến tới mê sảng và hôn mê.[5][15] Cái chết thường xảy ra sau đó 2 đến 10 ngày. Khi triệu chứng đã biểu hiện, khả năng sống sót là gần như không có, kể cả bệnh nhân có được chăm sóc tích cực.[15][16]

Chứng sợ nước (hydrophobia) là tên gọi khác ít phổ biến hơn của bệnh dại đề cập đến loạt triệu chứng giai đoạn sau mà ở đó bệnh nhân có biểu hiện khó nuốt, tỏ ra sợ hãi khi được cho nước để uống, và không thể làm hết cơn khát.[17] Tất cả động vật có vú bị nhiễm virus đều có thể biểu hiện chứng sợ nước.[18] Lượng nước bọt sản ra tăng lên nhiều và nỗ lực hoặc thậm chí ý định, gợi ý uống nước hay nuốt nước bọt có thể gây co thắt đau đớn dữ dội ở cổ họng và thanh quản. Có thể điều này là do thực tế virus sinh sôi và tích lũy trong tuyến nước bọt của động vật bị nhiễm vì mục đích lây truyền thông qua hành vi cắn. Khả năng truyền virus sẽ giảm đi đáng kể nếu cá thể bị nhiễm có thể nuốt nước bọt và nước.[19] Chứng sợ nước thường đi với thể dại cuồng, loại chiếm 80% số ca người mắc. 20% còn lại có thể trải qua thể dại câm với đặc điểm yếu cơ, mất cảm giác, và liệt; thể này không mấy khi gây ra chứng sợ nước.[18]

Tác nhân

Virus dại, ảnh 3D.
Ảnh TEM cho thấy nhiều hạt virus (nhỏ, hình que, đen xám) và tiểu thể Negri (các thể vùi tế bào bệnh lý lớn)

Tác nhân gây bệnh dại là một số loại Lyssavirus bao gồm virus dạilyssavirus dơi Úc.[3]

Virus dại là loài điển hình của chi Lyssavirus thuộc họ Rhabdoviridae, bộ Mononegavirales. Các hạt lyssavirus hoàn chỉnh (lyssavirion) có cấu trúc xoắn ốc cân đối, dài khoảng 180 nm, bề ngang khoảng 75 nm,[20] có vỏ ngoài bao bọc và một bộ gen RNA sợi đơn âm. Thông tin di truyền được gói gém dưới dạng tổ hợp ribonucleoprotein, ở đó RNA được bọc chặt bởi nucleoprotein virus. Bộ gen RNA mã hóa năm gen của virus mà trình tự của chúng rất được bảo tồn: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và RNA polymerase (L).[21]

Khi đã vào cơ thể, virus dại khởi động nhân bản. Các gai tam phân ở phần ngoài màng virus tương tác với một thụ thế tế bào đặc hiệu mà nhiều khả năng là acetylcholine. Màng tế bào lõm xuống trong một quá trình gọi là ẩm bào cho phép virus xâm nhập tế bào. Virus sau đó tập hợp thành những thể nội bào lớn, dung hợp màng virus với màng thể nội bào rồi giải phóng năm protein và RNA sợi đơn vào tế bào chất.[22]

Tiếp theo, protein L sao chép năm sợi mRNA và một sợi RNA dương từ sợi RNA âm gốc nhờ các nucleotide tự do trong tế bào chất. Năm sợi mRNA này được dịch mã thành các protein tương ứng (P, L, N, G, và M) tại những ribosome tự do.[22] Một số protein yêu cầu sửa đổi sau dịch mã. Ví dụ, protein G bị gập thêm khi di chuyển qua mạng lưới nội chất gồ ghề rồi bị glycosyl hóa khi tới bộ máy Golgi.

Khi đã có đủ protein virus, polymerase của virus sẽ bắt đầu tổng hợp các sợi RNA âm mới từ khuôn sợi RNA dương.[22] Các sợi RNA âm này sẽ tạo nên những tổ hợp với protein N, P, L, M rồi di chuyển tới màng trong tế bào, nơi protein G bị gắn vào. Tiếp đó protein G quấn quanh tổ hợp N-P-L-M đồng thời lấy đi một phần màng tế bào chủ tạo ra vỏ ngoài mới của hạt virus. Virus sau đó chui ra khỏi tế bào.

