Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Bệnh dại”
Dòng 46: Dòng 46:
 
Tiếp theo, protein L sao chép năm sợi mRNA và một sợi RNA dương từ sợi RNA âm gốc nhờ các nucleotide tự do trong tế bào chất. Năm sợi mRNA này được dịch mã thành các protein tương ứng (P, L, N, G, và M) tại những [[ribosome]] tự do.<ref name ="cdc" /> Một số protein yêu cầu sửa đổi sau dịch mã. Ví dụ, protein G bị gập thêm khi di chuyển qua [[mạng lưới nội chất]] gồ ghề và rồi bị glycosyl hóa khi tới [[bộ máy Golgi]].
 
Tiếp theo, protein L sao chép năm sợi mRNA và một sợi RNA dương từ sợi RNA âm gốc nhờ các nucleotide tự do trong tế bào chất. Năm sợi mRNA này được dịch mã thành các protein tương ứng (P, L, N, G, và M) tại những [[ribosome]] tự do.<ref name ="cdc" /> Một số protein yêu cầu sửa đổi sau dịch mã. Ví dụ, protein G bị gập thêm khi di chuyển qua [[mạng lưới nội chất]] gồ ghề và rồi bị glycosyl hóa khi tới [[bộ máy Golgi]].
  
 
+
Khi đã có đủ protein virus, polymerase của virus sẽ bắt đầu tổng hợp các sợi RNA âm mới từ khuôn sợi RNA dương.<ref name ="cdc" /> Các sợi RNA âm này sẽ tạo nên những tổ hợp với protein N, P, L, M rồi di chuyển tới màng trong tế bào, nơi protein G bị gắn vào. Tiếp đến protein G quấn quanh tổ hợp N-P-L-M đồng thời lấy đi một phần màng tế bào chủ tạo ra vỏ ngoài mới của hạt virus. Virus sau đó chui ra khỏi tế bào.
  
 
Mô tả
 
Mô tả

Phiên bản lúc 12:29, ngày 16 tháng 1 năm 2021

Bệnh dại
Manwithrabies4.png
Một bệnh nhân dại, 1958
Chuyên khoaBệnh truyền nhiễm
Triệu chứngSốt, sợ nước, lú lẫn, tăng tiết nước bọt, ảo giác, mất ngủ, liệt, hôn mê[1][2]
Nguyên nhânVirus dại, lyssavirus dơi Úc[3]
Phòng ngừaVắc-xin dại, kiểm soát động vật, globulin miễn dịch dại[1]
Điều trịChăm sóc hỗ trợ
Tiên lượngGần như luôn luôn tử vong sau khi triệu chứng khởi phát[1]
Số người chết17.400 (2015)[4]


Dạibệnh do virus gây viêm não ở người và động vật có vú khác.[1] Triệu chứng ban đầu có thể bao gồm sốt và ngứa ran nơi vết thương;[1] tiếp đến là một hoặc nhiều hơn những triệu chứng sau: hành động bạo lực, kích động không kiểm soát, sợ nước, không thể cử động các phần cơ thể, lú lẫn, và mất ý thức.[1] Một khi triệu chứng đã biểu hiện, kết cục gần như luôn là tử vong.[1] Thời gian từ khi mắc bệnh đến khi xuất hiện triệu chứng thường rơi vào khoảng một đến ba tháng song có thể dao động từ dưới một tuần đến hơn một năm tùy thuộc vào quãng đường virus phải di chuyển để đến hệ thần kinh trung ương.[5]

