Sửa đổi Vườn quốc gia Kon Ka Kinh

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 12: Dòng 12:
 
VQG Kon Ka Kinh phân bố trong vùng tiếp giáp giữa cao nguyên Pleiku với cao nguyên Kon Hà Nừng, gồm nhiều dẫy núi có độ cao trung bình từ 1.200 - 1.500 m, cao nhất là đỉnh Kon Ka Kinh 1.748 m, thấp nhất là vùng đất phía đông với độ cao khoảng 600 m. Địa hình của VQG Kon Ka Kinh thấp dần từ bắc xuống nam. Sườn đông ngắn với độ dốc lớn, có độ cao khoảng 800 - 1.700 m. Sườn tây của khối núi Kon Ka Kinh thấp dần từ đông sang tây, dốc dài, thoải dần, mức độ chia cắt của địa hình không phức tạp, độ cao dao động từ khoảng 900 - 1.500 m.
 
VQG Kon Ka Kinh phân bố trong vùng tiếp giáp giữa cao nguyên Pleiku với cao nguyên Kon Hà Nừng, gồm nhiều dẫy núi có độ cao trung bình từ 1.200 - 1.500 m, cao nhất là đỉnh Kon Ka Kinh 1.748 m, thấp nhất là vùng đất phía đông với độ cao khoảng 600 m. Địa hình của VQG Kon Ka Kinh thấp dần từ bắc xuống nam. Sườn đông ngắn với độ dốc lớn, có độ cao khoảng 800 - 1.700 m. Sườn tây của khối núi Kon Ka Kinh thấp dần từ đông sang tây, dốc dài, thoải dần, mức độ chia cắt của địa hình không phức tạp, độ cao dao động từ khoảng 900 - 1.500 m.
  
Theo đặc điểm các yếu tố hình thành đất, VQG Kon Ka Kinh có lớp phủ thổ nhưỡng gồm 6 loại đất chính. Đất Feralit mùn vàng đỏ phát triển trên đá mác ma axít (FHa): phân bố tập trung ở vùng trung tâm và sườn phía tây Kon Ka Kinh; hình thành trong các điều kiện khí hậu lạnh, ẩm, có tầng thảm mục thô chưa phân huỷ dày từ  5 - 8 cm, đất tơi xốp (pH<sub>KCl</sub> 4,0 - 4,6), thành phần cơ giới thịt trung bình và thịt nặng. Đất Feralit mùn nâu vàng phát triển trên đá mác ma kiềm trung tính (FHk): phân bố chủ yếu ở phía đông bắc Kon Ka Kinh; đất hơi chua (pH<sub>KCl</sub><5,5), thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, tầng mùn mỏng, đất tơi xốp, độ dày tầng đất từ 50 - 100 cm. Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá sét biến chất (FHs): phân bố chủ yếu ở phía tây bắc Kon Ka Kinh; đất ít chua, thành phần cơ giới thịt nhẹ, thịt trung bình, tầng mùn mỏng. Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá mác ma axit (Fa): phân bố chủ yếu trên sườn phía đông bắc Kon Ka Kinh, thuộc cao nguyên Kon Hà Nừng, và một số ít diện tích thuộc xã AJun; đất chua (pH<sub>KCl</sub> 3,9 - 4,7), có tỷ lệ mùn thấp (0,5 - 0,7%), thành phần cơ giới thịt nhẹ và thịt pha sét, độ dầy tầng đất trung bình. Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá mác ma kiềm trung tính (Fk): phân bố chủ yếu ở sườn đông Kon ka Kinh; đất có tầng dày trên 100 cm, hơi chua (pH<sub>KCl</sub><5,5), thành phần cơ giới thịt nhẹ hoặc thịt trung bình, hàm lượng hữu cơ tương đối cao. Đất phù sa ven sông suối (P): Phân bố dọc theo các thung lũng ven sông suối; đất trung tính (pH<sub>KCl</sub> 7,0 - 7,2), thành phần cơ giới thịt trung bình, tỷ lệ mùn 2,7 - 3,2%, độ dầy tầng đất trung bình 50 - 100 cm (Lê Xuân Cảnh và nnk, 2012).
+
Theo đặc điểm các yếu tố hình thành đất, VQG Kon Ka Kinh có lớp phủ thổ nhưỡng gồm 6 loại đất chính. Đất Feralit mùn vàng đỏ phát triển trên đá mác ma axít (FHa): phân bố tập trung ở vùng trung tâm và sườn phía tây Kon Ka Kinh; hình thành trong các điều kiện khí hậu lạnh, ẩm, có tầng thảm mục thô chưa phân huỷ dày từ  5 - 8 cm, đất tơi xốp (pHKCl 4,0 - 4,6), thành phần cơ giới thịt trung bình và thịt nặng. Đất Feralit mùn nâu vàng phát triển trên đá mác ma kiềm trung tính (FHk): phân bố chủ yếu ở phía đông bắc Kon Ka Kinh; đất hơi chua (pHKCl<5,5), thành phần cơ giới thịt nhẹ đến trung bình, tầng mùn mỏng, đất tơi xốp, độ dày tầng đất từ 50 - 100 cm. Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá sét biến chất (FHs): phân bố chủ yếu ở phía tây bắc Kon Ka Kinh; đất ít chua, thành phần cơ giới thịt nhẹ, thịt trung bình, tầng mùn mỏng. Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá mác ma axit (Fa): phân bố chủ yếu trên sườn phía đông bắc Kon Ka Kinh, thuộc cao nguyên Kon Hà Nừng, và một số ít diện tích thuộc xã AJun; đất chua (pHKCl 3,9 - 4,7), có tỷ lệ mùn thấp (0,5 - 0,7%), thành phần cơ giới thịt nhẹ và thịt pha sét, độ dầy tầng đất trung bình. Đất Feralit nâu đỏ phát triển trên đá mác ma kiềm trung tính (Fk): phân bố chủ yếu ở sườn đông Kon ka Kinh; đất có tầng dày trên 100 cm, hơi chua (pHKCl<5,5), thành phần cơ giới thịt nhẹ hoặc thịt trung bình, hàm lượng hữu cơ tương đối cao. Đất phù sa ven sông suối (P): Phân bố dọc theo các thung lũng ven sông suối; đất trung tính (pHKCl 7,0 - 7,2), thành phần cơ giới thịt trung bình, tỷ lệ mùn 2,7 - 3,2%, độ dầy tầng đất trung bình 50 - 100 cm (Lê Xuân Cảnh và nnk, 2012).
  