Từ lúc vào cơ thể, virus nhắm đến tế bào thần kinh, đi theo những con đường để đến hệ thần kinh trung ương. Virus thường nhiễm vào tế bào cơ gần điểm xâm nhập trước, ở đó chúng có thể nhân bản mà không bị hệ miễn dịch của vật chủ chú ý. Khi đã đủ số lượng, virus bắt đầu bám vào thụ thể acetylcholine tại ngã giao thần kinh cơ.[23] Virus tiếp theo nghịch chuyển qua sợi trục tế bào thần kinh khi protein P của nó tương tác với dynein, một protein có trong tế bào chất của tế bào thần kinh. Khi đã đến thân bào virus di chuyển nhanh đến hệ thần kinh trung ương, nhân bản trong nơron vận động và cuối cùng lên não.[5] Sau khi nhiễm vào não, virus phân tán đến hệ thần kinh ngoại biêntự chủ rồi tới tuyến nước bọt, nơi chúng sẵn sàng để nhiễm sang vật chủ kế tiếp.[24]:317

Lây truyền

Hai con chó mắc bệnh dại thể liệt

Mọi loài máu nóng, bao gồm con người, đều có thể bị nhiễm virus dại và phát triệu chứng. Chim bị con người truyền virus dại lần đầu vào năm 1884 nhưng những con chim bị nhiễm hầu hết, nếu không là toàn bộ, không có triệu chứng và bình phục.[25] Có những loài chim được biết xuất hiện kháng thể dại sau khi ăn động vật có vú bị dại, một dấu hiệu nhiễm virus.[26][27]

Virus còn thích nghi để sinh trưởng trong tế bào của động vật có xương sống máu lạnh.[28][29] Có nhiều loại động vật có thể nhiễm virus và truyền bệnh cho người. Dơi, khỉ, gấu mèo, cáo, chồn hôi, bò, sói xám, sói đồng cỏ, chó, mèo, cầy lỏn, mang đến rủi ro cao cho con người.[30][31][32]

Gấu, gia súc, macmot châu Mỹ, chồn, và những loại động vật ăn thịt khác cũng có thể làm lây nhiễm dại. Thỏ và những loại gặm nhấm nhỏ như sóc chuột, chuột nhảy, chuột lang, hamster, chuột nhắt, chuột đồng, sóc, gần như không bao giờ bị dại và không được biết là truyền dại cho người.[33] Vết cắn từ chuột hay sóc ít khi cần đề phòng vì những loại gặm nhấm này thường bị giết khi đụng độ động vật dại lớn.[34] Opossum Virginia có nhiệt độ cơ thể thấp hơn mức phù hợp cho virus dại nên đề kháng nhưng không miễn nhiễm căn bệnh.[35]

Virus thường có trong dây thần kinh và nước bọt của động vật dại biểu hiện triệu chứng.[36][37] Con đường truyền chủ yếu là qua vết cắn. Ở nhiều trường hợp, con vật dại cực kỳ hung dữ, có thể tấn công vô cớ và biểu hiện hành vi lạ thường khác.[38] Đây là ví dụ về việc virus điều chỉnh hành vi của vật chủ để tạo thuận lợi cho lây truyền sang vật chủ khác. Sau khi vào cơ thể, virus đi vào hệ thần kinh ngoại biên rồi theo dây thần kinh hướng tâm đến hệ thần kinh trung ương.[39] Thời gian này, virus không thể dễ dàng bị phát hiện trong vật chủ và vắc-xin vẫn có thể ban miễn dịch trung gian tế bào. Khi đã đến não, virus nhanh chóng gây viêm não, khởi động những triệu chứng. Khi triệu chứng đã xuất hiện, việc chữa trị gần như vô dụng và tỷ lệ tử vong là trên 99%. Bệnh dại còn có thể gây viêm tủy sống và viêm tủy ngang.[40][41]

Lây từ người sang người là cực hiếm, mới chỉ ghi nhận vài trường hợp qua phẫu thuật cấy ghép.[42][43] Mặc dù trên lý thuyết người bị dại có thể truyền bệnh cho người khác qua hành vi cắn hay gì khác nhưng thực tế chưa ghi nhận trường hợp nào như vậy vì bệnh nhân thường được đưa đi bệnh viện và có những biện pháp đề phòng cần thiết. Chạm vào người bị dại hay tiếp xúc với mô hoặc dịch không nhiễm (nước tiểu, phân, máu) không gây phơi nhiễm và không cần dự phòng sau phơi nhiễm. Tuy nhiên nếu virus có trong tinh dịch hoặc dịch tiết âm đạo, khả năng lây qua đường tình dục là có.[44]