Các loại Lyssavirus bao gồm virus dạilyssavirus dơi Úc là thủ phạm gây bệnh.[3] Căn bệnh lây lan khi động vật bị nhiễm cắn hoặc cào động vật khác hoặc con người.[1] Nước bọt từ động vật bị nhiễm cũng có thể truyền bệnh nếu tiếp xúc với mắt, miệng, hay mũi.[1] Tổng quan thì chó là động vật liên quan phổ biến nhất.[1] Hơn 99% ca dại ở các quốc gia mà chó thường nhiễm bệnh là do chó cắn.[6] Ở châu Mỹ, dơi cắn là nguồn gây nhiễm dại phổ biến nhất ở người, trong khi số ca từ chó chưa đến 5%.[1][6] Các loài gặm nhấm rất hiếm khi bị dại.[6] Bệnh chỉ có thể chẩn đoán sau khi xuất hiện triệu chứng.[1]

Các chương trình tiêm chủng và kiểm soát động vật đã làm giảm nguy cơ mắc bệnh dại từ chó ở một số vùng trên thế giới.[1] Tiêm chủng từ trước được khuyến cáo với nhóm nguy cơ cao gồm người làm việc với dơi hay người dành nhiều thời gian ở những nơi mà bệnh phổ biến.[1] Ở người bị phơi nhiễm, vắc-xin dại và đôi khi là globulin miễn dịch hiệu quả trong phòng bệnh nếu người bệnh được điều trị trước khi triệu chứng khởi phát.[1] Rửa vết cào và cắn bằng xà phòng và nước, povidon iod, hay chất tẩy trong 15 phút có thể làm giảm số lượng virus và phần nào đó ngăn được sự truyền nhiễm.[1][7] Tính đến năm 2016, chỉ 14 người qua khỏi bệnh dại sau khi biểu hiện triệu chứng.[8][9][10]

Trên thế giới năm 2015, bệnh dại đã giết chết khoảng 17.400 người.[4] Hơn 95% số ca tử vong xảy ra ở châu Á, châu Phi[1] và khoảng 40% là ở trẻ dưới 15 tuổi.[11] Căn bệnh có mặt tại hơn 150 quốc gia và mọi lục địa trừ châu Nam Cực.[1] Hơn ba tỷ người đang sống ở những vùng có bệnh dại.[1] Một số nước như Úc, Nhật Bản, và hầu khắp Tây Âu, không có bệnh dại trong chó.[12][13] Nhiều đảo Thái Bình Dương cũng không tồn tại bệnh này.[13] Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp dại thuộc nhóm các bệnh nhiệt đới bị lãng quên.[14]

Dấu hiệu và triệu chứng

Một bệnh nhân dại biểu hiện chứng sợ nước (Viện các bệnh Nhiệt đới và Truyền nhiễm Quốc gia, Hà Nội, Việt Nam, 28 tháng 6 năm 2007)

Thời kỳ ủ bệnh (từ khi bị nhiễm đến những triệu chứng đầu tiên) ở người thường là 1–3 tháng song đã ghi nhận trường hợp ngắn đến bốn ngày và dài đến hơn 6 năm tùy vào vị trí, mức độ nghiêm trọng của vết thương, và số lượng virus xâm nhập.[15] Các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của bệnh dại thường không đặc biệt như sốt và đau đầu.[15] Khi bệnh tiến triển gây viêm não và viêm màng não, dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm liệt nhẹ hoặc một phần, lo âu, mất ngủ, lú lẫn, hành xử bất thường, hoang tưởng, quấy rối, ảo giác, rồi tiến tới mê sảng và hôn mê.[5][15] Cái chết thường xảy ra sau đó 2 đến 10 ngày. Khi triệu chứng đã biểu hiện, khả năng sống sót là gần như không có, kể cả bệnh nhân có được chăm sóc tích cực.[15][16]