 
Kon Ka Kinh chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng V đến tháng XI, mùa khô kéo dài từ tháng XII đến tháng IV năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21°C đến 25°C. Tháng 5 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 25°C, tháng I có nhiệt độ thấp nhất trung bình thấp nhất là 16°C. Khu vực đỉnh Kon Ka Kinh chịu tác động của quy luật giảm nhiệt độ theo đai cao nên có nhiệt độ dưới 15°C. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm biến động từ 2.000 - 2.500 mm. Trong đó lượng mưa tập trung từ tháng V đến tháng XI, chiếm 70 - 75% lượng mưa cả năm. Độ ẩm bình quân năm 80%. Hàng năm có 2 hướng gió chính, gió mùa Tây Nam thịnh hành vào các tháng mùa mưa, gió mùa Đông Bắc phổ biến vào các tháng mùa khô.  
 
Kon Ka Kinh chịu ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa kéo dài từ tháng V đến tháng XI, mùa khô kéo dài từ tháng XII đến tháng IV năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 21°C đến 25°C. Tháng 5 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 25°C, tháng I có nhiệt độ thấp nhất trung bình thấp nhất là 16°C. Khu vực đỉnh Kon Ka Kinh chịu tác động của quy luật giảm nhiệt độ theo đai cao nên có nhiệt độ dưới 15°C. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm biến động từ 2.000 - 2.500 mm. Trong đó lượng mưa tập trung từ tháng V đến tháng XI, chiếm 70 - 75% lượng mưa cả năm. Độ ẩm bình quân năm 80%. Hàng năm có 2 hướng gió chính, gió mùa Tây Nam thịnh hành vào các tháng mùa mưa, gió mùa Đông Bắc phổ biến vào các tháng mùa khô.  
  