Chẩn đoán

Cách thức tham khảo là xét nghiệm kháng thể huỳnh quang (FAT), một thủ tục hóa mô miễn dịch được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo.[45] FAT dựa vào khả năng của một phân tử dò (thường là FITC) kết hợp với kháng thể dại tạo ra liên hợp ràng buộc cho phép quan sát kháng nguyên dại nhờ kỹ thuật hiển vi huỳnh quang. Phân tích hiển vi mẫu là phương pháp trực tiếp duy nhất giúp nhận biết kháng nguyên đặc hiệu trong thời gian ngắn với chi phí giảm bất kể nguồn gốc địa lý và tình trạng vật chủ. Đây có thể được xem là bước đầu tiên trong thủ tục chẩn đoán đối với mọi phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, các mẫu tự phân có thể làm giảm độ nhạy và độ đặc hiệu của FAT.[46] Xét nghiệm RT-PCR tỏ ra hiệu quả cho chẩn đoán thông thường,[47] nhất là những mẫu phân hủy[48] và mẫu lưu trữ.[49] Chẩn đoán mẫu não lấy từ vật chủ đã chết có thể chắc chắn. Chẩn đoán còn có thể thực hiện với nước bọt, nước tiểu, và các mẫu dịch não tủy, song không nhạy hoặc đáng tin cậy bằng mẫu não.[46] Các thể vùi não gọi là tiểu thể Negri là dấu hiệu 100% bệnh dại nhưng chỉ thấy ở 80% số ca.[20] Con vật gây ra vết cắn nên được khám nghiệm nếu có thể.[50]

Một số kỹ thuật hiển vi quang học cũng có thể được dùng để chẩn đoán bệnh dại với chi phí bằng một phần mười kỹ thuật hiển vi huỳnh quang truyền thống, phù hợp cho các nước kém phát triển.[51] LN34 là xét nghiệm dễ dàng thực hiện trên não động vật chết và có thể giúp xác định xem có cần dự phòng sau phơi nhiễm không.[52] Xét nghiệm này do CDC phát triển vào năm 2018.[52]

Chẩn đoán phân biệt dại nghi ngờ ở người lúc đầu có thể bao gồm mọi nguyên nhân gây viêm não, cụ thể nhiễm virus như herpesvirus, enterovirus, và arbovirus như virus Tây sông Nile. Virus quan trọng nhất cần loại trừ là herpes đơn dạng loại một, varicella zoster, enterovirus bao gồm coxsackievirus, echovirus, poliovirus, và enterovirus 68 đến 71.[53]

Các nguyên nhân mới gây viêm não do virus cũng có thể, như đợt bùng phát 300 ca viêm não ở Malaysia năm 1999 có tỷ lệ tử vong 40% do virus Nipah, một paramyxovirus mới được công nhận.[54] Tương tự, virus đã biết có thể xuất hiện ở địa bàn mới, như đợt viêm não do virus Tây sông Nile ở miền đông Hoa Kỳ.[55] Yếu tố dịch tễ như mùa, vị trí địa lý, tuổi bệnh nhân, lịch sử du hành, khả năng phơi nhiễm, có thể trợ giúp chẩn đoán.

Phòng ngừa

Gần như mọi ca dại ở người đều dẫn đến tử vong cho đến khi Louis PasteurÉmile Roux tìm ra vắc-xin vào năm 1885. Vắc-xin ban đầu thu từ thỏ bệnh, ở đó virus trong mô thần kinh bị làm yếu bằng cách để khô 5 đến 10 ngày.[56] Những vắc-xin có nguồn gốc từ mô thần kinh tương tự hiện vẫn được dùng ở một số nước do chi phí rẻ hơn nhiều vắc-xin nuôi cấy tế bào hiện đại.[57]

Vắc-xin dại tế bào lưỡng bội người được khởi động năm 1967. Vắc-xin tế bào phôi gà và vắc-xin tế bào vero tinh khiết rẻ hơn hiện sẵn có.[50] Một vắc-xin tái tổ hợp gọi là V-RG được dùng ở Bỉ, Pháp, Đức, Mỹ để ngăn bệnh dại bùng phát trong động vật không thuần hóa.[58] Chủng ngừa tiền phơi nhiễm được áp dụng cả ở người và động vật trong những hoàn cảnh được cho là cần thiết.[59]