Chứng sợ nước (hydrophobia) là tên gọi khác ít phổ biến hơn của bệnh dại đề cập đến loạt triệu chứng giai đoạn sau mà ở đó bệnh nhân có biểu hiện khó nuốt, tỏ ra sợ hãi khi được cho nước để uống, và không thể làm hết cơn khát.[17] Tất cả động vật có vú bị nhiễm virus đều có thể biểu hiện chứng sợ nước.[18] Lượng nước bọt sản ra tăng lên nhiều và nỗ lực hoặc thậm chí ý định, gợi ý uống nước hay nuốt nước bọt có thể gây co thắt đau đớn dữ dội ở cổ họng và thanh quản. Có thể điều này là do thực tế virus sinh sôi và tích lũy trong tuyến nước bọt của động vật bị nhiễm vì mục đích lây truyền thông qua hành vi cắn. Khả năng truyền virus sẽ giảm đi đáng kể nếu cá thể bị nhiễm có thể nuốt nước bọt và nước.[19] Chứng sợ nước thường đi với thể dại cuồng, loại chiếm 80% số ca người mắc. 20% còn lại có thể trải qua thể dại câm với đặc điểm yếu cơ, mất cảm giác, và liệt; thể này không mấy khi gây ra chứng sợ nước.[18]

Tác nhân

Virus dại, ảnh 3D.

Tác nhân gây bệnh dại là một số loại Lyssavirus bao gồm virus dạilyssavirus dơi Úc.[3]

Virus dại là loài điển hình của chi Lyssavirus thuộc họ Rhabdoviridae, bộ Mononegavirales. Các hạt lyssavirus hoàn chỉnh (lyssavirion) có cấu trúc xoắn ốc cân đối, dài khoảng 180 nm, bề ngang khoảng 75 nm,[20] có vỏ ngoài bao bọc và một bộ gen RNA sợi đơn âm. Thông tin di truyền được gói gém dưới dạng tổ hợp ribonucleoprotein, ở đó RNA được bọc chặt bởi nucleoprotein virus. Bộ gen RNA mã hóa năm gen của virus mà trình tự của chúng rất được bảo tồn: nucleoprotein (N), phosphoprotein (P), matrix protein (M), glycoprotein (G), và RNA polymerase (L).[21]

Khi đã vào cơ thể, virus dại khởi động nhân bản. Các gai tam phân ở phần ngoài màng virus tương tác với một thụ thế tế bào đặc hiệu mà nhiều khả năng là acetylcholine. Màng tế bào lõm xuống trong một quá trình gọi là ẩm bào cho phép virus xâm nhập tế bào. Virus sau đó tập hợp thành những thể nội bào lớn, dung hợp màng virus với màng thể nội bào rồi giải phóng năm protein và RNA sợi đơn vào tế bào chất.[22]

Tiếp theo, protein L sao chép năm sợi mRNA và một sợi RNA dương từ sợi RNA âm gốc nhờ các nucleotide tự do trong tế bào chất. Năm sợi mRNA này được dịch mã thành các protein tương ứng (P, L, N, G, và M) tại những ribosome tự do.[22] Một số protein yêu cầu sửa đổi sau dịch mã. Ví dụ, protein G bị gập thêm khi di chuyển qua mạng lưới nội chất gồ ghề và rồi bị glycosyl hóa khi tới bộ máy Golgi.

Khi đã có đủ protein virus, polymerase của virus sẽ bắt đầu tổng hợp các sợi RNA âm mới từ khuôn sợi RNA dương.[22] Các sợi RNA âm này sẽ tạo nên những tổ hợp với protein N, P, L, M rồi di chuyển tới màng trong tế bào, nơi protein G bị gắn vào. Tiếp đến protein G quấn quanh tổ hợp N-P-L-M đồng thời lấy đi một phần màng tế bào chủ tạo ra vỏ ngoài mới của hạt virus. Virus sau đó chui ra khỏi tế bào.

Mô tả

Bệnh dại hiện nay lưu hành ở tất cả các quốc gia trên thế giới trừ một số đảo quốc. Theo WHO, mỗi năm có khoảng 59000 người mắc dại ở hơn 150 quốc gia trong đó 95% là xảy ra tại các quốc gia tại châu Á và châu Phi (WHO, 2018). Hiện nay, 99% các ca mắc dại là do truyền từ chó nhiễm bệnh (chủ yếu từ các vùng núi và nông thôn) (WHO, 2018).