VQG Kon Ka Kinh có 3 hệ thống suối chính thuộc đầu nguồn của các con sông trong vùng, với nhiều nhánh suối nhỏ, có mật độ tương đối dày, phân bố tương đối đều. Đặc điểm của hệ thống suối nơi đây về mùa mưa có lưu lượng nước khá lớn ngược lại về mùa khô lại rất thấp. Lưu vực sông Ba là hệ sông lớn nhất, được bắt nguồn từ các nhánh suối ở phía  bắc xã Đăk Roong, chảy theo hướng bắc nam với chiều dài khoảng 11 km. Toàn bộ các hệ thống suối ở mạn sườn đông bắc, đông nam Kon Ka Kinh đều thuộc lưu vực của sông Ba, với diện tích khoảng 230 km<sup>2</sup>. Lưu vực sông Đăk Pne bắt nguồn từ nhiều nhánh suối ở sườn tây dãy Kon Ka Kinh thuộc địa bàn xã Kon Pne, với diện tích lưu vực khoảng 144 km<sup>2</sup>. Sông Đăk Pne chảy theo hướng bắc, nhập với sông Đăk Bla tại huyện Kon Plông, chảy qua thành phố Kon Tum, nhập với sông Pô Kô, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Ya Ly, thủy điện Sê San III. Lưu vực sông A Yun bắt nguồn từ sườn nam của dãy Kon Ka Kinh, với tổng diện tích lưu vực là 60 km<sup>2</sup>.
+
VQG Kon Ka Kinh có 3 hệ thống suối chính thuộc đầu nguồn của các con sông trong vùng, với nhiều nhánh suối nhỏ, có mật độ tương đối dày, phân bố tương đối đều. Đặc điểm của hệ thống suối nơi đây về mùa mưa có lưu lượng nước khá lớn ngược lại về mùa khô lại rất thấp. Lưu vực sông Ba là hệ sông lớn nhất, được bắt nguồn từ các nhánh suối ở phía  bắc xã Đăk Roong, chảy theo hướng bắc nam với chiều dài khoảng 11 km. Toàn bộ các hệ thống suối ở mạn sườn đông bắc, đông nam Kon Ka Kinh đều thuộc lưu vực của sông Ba, với diện tích khoảng 230 km². Lưu vực sông Đăk Pne bắt nguồn từ nhiều nhánh suối ở sườn tây dãy Kon Ka Kinh thuộc địa bàn xã Kon Pne, với diện tích lưu vực khoảng 144 km². Sông Đăk Pne chảy theo hướng bắc, nhập với sông Đăk Bla tại huyện Kon Plông, chảy qua thành phố Kon Tum, nhập với sông Pô Kô, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Ya Ly, thủy điện Sê San III. Lưu vực sông A Yun bắt nguồn từ sườn nam của dãy Kon Ka Kinh, với tổng diện tích lưu vực là 60 km².  
  
 
=== Dân cư và kinh tế - xã hội ===
 
=== Dân cư và kinh tế - xã hội ===
  
Theo tính toán từ số liệu thống kê năm 2015, vùng đệm VQG là nơi sinh sống của 1.929 hộ gia đình, tương đương với 9.004 nhân khẩu, còn vùng lõi không có dân sinh sống. Mật độ dân số bình quân toàn vùng hiện là 21 người/km². Trong đó, xã A Yun có mật độ dân số cao nhất với 85 người/km<sup>2</sup> và xã Kon Pne có mật độ dân số thấp nhất với 8 người/km<sup>2</sup>. Tổng số lao động là 4.474 người, chiếm 49,7% tổng dân số. Cơ cấu nguồn lao động trong vùng đệm theo ngành kinh tế: nông nghiệp: 8.563 người, chiếm 95,1%; lâm nghiệp: 117 người chiếm 1,3%; tiểu thủ công nghiệp: 45 người, chiếm 0,5% và các ngành khác: 279 người, chiếm 3,1%.
+
Theo tính toán từ số liệu thống kê năm 2015, vùng đệm VQG là nơi sinh sống của 1.929 hộ gia đình, tương đương với 9.004 nhân khẩu, còn vùng lõi không có dân sinh sống. Mật độ dân số bình quân toàn vùng hiện là 21 người/km². Trong đó, xã A Yun có mật độ dân số cao nhất với 85 người/km² và xã Kon Pne có mật độ dân số thấp nhất với 8 người/km². Tổng số lao động là 4.474 người, chiếm 49,7% tổng dân số. Cơ cấu nguồn lao động trong vùng đệm theo ngành kinh tế: nông nghiệp: 8.563 người, chiếm 95,1%; lâm nghiệp: 117 người chiếm 1,3%; tiểu thủ công nghiệp: 45 người, chiếm 0,5% và các ngành khác: 279 người, chiếm 3,1%.
  