Một bé gái bị động vật nghi dại cắn chuẩn bị được dự phòng sau phơi nhiễm

Mô tả

Bệnh dại hiện nay lưu hành ở tất cả các quốc gia trên thế giới trừ một số đảo quốc. Theo WHO, mỗi năm có khoảng 59000 người mắc dại ở hơn 150 quốc gia trong đó 95% là xảy ra tại các quốc gia tại châu Á và châu Phi (WHO, 2018). Hiện nay, 99% các ca mắc dại là do truyền từ chó nhiễm bệnh (chủ yếu từ các vùng núi và nông thôn) (WHO, 2018).

Tại Việt Nam, bệnh dại lưu hành ở nhiều địa phương, chủ yếu là ở các tỉnh miền núi với nguồn truyền bệnh chính là chó. Bệnh thường tăng cao vào mùa nắng nóng từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.

Các chương trình kiểm soát bệnh dại với nhiều thành tựu đã được triển khai. Cộng đồng y tế đặt mục tiêu loại bỏ hoàn toàn các ca tử vong vì bệnh dại do trung gian là chó vào năm 2030 (tuyên bố đã loại bỏ bệnh khi không có ca nhiễm mới ở người và động vật trong 2 năm liên tiếp).

Điều trị

Hiện chưa có phương pháp pháp điều trị đặc hiệu bệnh dại, phương pháp điều trị kinh điển nhất là tiêm phòng ngay sau khi bị động vật cắn. Tiêm phòng cần được xem xét ở bất cứ đối tượng nào vị động vật cắn, dựa trên cả bệnh sử và kết quả xét nghiệm. Điều trị bệnh cần tiến hành theo các bước sau:

Xử lý vết thương

- Rửa kỹ tất cả các vết cắn/cào trong 15 phút với nước và xà phòng, sau đó sát khuẩn bằng cồn 45-70 độ hoặc cồn iốt để làm giảm lượng vi rút dại tại vết cắn. Có thể sử dụng các chất khử trùng khác như rượu, xà phòng, dầu tắm để rửa vết thương.

- Không làm dập nát thêm vết thương hoặc làm tổn thương rộng hơn, tránh khâu kín ngay vết thương. Nếu bắt buộc phải khâu thì nên trì hoãn khâu vết thương sau vài giờ đến 3 ngày và nên khâu ngắt quãng/bỏ mũi sau khi đã tiêm phong bế huyết thanh kháng dại vào tất cả các vết thương.

- Tùy trường hợp cụ thể có thể sử dụng kháng sinh và tiêm phòng uốn ván.

Điều trị dự phòng

- Chỉ định dùng vắc xin và huyết thanh kháng dại trong điều trị dự phòng bệnh dại tùy theo tình trạng động vật, hoàn cảnh bị cắn hoặc tiếp xúc với nguồn bệnh, vị trí bị cắn, số lượng, tình trạng vết cắn và tình hình bệnh dại trong vùng.

- Chỉ định điều trị dự phòng bệnh bệnh dại sau phơi nhiễm đối với những người chưa được tiêm phòng bệnh dại theo bảng tóm tắt dưới đây:

TÓM TẮT CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG BỆNH DẠI

Phân độ vết thương

Tình trạng vết thương

Tình trạng động vật

(Kể cả động vật đã được

tiêm phòng dại)

Điều trị dự phòng

Tại thời điểm cắn người Trong vòng 10 ngày

Độ I Sờ, cho động vật ăn, liếm trên da lành Không điều trị

Độ II Vết xước, vết cào, liếm trên da bị tổn thương, niêm mạc

Bình thường

Bình thường Tiêm vắc xin dại ngay, dừng tiêm sau ngày thứ 10

Ốm, có xuất hiện triệu chứng dại, mất tích Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Có triệu chứng dại, hoặc không theo dõi được con vật

Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Độ III Vết cắn/cào chảy máu ở vùng xa thần kinh trung ương

Bình thường

Bình thường Tiêm vắc xin dại ngay, dừng tiêm sau ngày thứ 10

Ốm, có xuất hiện triệu chứng dại, mất tích Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Có triệu chứng dại, hoặc không theo dõi được con vật Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin dại ngay

- Vết cắn/cào sâu, nhiều vết

- Vết cắn/cào gần thần kinh trung ương như đầu, mặt, cổ

- Vết cắn/cào ở vùng có nhiều dây thần kinh như đầu chi, bộ phận sinh dục - Bình thường

- Có triệu chứng dại

- Không theo dõi được con vật

Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin phòng dại ngay.