Tại Việt Nam, bệnh dại lưu hành ở nhiều địa phương, chủ yếu là ở các tỉnh miền núi với nguồn truyền bệnh chính là chó. Bệnh thường tăng cao vào mùa nắng nóng từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.

Các chương trình kiểm soát bệnh dại với nhiều thành tựu đã được triển khai. Cộng đồng y tế đặt mục tiêu loại bỏ hoàn toàn các ca tử vong vì bệnh dại do trung gian là chó vào năm 2030 (tuyên bố đã loại bỏ bệnh khi không có ca nhiễm mới ở người và động vật trong 2 năm liên tiếp).

Nguyên nhân và triệu chứng

Nguyên nhân gây bệnh là virus dại - hình que (hình thoi giống viên đạn) thuộc họ Rhabdoviridae. Bệnh thường lây truyền qua vết thương, vết cắn của động vật, cấy ghép các tổ chức mô nhiễm bệnh hoặc có thể do hít phải mầm bệnh trong không khí (như trong hang dơi).

Từ vết thương, vết cắn…virus dại sẽ tự sao chép, xâm nhập theo đường dây thần kinh đến tủy sống, não bộ và vào tuyến nước bọt. Virus dại có thể ở dạng không hoạt động từ vài tuần đến vài tháng trước khi có biểu hiện lâm sàng. Ban đầu vết cắn có thể bỏng rát và đau. Các triệu chứng sớm như đau họng, sốt nhẹ, đau đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, hạn chế cử động, cảm giác khó thở, khó nuốt. Một số người có biểu hiện tăng tiết nước bọt, chảy nước dãi, đồng tử giãn, tăng tiết mồ hôi, nước mắt và tụt huyết áp.

Khi bệnh tiến triển, bệnh nhân trở nên bối rối, kích động, thao cuồng hoặc rơi vào trạng thái lú lẫn, rối loạn ý thức. Người bệnh nhạy cảm với mọi kích thích về thính giác, xúc giác và ánh sáng. Họ thường cảm thấy rất khát nhưng không thể uống vì cảm giác nuốt đau, thậm chí trở nên sợ nước vì cảm giác co thắt khi nuốt gây đau đớn. Những triệu chứng khác của bệnh ở giai đoạn này: tăng tiết nước bọt, mất nước và giảm trương lực cơ. Thường 3-20 ngày sau khi triệu chứng bắt đầu xuất hiện người bệnh sẽ tử vong.

Chẩn đoán

Người bệnh có các triệu chứng khởi phát ban đầu cần được làm các xét nghiệm máu và dịch não tủy để chẩn đoán. Xét nghiệm dịch não tủy không có ý nghĩa trong chẩn đoán nhưng có tác dụng loại trừ các nguyên nhân gây rối loạn ý thức khác ở bệnh nhân.

Hai xét nghiệm được sử dụng để chẩn đoán bệnh dại phổ biến nhất là xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang và phân lập virus dại từ nước bọt hoặc bệnh phẩm lấy từ họng của bệnh nhân.

Bệnh phẩm sử dụng cho xét nghiệm miễn dịch kháng thể huỳnh quang có thể được lấy từ mảnh sinh thiết da gáy hoặc lấy mẫu bệnh phẩm ở giác mạc bằng cách sử dụng miếng quét hoặc gạc ấn nhẹ vào vùng giác mạc của người bệnh. Nếu có kháng thể kháng virus dại trong mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân, chúng sẽ gắn với chất nhuộm huỳnh quang và được nhìn thấy.