 
Hơn 80% cư dân trong vùng là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người Ba Na sinh sống ở 2 huyện K’Bang và Đăk Đoa; Đặc biệt xã Hà Đông có 98% dân cư là người dân tộc Ba Na. Người Kinh chủ yếu sinh sống ở các xã của huyện Mang Yang, chiếm từ 30 - 40%.  
 
Hơn 80% cư dân trong vùng là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người Ba Na sinh sống ở 2 huyện K’Bang và Đăk Đoa; Đặc biệt xã Hà Đông có 98% dân cư là người dân tộc Ba Na. Người Kinh chủ yếu sinh sống ở các xã của huyện Mang Yang, chiếm từ 30 - 40%.  
  
Cộng đồng dân tộc Ba Na là người bản địa sinh sống lâu đời ở đây, họ đã định canh, định cư thành các thôn, bản ven các trục đường giao thông và ven các thung lũng sông suối. Mô hình canh tác đất đai theo hộ gia đình, diện tích canh tác nhỏ lẻ, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây đồng bào dân tộc đã làm lúa nước một vụ, chưa áp dụng các biện pháp thâm canh nên năng suất không cao. Văn hóa cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, bỏ mả, cưới hỏi... mang tính cộng đồng cao, họ đánh chiêng, múa hát tập thể vào các dịp lễ tết, mùa thu hoạch. Phong tục, xã hội mẫu hệ, người phụ nữ được đề cao trong gia đình, con cái mang họ mẹ, nhưng phụ nữ cũng là những người phải lao động nặng nhọc nhất. Người đàn ông chỉ làm các việc như: làm nhà, làm rẫy, đan lát, săn bắn thú rừng... Kinh tế các xã trong vùng kinh tế nhìn chung còn khó khăn. Các nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng là các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và một phần sản phẩm phi gỗ thu hái từ rừng. Phần lớn các xã vùng đệm VQG thuộc diện vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp.
+
Cộng đồng dân tộc Ba Na là người bản địa sinh sống lâu đời ở đây, họ đã định canh, định cư thành các thôn, bản ven các trục đường giao thông và ven các thung lũng sông suối. Mô hình canh tác đất đai theo hộ gia đình, diện tích canh tác nhỏ lẻ, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây đồng bào dân tộc đã làm lúa nước một vụ, chưa áp dụng các biện pháp thâm canh nên năng suất không cao. Văn hóa cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, bỏ mả, cưới hỏi... mang tính cộng đồng cao, họ đánh chiêng, múa hát tập thể vào các dịp lễ tết, mùa thu hoạch. Phong tục, xã hội mẫu hệ, người phụ nữ được đề cao trong gia đình, con cái mang họ mẹ, nhưng phụ nữ cũng là những người phải lao động nặng nhọc nhất. Người đàn ông chỉ làm các việc như: làm nhà, làm rẫy, đan lát, săn bắn thú rừng... Kinh tế các xã trong vùng kinh tế nhìn chung còn khó khăn. Các nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng là các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi và một phần sản phẩm phi gỗ thu hái từ rừng. Phần lớn các xã vùng đệm VQG thuộc diện vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp.  
  
 
== Sinh vật và đa dạng sinh học ==
 
== Sinh vật và đa dạng sinh học ==
Dòng 32: Dòng 32:
 