  • Lưu ý:

- Các vết thương do động vật hoang dã cắn cần xử lý và điều trị như đối với động vật bị bệnh dại. Nếu các con vật này được bắt ngay và làm xét nghiệm âm tính với bệnh dại thì có thể dừng điều trị dự phòng.

- Các vết thương do động vật gặm nhấm, gia súc cắn thì xem xét chỉ định tiêm vắc xin dại mà không cần tiêm huyết thanh kháng dại.

- Sử dụng vắc xin phòng dại và huyết thanh kháng dại: đường tiêm, lịch tiêm và liều lượng cần tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất đã được Bộ Y tế Việt Nam cấp phép.

Tiên lượng

Gây miễn dịch bằng tiêm phòng là phương pháp duy nhất điều trị triệt để bệnh dại. Người mắc bệnh dại sẽ tử vong trong vòng vài ngày từ khi bắt đầu xuất hiện triệu chứng khởi phát.

Dự phòng

- Phải đăng ký xin cấp giấy phép nuôi chó, không thả dông, và gây miễn dịch cho tất cả đàn chó, mèo nuôi. Bắt nhốt chó vô chủ và chó lạc.

- Phải duy trì giám sát tích cực bệnh dại ở súc vật.

- Nhốt chó hoặc mèo cắn cũng như tất cả các loài thú hoang dã (nếu có thể) cắn người để theo dõi tình trạng sức khỏe của chúng trong 10 ngày. Nếu động vật xuất hiện triệu chứng nghi ngờ bệnh dại phải lấy dịch não tủy xét nghiệm bệnh dại.

- Nhốt và giám sát ngay chó hoặc mèo bị súc vật dại cắn. Nếu súc vật bị cắn đã được gây miễn dịch rồi thì cũng phải nhốt và gây miễn dịch lại, ít nhất trong 45 ngày.

- Những người có nguy cơ cao (ví dụ nhân viên thú y, nhân viên theo dõi súc vật nghi dại, những người đi công tác hoặc đi du lịch dài ngày ở nơi có bệnh dại lưu hành địa phương) thì phải gây miễn dịch trước khi tiếp xúc với nguồn dại.

- Tiêm phòng bệnh dại sau khi bị súc vật cắn (phòng bệnh sau khi phơi nhiễm).