Điều trị

Hiện chưa có phương pháp pháp điều trị đặc hiệu bệnh dại, phương pháp điều trị kinh điển nhất là tiêm phòng ngay sau khi bị động vật cắn. Tiêm phòng cần được xem xét ở bất cứ đối tượng nào vị động vật cắn, dựa trên cả bệnh sử và kết quả xét nghiệm. Điều trị bệnh cần tiến hành theo các bước sau:

Xử lý vết thương

- Rửa kỹ tất cả các vết cắn/cào trong 15 phút với nước và xà phòng, sau đó sát khuẩn bằng cồn 45-70 độ hoặc cồn iốt để làm giảm lượng vi rút dại tại vết cắn. Có thể sử dụng các chất khử trùng khác như rượu, xà phòng, dầu tắm để rửa vết thương.

- Không làm dập nát thêm vết thương hoặc làm tổn thương rộng hơn, tránh khâu kín ngay vết thương. Nếu bắt buộc phải khâu thì nên trì hoãn khâu vết thương sau vài giờ đến 3 ngày và nên khâu ngắt quãng/bỏ mũi sau khi đã tiêm phong bế huyết thanh kháng dại vào tất cả các vết thương.

- Tùy trường hợp cụ thể có thể sử dụng kháng sinh và tiêm phòng uốn ván.

Điều trị dự phòng

- Chỉ định dùng vắc xin và huyết thanh kháng dại trong điều trị dự phòng bệnh dại tùy theo tình trạng động vật, hoàn cảnh bị cắn hoặc tiếp xúc với nguồn bệnh, vị trí bị cắn, số lượng, tình trạng vết cắn và tình hình bệnh dại trong vùng.

- Chỉ định điều trị dự phòng bệnh bệnh dại sau phơi nhiễm đối với những người chưa được tiêm phòng bệnh dại theo bảng tóm tắt dưới đây:

TÓM TẮT CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ DỰ PHÒNG BỆNH DẠI

Phân độ vết thương

Tình trạng vết thương

Tình trạng động vật

(Kể cả động vật đã được

tiêm phòng dại)

Điều trị dự phòng

Tại thời điểm cắn người Trong vòng 10 ngày

Độ I Sờ, cho động vật ăn, liếm trên da lành Không điều trị

Độ II Vết xước, vết cào, liếm trên da bị tổn thương, niêm mạc

Bình thường

Bình thường Tiêm vắc xin dại ngay, dừng tiêm sau ngày thứ 10

Ốm, có xuất hiện triệu chứng dại, mất tích Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Có triệu chứng dại, hoặc không theo dõi được con vật

Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Độ III Vết cắn/cào chảy máu ở vùng xa thần kinh trung ương

Bình thường

Bình thường Tiêm vắc xin dại ngay, dừng tiêm sau ngày thứ 10

Ốm, có xuất hiện triệu chứng dại, mất tích Tiêm vắc xin dại ngay và đủ liều

Có triệu chứng dại, hoặc không theo dõi được con vật Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin dại ngay

- Vết cắn/cào sâu, nhiều vết

- Vết cắn/cào gần thần kinh trung ương như đầu, mặt, cổ

- Vết cắn/cào ở vùng có nhiều dây thần kinh như đầu chi, bộ phận sinh dục - Bình thường

- Có triệu chứng dại

- Không theo dõi được con vật

Tiêm huyết thanh kháng dại và vắc xin phòng dại ngay.

  • Lưu ý:

- Các vết thương do động vật hoang dã cắn cần xử lý và điều trị như đối với động vật bị bệnh dại. Nếu các con vật này được bắt ngay và làm xét nghiệm âm tính với bệnh dại thì có thể dừng điều trị dự phòng.

- Các vết thương do động vật gặm nhấm, gia súc cắn thì xem xét chỉ định tiêm vắc xin dại mà không cần tiêm huyết thanh kháng dại.

- Sử dụng vắc xin phòng dại và huyết thanh kháng dại: đường tiêm, lịch tiêm và liều lượng cần tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất đã được Bộ Y tế Việt Nam cấp phép.

Tiên lượng

Gây miễn dịch bằng tiêm phòng là phương pháp duy nhất điều trị triệt để bệnh dại. Người mắc bệnh dại sẽ tử vong trong vòng vài ngày từ khi bắt đầu xuất hiện triệu chứng khởi phát.