=== Đa dạng động vật ===
 
=== Đa dạng động vật ===
  
Hệ động vật của VQG Kon Ka Kinh rất phong phú và có tính đặc hữu cao. Đã ghi nhận được 470 loài động vật, trong đó có 265 loài động vật có xương sống ở cạn thuộc 29 bộ, 74 họ khác nhau và 205 loài động vật không xương sống. Các loài thú cần được bảo tồn gồm Vượn đen má hung Bắc (''Nomascus annamensis''), Chà vá chân xám (''Pygathrix cinerea''), Mang Trường Sơn (''Muntiacus truongsonensis''). Khu hệ chim ở VQG Kon Ka Kinh là một phần của vùng chim đặc hữu Bắc Tây Nguyên ở độ cao từ 1000 - 1700 m. Tại đây đã ghi nhận được 3 loài đặc hữu cho Việt Nam gồm: Khướu đầu đen (''Garrulax milleti''), Khướu mỏ dài (''Jabouilleia danjoui''), Khướu Kon Ka Kinh (''Garrulax konkakinhensis'') và 4 loài đặc hữu cho Việt Nam và Lào gồm: Khướu đầu xám (''Garlulax vassali''), Trèo cây mỏ vàng (''Sitta solangiae''), Gà lôi vằn (''Lophura nycthemera'') và Thầy chùa đít đỏ (''Megalaima lagrandieri''); đã ghi nhận một loài phụ mới cho khoa học là Khướu cằm hung (''Garrulax rufogularis''). Đặc biệt có một loài chim mới phát hiện lần đầu tiên ở Kon Ka Kinh là loài Khướu Kon Ka Kinh (''Garrulax konkakinhensis''). Khu hệ bò sát VQG Kon Ka Kinh có 4 loài đặc hữu cho vùng và cho Việt Nam, trong đó: Thằn lằn Buôn Lưới (''Sphenomorphus buonluoicus'') là loài đặc hữu cho vùng Nam Trường Sơn (Lào); ba loài đặc hữu cho Việt Nam: Thằn lằn đuôi đỏ (''Scincella rufocaudata''), Chàng Sapa (''Rana chapaensis''), Ếch gai sần (''Rana verrucospinosa''). Ngoài những loài mới phát hiện và những loài có giá trị đặc hữu nêu trên, hệ động vật rừng VQG Kon Ka Kinh còn có 26 loài thú, 9 loài chim và 12 loài lưỡng cư bò sát quý hiếm, có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới.
+
Hệ động vật của VQG Kon Ka Kinh rất phong phú và có tính đặc hữu cao. Đã ghi nhận được 470 loài động vật, trong đó có 265 loài động vật có xương sống ở cạn thuộc 29 bộ, 74 họ khác nhau và 205 loài động vật không xương sống. Các loài thú cần được bảo tồn gồm Vượn đen má hung Bắc (Nomascus annamensis), Chà vá chân xám (Pygathrix cinerea), Mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis). Khu hệ chim ở VQG Kon Ka Kinh là một phần của vùng chim đặc hữu Bắc Tây Nguyên ở độ cao từ 1000 - 1700 m. Tại đây đã ghi nhận được 3 loài đặc hữu cho Việt Nam gồm: Khướu đầu đen (Garrulax milleti), Khướu mỏ dài (Jabouilleia danjoui), Khướu Kon Ka Kinh (Garrulax konkakinhensis) và 4 loài đặc hữu cho Việt Nam và Lào gồm: Khướu đầu xám (Garlulax vassali), Trèo cây mỏ vàng (Sitta solangiae), Gà lôi vằn (Lophura nycthemera) và Thầy chùa đít đỏ (Megalaima lagrandieri); đã ghi nhận một loài phụ mới cho khoa học là Khướu cằm hung (Garrulax rufogularis). Đặc biệt có một loài chim mới phát hiện lần đầu tiên ở Kon Ka Kinh là loài Khướu Kon Ka Kinh (Garrulax konkakinhensis). Khu hệ bò sát VQG Kon Ka Kinh có 4 loài đặc hữu cho vùng và cho Việt Nam, trong đó: Thằn lằn Buôn Lưới (Sphenomorphus buonluoicus) là loài đặc hữu cho vùng Nam Trường Sơn (Lào); ba loài đặc hữu cho Việt Nam: Thằn lằn đuôi đỏ (Scincella rufocaudata), Chàng Sapa (Rana chapaensis), Ếch gai sần (Rana verrucospinosa). Ngoài những loài mới phát hiện và những loài có giá trị đặc hữu nêu trên, hệ động vật rừng VQG Kon Ka Kinh còn có 26 loài thú, 9 loài chim và 12 loài lưỡng cư bò sát quý hiếm, có giá trị bảo tồn nguồn gen và nghiên cứu khoa học, được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới.  
  