Tham khảo

  1. a b c d e f g h i j k l m n o p q r s "Rabies Fact Sheet N°99", World Health Organization, tháng 7 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 1 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2014
  2. "Rabies - Symptoms and causes", Mayo Clinic (trong English), truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2018
  3. a b c "Rabies, Australian bat lyssavirus and other lyssaviruses", The Department of Health, tháng 12 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2014
  4. a b Wang H, Naghavi M, Allen C, Barber RM, Bhutta ZA, Carter A, et al. (GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1459–1544, doi:10.1016/s0140-6736(16)31012-1, PMC 5388903, PMID 27733281
  5. a b c Cotran RS, Kumar V, Fausto N (2005), Robbins and Cotran Pathologic Basis of Disease (lxb. 7th), Elsevier/Saunders, tr. 1375, ISBN 978-0-7216-0187-8
  6. a b c Tintinalli, Judith E. (2010), Emergency Medicine: A Comprehensive Study Guide (Emergency Medicine (Tintinalli)), McGraw-Hill, tr. Chapter 152, ISBN 978-0-07-148480-0 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  7. Wunner, William H. (2010), Rabies: Scientific Basis of the Disease and Its Management, Academic Press, tr. 556, ISBN 9780080550091 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  8. Hemachudha T, Ugolini G, Wacharapluesadee S, Sungkarat W, Shuangshoti S, Laothamatas J (tháng 5 năm 2013), "Human rabies: neuropathogenesis, diagnosis, and management", The Lancet. Neurology, 12 (5): 498–513, doi:10.1016/s1474-4422(13)70038-3, PMID 23602163, S2CID 1798889
  9. UC Davis Children's Hospital patient becomes third person in U.S. to survive rabies, UC Davis Medical Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012
  10. Manoj S, Mukherjee A, Johri S, Kumar KV (2016), "Recovery from rabies, a universally fatal disease", Military Medical Research, 3 (1): 21, doi:10.1186/s40779-016-0089-y, PMC 4947331, PMID 27429788
  11. "Rabies: The Facts" (PDF), World Health Organization, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 24 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017
  12. WHO Expert Consultation on Rabies : second report. (PDF) (lxb. 2), Geneva: WHO, 2013, tr. 3, ISBN 9789241209823, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014
  13. a b "Rabies-Free Countries and Political Units", CDC, lưu trữ từ nguyên tác ngày 5 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019
  14. "Neglected Tropical Diseases", cdc.gov, ngày 6 tháng 6 năm 2011, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 12 năm 2014, truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014
  15. a b c d Giesen A, Gniel D, Malerczyk C (tháng 3 năm 2015), "30 Years of rabies vaccination with Rabipur: a summary of clinical data and global experience", Expert Review of Vaccines (Review), 14 (3): 351–67, doi:10.1586/14760584.2015.1011134, PMID 25683583
  16. Rupprecht CE, Willoughby R, Slate D (tháng 12 năm 2006), "Current and future trends in the prevention, treatment and control of rabies", Expert Review of Anti-Infective Therapy, 4 (6): 1021–38, doi:10.1586/14787210.4.6.1021, PMID 17181418, S2CID 36979186
  17. Cliff, A D; Haggett, Peter; Smallman-Raynor, Matthew (2004), World atlas of epidemic diseases, London: Arnold, tr. 51, ISBN 9780340761717 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  18. a b "Symptoms of rabies", NHS.uk, ngày 12 tháng 6 năm 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 9 năm 2014, truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014
  19. "Rabies", AnimalsWeCare.com, lưu trữ từ nguyên tác ngày 3 tháng 9 năm 2014
  20. a b Drew WL (2004), "Chapter 41: Rabies", trong Ryan KJ, Ray CG (bt.), Sherris Medical Microbiology (lxb. 4th), McGraw Hill, tr. 597–600, ISBN 978-0-8385-8529-0
  21. Finke S, Conzelmann KK (tháng 8 năm 2005), "Replication strategies of rabies virus", Virus Research, 111 (2): 120–31, doi:10.1016/j.virusres.2005.04.004, PMID 15885837
  22. a b c "What is Rabies?", cdc.gov, ngày 30 tháng 11 năm 2020, truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2021
  23. Gluska S, Zahavi EE, Chein M, Gradus T, Bauer A, Finke S, Perlson E (tháng 8 năm 2014), "Rabies Virus Hijacks and accelerates the p75NTR retrograde axonal transport machinery", PLOS Pathogens, 10 (8): e1004348, doi:10.1371/journal.ppat.1004348, PMC 4148448, PMID 25165859
  24. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Baer1991
  25. Shannon LM, Poulton JL, Emmons RW, Woodie JD, Fowler ME (tháng 4 năm 1988), "Serological survey for rabies antibodies in raptors from California", Journal of Wildlife Diseases, 24 (2): 264–7, doi:10.7589/0090-3558-24.2.264, PMID 3286906
  26. Gough PM, Jorgenson RD (tháng 7 năm 1976), "Rabies antibodies in sera of wild birds", Journal of Wildlife Diseases, 12 (3): 392–5, doi:10.7589/0090-3558-12.3.392, PMID 16498885
  27. Jorgenson RD, Gough PM, Graham DL (tháng 7 năm 1976), "Experimental rabies in a great horned owl", Journal of Wildlife Diseases, 12 (3): 444–7, doi:10.7589/0090-3558-12.3.444, PMID 16498892, S2CID 11374356
  28. Wong, Derek, Rabies, Wong's Virology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 3 tháng 12 năm 2008, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2009 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  29. Campbell, James B.; Charlton, K.M. (1988), Developments in Veterinary Virology: Rabies, Springer, tr. 48, ISBN 978-0-89838-390-4 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  30. Pawan JL (1959), "The transmission of paralytic rabies in Trinidad by the vampire bat (Desmodus rotundus murinus Wagner", Caribbean Medical Journal, 21: 110–36, PMID 13858519
  31. Pawan JL (1959), "Rabies in the vampire bat of Trinidad, with special reference to the clinical course and the latency of infection", Caribbean Medical Journal, 21: 137–56, PMID 14431118
  32. Taylor PJ (tháng 12 năm 1993), "A systematic and population genetic approach to the rabies problem in the yellow mongoose (Cynictis penicillata)", The Onderstepoort Journal of Veterinary Research, 60 (4): 379–87, PMID 7777324