Dự phòng

- Phải đăng ký xin cấp giấy phép nuôi chó, không thả dông, và gây miễn dịch cho tất cả đàn chó, mèo nuôi. Bắt nhốt chó vô chủ và chó lạc.

- Phải duy trì giám sát tích cực bệnh dại ở súc vật.

- Nhốt chó hoặc mèo cắn cũng như tất cả các loài thú hoang dã (nếu có thể) cắn người để theo dõi tình trạng sức khỏe của chúng trong 10 ngày. Nếu động vật xuất hiện triệu chứng nghi ngờ bệnh dại phải lấy dịch não tủy xét nghiệm bệnh dại.

- Nhốt và giám sát ngay chó hoặc mèo bị súc vật dại cắn. Nếu súc vật bị cắn đã được gây miễn dịch rồi thì cũng phải nhốt và gây miễn dịch lại, ít nhất trong 45 ngày.

- Những người có nguy cơ cao (ví dụ nhân viên thú y, nhân viên theo dõi súc vật nghi dại, những người đi công tác hoặc đi du lịch dài ngày ở nơi có bệnh dại lưu hành địa phương) thì phải gây miễn dịch trước khi tiếp xúc với nguồn dại.

- Tiêm phòng bệnh dại sau khi bị súc vật cắn (phòng bệnh sau khi phơi nhiễm).

Tham khảo

  1. a b c d e f g h i j k l m n o p q r s "Rabies Fact Sheet N°99", World Health Organization, tháng 7 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 1 tháng 4 năm 2014, truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2014
  2. "Rabies - Symptoms and causes", Mayo Clinic (trong English), truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2018
  3. a b c "Rabies, Australian bat lyssavirus and other lyssaviruses", The Department of Health, tháng 12 năm 2013, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2014
  4. a b Wang H, Naghavi M, Allen C, Barber RM, Bhutta ZA, Carter A, et al. (GBD 2015 Mortality and Causes of Death Collaborators) (tháng 10 năm 2016), "Global, regional, and national life expectancy, all-cause mortality, and cause-specific mortality for 249 causes of death, 1980-2015: a systematic analysis for the Global Burden of Disease Study 2015", Lancet, 388 (10053): 1459–1544, doi:10.1016/s0140-6736(16)31012-1, PMC 5388903, PMID 27733281
  5. a b Cotran RS, Kumar V, Fausto N (2005), Robbins and Cotran Pathologic Basis of Disease (lxb. 7th), Elsevier/Saunders, tr. 1375, ISBN 978-0-7216-0187-8
  6. a b c Tintinalli, Judith E. (2010), Emergency Medicine: A Comprehensive Study Guide (Emergency Medicine (Tintinalli)), McGraw-Hill, tr. Chapter 152, ISBN 978-0-07-148480-0 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  7. Wunner, William H. (2010), Rabies: Scientific Basis of the Disease and Its Management, Academic Press, tr. 556, ISBN 9780080550091 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  8. Hemachudha T, Ugolini G, Wacharapluesadee S, Sungkarat W, Shuangshoti S, Laothamatas J (tháng 5 năm 2013), "Human rabies: neuropathogenesis, diagnosis, and management", The Lancet. Neurology, 12 (5): 498–513, doi:10.1016/s1474-4422(13)70038-3, PMID 23602163, S2CID 1798889
  9. UC Davis Children's Hospital patient becomes third person in U.S. to survive rabies, UC Davis Medical Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 5 năm 2012, truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012
  10. Manoj S, Mukherjee A, Johri S, Kumar KV (2016), "Recovery from rabies, a universally fatal disease", Military Medical Research, 3 (1): 21, doi:10.1186/s40779-016-0089-y, PMC 4947331, PMID 27429788
  11. "Rabies: The Facts" (PDF), World Health Organization, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 24 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2017
  12. WHO Expert Consultation on Rabies : second report. (PDF) (lxb. 2), Geneva: WHO, 2013, tr. 3, ISBN 9789241209823, lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014
  13. a b "Rabies-Free Countries and Political Units", CDC, lưu trữ từ nguyên tác ngày 5 tháng 3 năm 2014, truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019
  14. "Neglected Tropical Diseases", cdc.gov, ngày 6 tháng 6 năm 2011, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 12 năm 2014, truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014
  15. a b c d Giesen A, Gniel D, Malerczyk C (tháng 3 năm 2015), "30 Years of rabies vaccination with Rabipur: a summary of clinical data and global experience", Expert Review of Vaccines (Review), 14 (3): 351–67, doi:10.1586/14760584.2015.1011134, PMID 25683583
  16. Rupprecht CE, Willoughby R, Slate D (tháng 12 năm 2006), "Current and future trends in the prevention, treatment and control of rabies", Expert Review of Anti-Infective Therapy, 4 (6): 1021–38, doi:10.1586/14787210.4.6.1021, PMID 17181418, S2CID 36979186
  17. Cliff, A D; Haggett, Peter; Smallman-Raynor, Matthew (2004), World atlas of epidemic diseases, London: Arnold, tr. 51, ISBN 9780340761717 Bỏ qua tham số chưa biết |name-list-style= (trợ giúp)
  18. a b "Symptoms of rabies", NHS.uk, ngày 12 tháng 6 năm 2012, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 14 tháng 9 năm 2014, truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014
  19. "Rabies", AnimalsWeCare.com, lưu trữ từ nguyên tác ngày 3 tháng 9 năm 2014
  20. Drew WL (2004), "Chapter 41: Rabies", trong Ryan KJ, Ray CG (bt.), Sherris Medical Microbiology (lxb. 4th), McGraw Hill, tr. 597–600, ISBN 978-0-8385-8529-0
  21. Finke S, Conzelmann KK (tháng 8 năm 2005), "Replication strategies of rabies virus", Virus Research, 111 (2): 120–31, doi:10.1016/j.virusres.2005.04.004, PMID 15885837
  22. a b c "What is Rabies?", cdc.gov, ngày 30 tháng 11 năm 2020, truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2021