 
=== Đa dạng thực vật ===
 
=== Đa dạng thực vật ===
Dòng 38: Dòng 38:
 
Do đặc điểm đa dạng về địa hình, đai cao, khí hậu, đất đai và các nhân tố hình thành rừng khác, đã tạo cho hệ thực vật rừng ở VQG Kon Ka Kinh rất phong phú và đa dạng, nơi đây là điểm hội tụ của các luồng thực vật từ các khu hệ khác nhau. Luồng thực vật thuộc khu hệ Bắc Việt Nam có các loài cây thuộc họ Đậu, họ Thầu dầu, họ Mộc lan, họ Dâu tằm, họ Na, họ Re, họ Giẻ, ... Luồng thực vật này thường phân bố nhiều ở khu vực chịu ảnh hưởng chế độ mưa ẩm nhiệt đới. Rừng thường có nhiều loài cây trên đơn vị diện tích và các loài ưu thế có tổ thành không lớn. Luồng thực vật thuộc khu hệ Vân Nam - Quý Châu và chân dãy núi Himalaya có các loài cây lá kim của ngành phụ hạt trần như Thông nàng, Hoàng đàn giả, Kim giao, Pơ mu. Luồng thực vật thuộc khu hệ Malaixia - Inđônêxia: Đại diện cho luồng thực vật này là các loài cây thuộc họ Dầu như Chò chai, Chò đen, Chò chỉ, Cẩm liên. Luồng thực vật India - Mianma: Tiêu biểu có các loài cây thuộc họ Bàng như Choại, họ Tử vi như Bằng lăng ổi.
 
Do đặc điểm đa dạng về địa hình, đai cao, khí hậu, đất đai và các nhân tố hình thành rừng khác, đã tạo cho hệ thực vật rừng ở VQG Kon Ka Kinh rất phong phú và đa dạng, nơi đây là điểm hội tụ của các luồng thực vật từ các khu hệ khác nhau. Luồng thực vật thuộc khu hệ Bắc Việt Nam có các loài cây thuộc họ Đậu, họ Thầu dầu, họ Mộc lan, họ Dâu tằm, họ Na, họ Re, họ Giẻ, ... Luồng thực vật này thường phân bố nhiều ở khu vực chịu ảnh hưởng chế độ mưa ẩm nhiệt đới. Rừng thường có nhiều loài cây trên đơn vị diện tích và các loài ưu thế có tổ thành không lớn. Luồng thực vật thuộc khu hệ Vân Nam - Quý Châu và chân dãy núi Himalaya có các loài cây lá kim của ngành phụ hạt trần như Thông nàng, Hoàng đàn giả, Kim giao, Pơ mu. Luồng thực vật thuộc khu hệ Malaixia - Inđônêxia: Đại diện cho luồng thực vật này là các loài cây thuộc họ Dầu như Chò chai, Chò đen, Chò chỉ, Cẩm liên. Luồng thực vật India - Mianma: Tiêu biểu có các loài cây thuộc họ Bàng như Choại, họ Tử vi như Bằng lăng ổi.
  