  33. Rabies. Other Wild Animals: Terrestrial carnivores: raccoons, skunks and foxes., Centers for Disease Control and Prevention(CDC), lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 12 năm 2010, truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010
  34. Anderson J, Frey R (2006), "Rabies", trong Fundukian LJ (bt.), Gale Encyclopedia of Medicine (lxb. 3rd)
  35. McRuer DL, Jones KD (tháng 5 năm 2009), "Behavioral and nutritional aspects of the Virginian opossum (Didelphis virginiana)", The Veterinary Clinics of North America. Exotic Animal Practice, 12 (2): 217–36, viii, doi:10.1016/j.cvex.2009.01.007, PMID 19341950
  36. The Merck Manual (lxb. 11th), 1983, tr. 183
  37. The Merck manual of Medical Information (lxb. Second Home), 2003, tr. 484
  38. Turton, Jenny (2000), Rabies: a killer disease, National Department of Agriculture, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 9 năm 2006 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  39. Jackson, Alan C.; Wunner, William H. (2002), Rabies, Academic Press, tr. 290, ISBN 978-0-12-379077-4, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 1 năm 2014 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  40. Lynn DJ, Newton HB, Rae-Grant AD (2012), The 5-Minute Neurology Consult, Lippincott Williams & Wilkins, tr. 414–, ISBN 978-1-4511-0012-9
  41. Davis, Larry Ernest; King, Molly K.; Schultz, Jessica L. (ngày 15 tháng 6 năm 2005), Fundamentals of neurologic disease, Demos Medical Publishing, tr. 73, ISBN 978-1-888799-84-2, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 1 năm 2014 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  42. Srinivasan A, Burton EC, Kuehnert MJ, Rupprecht C, Sutker WL, Ksiazek TG, et al. (tháng 3 năm 2005), "Transmission of rabies virus from an organ donor to four transplant recipients", The New England Journal of Medicine, 352 (11): 1103–11, doi:10.1056/NEJMoa043018, PMID 15784663
  43. "Human Rabies Prevention --- United States, 2008 Recommendations of the Advisory Committee on Immunization Practices", Centers for Disease Control and Prevention, ngày 23 tháng 5 năm 2008, truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2020
  44. RabiesAlliance.org Lưu trữ 24 tháng 9 2016 tại Wayback Machine
  45. Dean DJ, Abelseth MK (1973), "Ch. 6: The fluorescent antibody test", trong Kaplan MM, Koprowski H (bt.), Laboratory techniques in rabies, Monograph series, 23 (lxb. 3rd), World Health Organization, tr. 73
  46. a b Fooks AR, Johnson N, Freuling CM, Wakeley PR, Banyard AC, McElhinney LM, et al. (tháng 9 năm 2009), "Emerging technologies for the detection of rabies virus: challenges and hopes in the 21st century", PLOS Neglected Tropical Diseases, 3 (9): e530, doi:10.1371/journal.pntd.0000530, PMC 2745658, PMID 19787037
  47. Tordo N, Bourhy H, Sacramento D (1994), "Ch. 10: PCR technology for lyssavirus diagnosis", trong Clewley JP (bt.), The Polymerase Chain Reaction (PCR) for Human Viral Diagnosis, CRC Press, tr. 125–145, ISBN 978-0-8493-4833-4
  48. David D, Yakobson B, Rotenberg D, Dveres N, Davidson I, Stram Y (tháng 6 năm 2002), "Rabies virus detection by RT-PCR in decomposed naturally infected brains", Veterinary Microbiology, 87 (2): 111–8, doi:10.1016/s0378-1135(02)00041-x, PMID 12034539
  49. Biswal M, Ratho R, Mishra B (tháng 9 năm 2007), "Usefulness of reverse transcriptase-polymerase chain reaction for detection of rabies RNA in archival samples", Japanese Journal of Infectious Diseases, 60 (5): 298–9, PMID 17881871
  50. a b Ly S, Buchy P, Heng NY, Ong S, Chhor N, Bourhy H, Vong S (tháng 9 năm 2009), Carabin H (bt.), "Rabies situation in Cambodia", PLOS Neglected Tropical Diseases, 3 (9): e511, doi:10.1371/journal.pntd.0000511, PMC 2731168, PMID 19907631, e511
  51. Dürr S, Naïssengar S, Mindekem R, Diguimbye C, Niezgoda M, Kuzmin I, et al. (tháng 3 năm 2008), Cleaveland S (bt.), "Rabies diagnosis for developing countries", PLOS Neglected Tropical Diseases, 2 (3): e206, doi:10.1371/journal.pntd.0000206, PMC 2268742, PMID 18365035, e206
  52. a b "New Rapid Rabies Test Could Revolutionize Testing and Treatment | CDC Online Newsroom | CDC", www.cdc.gov (trong English), ngày 16 tháng 5 năm 2018, truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2018
  53. "Rabies: Differential Diagnoses & Workup", eMedicine Infectious Diseases, ngày 3 tháng 10 năm 2008, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 28 tháng 11 năm 2010, truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2010
  54. Taylor DH, Straw BE, Zimmerman JL, D'Allaire S (2006), Diseases of swine, Oxford: Blackwell, tr. 463–5, ISBN 978-0-8138-1703-3, truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2010
  55. Minagar, Alireza; Alexander, J. Steven (2005), Inflammatory Disorders Of The Nervous System: Pathogenesis, Immunology, and Clinical Management, Humana Press, ISBN 978-1-58829-424-1 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  56. Geison GL (tháng 4 năm 1978), "Pasteur's work on rabies: reexamining the ethical issues", The Hastings Center Report, 8 (2): 26–33, doi:10.2307/3560403, JSTOR 3560403, PMID 348641
  57. Srivastava AK, Sardana V, Prasad K, Behari M (tháng 3 năm 2004), "Diagnostic dilemma in flaccid paralysis following anti-rabies vaccine", Neurology India, 52 (1): 132–3, PMID 15069272, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 2 tháng 8 năm 2009
  58. Reece JF, Chawla SK (tháng 9 năm 2006), "Control of rabies in Jaipur, India, by the sterilisation and vaccination of neighbourhood dogs", The Veterinary Record, 159 (12): 379–83, doi:10.1136/vr.159.12.379, PMID 16980523, S2CID 5959305
  59. Compendium of Animal Rabies Prevention and Control (PDF), National Association of State Public Health Veterinarians, ngày 31 tháng 12 năm 2007, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 12 tháng 7 năm 2010, truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2010