Tài liệu tham khảo

  • K. de Balogh (2013), "Ngăn ngừa và phòng chống bệnh dại cấp toàn cầu", Tài liệu hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm về phòng chống bệnh dại giữa các nước trong khu vực ASEAN, Hà Nội, ngày 13-14 tháng 5 năm 2013.
  • Bộ Y tế (2014), Quyết định số 1622/QĐ-BYT phê duyệt "Hướng dẫn giám sát, phòng chống bệnh dại trên người".
  • Bộ Y tế (2012), "Bệnh dại ở người", Dịch tễ học các bệnh truyền nhiễm phổ biến, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr 424-433.
  • Nguyễn Trung Cấp (2013), "Chẩn đoán và điều trị bệnh dại", Tài liệu hội nghị Xây dựng mạng lưới phòng xét nghiệm giám sát bệnh dại tại Việt Nam, Hà Nội, ngày 15-16 tháng 7 năm 2013.
  • Chính phủ (2017), Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt "Chương trình Quốc gia khống chế và tiến tới loại trừ bệnh dại giai đoạn 2017-2021".
  • Nguyễn Trần Hiển và cộng sự (2012), “Đặc điểm dịch tễ học bệnh dại trên người tại Việt Nam, 2009-2011", Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXII, số 8(135), tr 17-28.
  • Hanlon, C. A., & Childs, J. E. (2013). Chapter 3 - Epidemiology. In A. C. Jackson (Ed.), Rabies (Third Edition) (pp. 61-121). Boston: Academic Press.
  • Singh, R., et al. (2017). Rabies - epidemiology, pathogenesis, public health concerns and advances in diagnosis and control: a comprehensive review. Vet Q, 37(1), 212-251. doi:10.1080/01652176.2017.1343516