Hệ thực vật VQG Kon Ka Kinh có nhiều loài đặc hữu, quý hiếm và có giá trị kinh tế cao. Qua kết quả điều tra hệ thực vật rừng ở VQG Kon Ka Kinh bước đầu đã thống kê được 1.022 loài thực vật thuộc 568 chi và 158 họ. Trong đó ngành thực vật cây hạt kín chiếm đa số (127 họ, 519 chi, 930 loài). Các ngành khuyết thực vật có 24 họ, 41 chi và 81 loài. Ngành hạt trần có 7 họ, 8 chi, 13 loài. Một số loài đặc hữu cần được bảo tồn nguồn gen như: Thông Đà Lạt hay Thông năm lá (''Pinus dalatensis''), Hoa khế (''Craibiodendron scleranthum''), Gõ đỏ (''Afzelia xylocarpa''), Trắc (''Dalbergia cochinchinesis''), Xoay (''Dialium cochinchinensis''), Bọ nẹt Trung bộ (''Alchornea annamica''), Du moóc (''Baccaurea sylvestris''), Song bột (''Calamus poilanei''), Lọng hiệp (''Bulbophyllum hiepii'') và Lan hoàng thảo vạch đỏ (''Dendrobium ochraceum''). Cho đến nay, có tổng cộng 22 loài thực vật bị đe dọa được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ IUCN đã ghi nhận hiện diện ở VQG Kon Ka Kinh. Trong đó, ở mức độ toàn cầu có 2 loài Cực kỳ nguy cấp (CR), 1 loài Nguy cấp (EN) và 6 loài Sẽ nguy cấp (VU). Ở mức độ quốc gia, có có 2 loài Cực kỳ nguy cấp, 9 loài Nguy cấp và 8 loài sẽ nguy cấp. (Hội Động vật học Frankfurk và VQG Kon Ka Kinh, 2013).
+
Hệ thực vật VQG Kon Ka Kinh có nhiều loài đặc hữu, quý hiếm và có giá trị kinh tế cao. Qua kết quả điều tra hệ thực vật rừng ở VQG Kon Ka Kinh bước đầu đã thống kê được 1.022 loài thực vật thuộc 568 chi và 158 họ. Trong đó ngành thực vật cây hạt kín chiếm đa số (127 họ, 519 chi, 930 loài). Các ngành khuyết thực vật có 24 họ, 41 chi và 81 loài. Ngành hạt trần có 7 họ, 8 chi, 13 loài. Một số loài đặc hữu cần được bảo tồn nguồn gen như: Thông Đà Lạt hay Thông năm lá (Pinus dalatensis), Hoa khế (Craibiodendron scleranthum), Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Trắc (Dalbergia cochinchinesis), Xoay (Dialium cochinchinensis), Bọ nẹt Trung bộ (Alchornea annamica), Du moóc (Baccaurea sylvestris), Song bột (Calamus poilanei), Lọng hiệp (Bulbophyllum hiepii) và Lan hoàng thảo vạch đỏ (Dendrobium ochraceum). Cho đến nay, có tổng cộng 22 loài thực vật bị đe dọa được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và Danh lục Đỏ IUCN đã ghi nhận hiện diện ở VQG Kon Ka Kinh. Trong đó, ở mức độ toàn cầu có 2 loài Cực kỳ nguy cấp (CR), 1 loài Nguy cấp (EN) và 6 loài Sẽ nguy cấp (VU). Ở mức độ quốc gia, có có 2 loài Cực kỳ nguy cấp, 9 loài Nguy cấp và 8 loài sẽ nguy cấp. (Hội Động vật học Frankfurk và VQG Kon Ka Kinh, 2013).
  
 
=== Đa dạng hệ sinh thái ===
 
=== Đa dạng hệ sinh thái ===
Dòng 44: Dòng 44:
 
VQG Kon Ka Kinh ngoài đa dạng về loài động, thực vật, còn phong phú về các kiểu hệ sinh thái rừng. Trong 33.146 ha đất có rừng, các kiểu sinh cảnh rừng trên núi trải rộng theo đai cao từ 700 - 1.748 m chiếm 80% diện tích của Vườn. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng - lá kim phân bố đến 2.000 ha.  Đây là kiểu rừng chỉ thấy ở Kon Ka Kinh trong hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam. Theo phân loại sinh thái phát sinh của Thái Văn Trừng (1998), thảm thực vật rừng của VQG Kon Ka Kinh gồm có các kiểu rừng chính: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng kín hỗn giao lá rộng - lá kim mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Bên cạnh đó là một diện tích rất đáng kể của rừng thứ sinh chịu tác động của con người, bao gồm rừng kín lá rộng nghèo kiệt, rừng kín phục hồi tái sinh sau đốt nương làm rẫy và khai thác. Ngoài ra, còn một tỉ lệ nhỏ các kiểu rừng le, nứa, rừng trồng, đất trống, trảng cỏ.
 
VQG Kon Ka Kinh ngoài đa dạng về loài động, thực vật, còn phong phú về các kiểu hệ sinh thái rừng. Trong 33.146 ha đất có rừng, các kiểu sinh cảnh rừng trên núi trải rộng theo đai cao từ 700 - 1.748 m chiếm 80% diện tích của Vườn. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng - lá kim phân bố đến 2.000 ha.  Đây là kiểu rừng chỉ thấy ở Kon Ka Kinh trong hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam. Theo phân loại sinh thái phát sinh của Thái Văn Trừng (1998), thảm thực vật rừng của VQG Kon Ka Kinh gồm có các kiểu rừng chính: rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng kín hỗn giao lá rộng - lá kim mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp, rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Bên cạnh đó là một diện tích rất đáng kể của rừng thứ sinh chịu tác động của con người, bao gồm rừng kín lá rộng nghèo kiệt, rừng kín phục hồi tái sinh sau đốt nương làm rẫy và khai thác. Ngoài ra, còn một tỉ lệ nhỏ các kiểu rừng le, nứa, rừng trồng, đất trống, trảng cỏ.
  