Tài liệu tham khảo

  • K. de Balogh (2013), "Ngăn ngừa và phòng chống bệnh dại cấp toàn cầu", Tài liệu hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm về phòng chống bệnh dại giữa các nước trong khu vực ASEAN, Hà Nội, ngày 13-14 tháng 5 năm 2013.
  • Bộ Y tế (2014), Quyết định số 1622/QĐ-BYT phê duyệt "Hướng dẫn giám sát, phòng chống bệnh dại trên người".
  • Bộ Y tế (2012), "Bệnh dại ở người", Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm phổ biến, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 424-433.
  • Nguyễn Trung Cấp (2013), "Chẩn đoán và điều trị bệnh dại", Tài liệu hội nghị Xây dựng mạng lưới phòng xét nghiệm giám sát bệnh dại tại Việt Nam, Hà Nội, ngày 15-16 tháng 7 năm 2013.
  • Chính phủ (2017), Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình Quốc gia khống chế và tiến tới loại trừ bệnh dại giai đoạn 2017-2021".
  • Nguyễn Trần Hiển và cộng sự (2012), “Đặc điểm dịch tễ học bệnh dại trên người tại Việt Nam, 2009-2011", Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXII, số 8(135), tr 17-28.
  • Hanlon, C. A., & Childs, J. E. (2013). Chapter 3 - Epidemiology. In A. C. Jackson (Ed.), Rabies (Third Edition) (pp. 61-121). Boston: Academic Press.
  • Singh, R., et al. (2017). Rabies - epidemiology, pathogenesis, public health concerns and advances in diagnosis and control: a comprehensive review. Vet Q, 37(1), 212-251. doi:10.1080/01652176.2017.1343516