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp là kiểu rừng có diện tích lớn nhất VQG, phân bố ở đai cao từ 900 m hoặc 1000 m trở lên. Thực vật trong kiểu rừng này tương đối đa dạng, thường chiếm ưu thế ở tầng ưu thế sinh thái, điển hình là các loài cây trong họ Giẻ, họ Sim, họ Re, họ Chè, họ Sau sau, họ Đỗ quyên, họ Mộc lan,...
+
Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp là kiểu rừng có diện tích lớn nhất VQG, phân bố ở đai cao từ 900 m hoặc1000 m trở lên. Thực vật trong kiểu rừng này tương đối đa dạng, thường chiếm ưu thế ở tầng ưu thế sinh thái, điển hình là các loài cây trong họ Giẻ, họ Sim, họ Re, họ Chè, họ Sau sau, họ Đỗ quyên, họ Mộc lan,...
  
Ở những đỉnh cao trên 1.500 m, nơi có chế độ nhiệt thấp, khí hậu lạnh ẩm, quanh năm có gió mạnh, còn thường xuất hiện dạng rừng cằn. Đặc điểm của dạng rừng này là đường kính cây thường nhỏ trên dưới 10 cm, chiều cao cây thấp 10 - 15 m, thân hình cong queo, phân cành thấp, xung quanh thân bám đầy rêu và địa y. Dạng rừng này thường có mật độ cây/ha cao, nhưng trữ lượng thấp (trung bình 80 m<sup>3</sup>/ha).
+
Ở những đỉnh cao trên 1.500 m, nơi có chế độ nhiệt thấp, khí hậu lạnh ẩm, quanh năm có gió mạnh, còn thường xuất hiện dạng rừng cằn. Đặc điểm của dạng rừng này là đường kính cây thường nhỏ trên dưới 10 cm, chiều cao cây thấp 10 - 15 m, thân hình cong queo, phân cành thấp, xung quanh thân bám đầy rêu và địa y. Dạng rừng này thường có mật độ cây/ha cao, nhưng trữ lượng thấp (trung bình 80 /ha).
  
 
Kiểu rừng hỗn giao lá rộng - lá kim thường phân bố ở đai cao 1.000 - 1.500 m. Trong kiểu rừng này, ngoài các loài cây trong ngành hạt kín, các loài cây trong ngành hạt trần cũng chiếm vị trí ưu thế trong một số lâm phần hỗn giao cây hạt kín và hạt trần. Tùy vào độ cao mà có các loài cây hạt trần cụ thể khác nhau: Các loài Hoàng đàn giả, Thông nàng mọc khá phổ biến ở độ cao từ 900 - 1.300m, trong khi loài Pơ mu lại chỉ phân bố tập trung ở độ cao từ 1.300 m trở lên và chủ yếu mọc tập trung ở sườn Đông Kon Ka Kinh. Chính vì vậy, các loài này đã hình thành nên các lâm phần hỗn giao đơn ưu, đa ưu, tạo nên kiểu rừng kín cây lá rộng, lá kim.
 
Kiểu rừng hỗn giao lá rộng - lá kim thường phân bố ở đai cao 1.000 - 1.500 m. Trong kiểu rừng này, ngoài các loài cây trong ngành hạt kín, các loài cây trong ngành hạt trần cũng chiếm vị trí ưu thế trong một số lâm phần hỗn giao cây hạt kín và hạt trần. Tùy vào độ cao mà có các loài cây hạt trần cụ thể khác nhau: Các loài Hoàng đàn giả, Thông nàng mọc khá phổ biến ở độ cao từ 900 - 1.300m, trong khi loài Pơ mu lại chỉ phân bố tập trung ở độ cao từ 1.300 m trở lên và chủ yếu mọc tập trung ở sườn Đông Kon Ka Kinh. Chính vì vậy, các loài này đã hình thành nên các lâm phần hỗn giao đơn ưu, đa ưu, tạo nên kiểu rừng kín cây lá rộng, lá kim.

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: