Sửa đổi Mẫu Âu Cơ

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 3: Dòng 3:
 
== Ghi chép trong sách ==
 
== Ghi chép trong sách ==
  
[[File:Tượng mẹ Âu Cơ tại Đền Hùng, Tao Đàn, tháng 12 năm 2021 (1).jpg|thumb|Tượng mẹ Âu Cơ tại Đền Hùng, Tao Đàn, tháng 12 năm 2021 (1)|alt=Tượng mẹ Âu Cơ tại Đền Hùng, Tao Đàn, tháng 12 năm 2021 (1).jpg]]
 
 
Sự xuất hiện của mẫu Âu Cơ, cuộc đời và công trạng của Mẫu đã được phác hoạ thông qua các câu chuyện truyền thuyết, cổ tích, qua các tư liệu thành văn, các văn bia và ngọc phả, sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sự phác hoạ này cho thấy, cuộc đời của mẫu Âu Cơ gắn liền với thời đại mở đất, mở nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Lĩnh Nam chích quái (một tác phẩm có từ thời nhà Trần) được coi là văn bản sớm nhất ghi chép chuyện về Âu Cơ trong thiên Hồng Bàng thị truyện. Theo đó, xuất thân của  mẫu Âu Cơ là người thường vô cùng xinh đẹp, con gái Đế Lai ở động Lăng Xương (nay là huyện Thanh Thuỷ, Phú Thọ). Khi Đế Lai đi săn, ông đã để Âu Cơ và các thị nữ ở lại nơi hành tại. Lạc Long Quân (tên là Sùng Lãm) đã được cha là Kinh Dương Vương dòng dõi thuỷ phủ cho truyền ngôi, khi qua đây thấy Âu Cơ xinh đẹp đã đem lòng yêu mến và Âu Cơ đã bằng lòng cùng Lạc Long Quân về sinh sống ở Long Đài. Những tư liệu thành văn của các triều đại phong kiến sau đó như Đại Việt sử kí toàn thư thời nhà Lê (thế kỉ XV) hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời nhà Nguyễn (thế kì XIX) đã rút ngắn việc miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, thậm chí thay đổi thông tin, ví như, Lĩnh Nam chích quái miêu tả Âu Cơ bằng lòng theo Lạc Long Quân và không hề ghi bất cứ chữ nào về kết hôn, nhưng Đại Việt Sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên lại ghi rằng Lạc Long Quân hỏi cưới Âu Cơ- một hành động có tính lễ nghi và hợp pháp. Xoay quanh câu chuyện về xuất thân và cuộc đời của mẫu Âu Cơ cũng có ý kiến ngược lại, mẫu Âu Cơ không phải người thường, mẫu Âu Cơ là Tiên nữ, con gái một vị thần núi chứ không phải con gái của Đế Lai. Quan điểm này tồn tại một cách phổ biến ở các truyền thuyết trong văn hoá Việt Nam hiện đại. Nói cách khác, đến truyền miệng phổ thông, mẫu Âu Cơ từ người thường đã trở thành tiên. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau như vậy trong các tư liệu thành văn và tư liệu truyền miệng, nhưng tựu chung lại, có khá nhiều điểm cốt lõi vẫn thống nhất giữa các nguồn tư liệu khác nhau về mẫu Âu Cơ: là vợ của Lạc Long Quân, đẻ ra 100 trứng nở ra 100 con trai nhưng do dòng giống và môi trường sống khác nhau nên hai người đã chia tay, Âu Cơ đưa 50 con lên rừng khai sơn phá thạch, Lạc Long Quân đưa 50 con về biển, người con trai cả theo mẹ được phong làm vua Hùng. Sau khi đã cùng các con gây dựng cơ đồ, mẫu Âu Cơ hoá vào ngày 25 tháng chạp.  
 
Sự xuất hiện của mẫu Âu Cơ, cuộc đời và công trạng của Mẫu đã được phác hoạ thông qua các câu chuyện truyền thuyết, cổ tích, qua các tư liệu thành văn, các văn bia và ngọc phả, sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam. Sự phác hoạ này cho thấy, cuộc đời của mẫu Âu Cơ gắn liền với thời đại mở đất, mở nước đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Lĩnh Nam chích quái (một tác phẩm có từ thời nhà Trần) được coi là văn bản sớm nhất ghi chép chuyện về Âu Cơ trong thiên Hồng Bàng thị truyện. Theo đó, xuất thân của  mẫu Âu Cơ là người thường vô cùng xinh đẹp, con gái Đế Lai ở động Lăng Xương (nay là huyện Thanh Thuỷ, Phú Thọ). Khi Đế Lai đi săn, ông đã để Âu Cơ và các thị nữ ở lại nơi hành tại. Lạc Long Quân (tên là Sùng Lãm) đã được cha là Kinh Dương Vương dòng dõi thuỷ phủ cho truyền ngôi, khi qua đây thấy Âu Cơ xinh đẹp đã đem lòng yêu mến và Âu Cơ đã bằng lòng cùng Lạc Long Quân về sinh sống ở Long Đài. Những tư liệu thành văn của các triều đại phong kiến sau đó như Đại Việt sử kí toàn thư thời nhà Lê (thế kỉ XV) hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời nhà Nguyễn (thế kì XIX) đã rút ngắn việc miêu tả cuộc gặp gỡ giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, thậm chí thay đổi thông tin, ví như, Lĩnh Nam chích quái miêu tả Âu Cơ bằng lòng theo Lạc Long Quân và không hề ghi bất cứ chữ nào về kết hôn, nhưng Đại Việt Sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên lại ghi rằng Lạc Long Quân hỏi cưới Âu Cơ- một hành động có tính lễ nghi và hợp pháp. Xoay quanh câu chuyện về xuất thân và cuộc đời của mẫu Âu Cơ cũng có ý kiến ngược lại, mẫu Âu Cơ không phải người thường, mẫu Âu Cơ là Tiên nữ, con gái một vị thần núi chứ không phải con gái của Đế Lai. Quan điểm này tồn tại một cách phổ biến ở các truyền thuyết trong văn hoá Việt Nam hiện đại. Nói cách khác, đến truyền miệng phổ thông, mẫu Âu Cơ từ người thường đã trở thành tiên. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau như vậy trong các tư liệu thành văn và tư liệu truyền miệng, nhưng tựu chung lại, có khá nhiều điểm cốt lõi vẫn thống nhất giữa các nguồn tư liệu khác nhau về mẫu Âu Cơ: là vợ của Lạc Long Quân, đẻ ra 100 trứng nở ra 100 con trai nhưng do dòng giống và môi trường sống khác nhau nên hai người đã chia tay, Âu Cơ đưa 50 con lên rừng khai sơn phá thạch, Lạc Long Quân đưa 50 con về biển, người con trai cả theo mẹ được phong làm vua Hùng. Sau khi đã cùng các con gây dựng cơ đồ, mẫu Âu Cơ hoá vào ngày 25 tháng chạp.  
  
 
Công lao to lớn của mẫu Âu Cơ được muôn đời sau truyền lại và được ghi vào sử sách trước hết bởi Người đã sinh ra vua Hùng –vị vua lập quốc Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), truyền đời nối dõi 18 đời và 99 người con khác cũng là tổ tiên hoặc là chủ các vùng đất khác trong toàn cõi Việt Nam. Chính từ chi tiết này, mẫu Âu Cơ trở nên vĩ đại hơn bởi Người trở thành biểu tượng cho nguồn gốc dân tộc. Các mĩ từ đã được người xưa sáng tạo nên để dành tặng cho biểu tượng người mẹ đặc biệt này:Tổ Mẫu Âu Cơ (người mẹ đầu tiên của dân tộc), Quốc Mẫu Âu Cơ (người mẹ của cả đất nước, hoặc từ này cũng được dùng để gọi mẹ của các vua). Và để cho biểu tượng người Mẹ của dân tộc thêm đặc biệt hơn, vĩ đại hơn và đẹp đẽ hơn, dân gian đã huyền thoại hoá mẹ Âu Cơ bằng những chi tiết li kỳ, huyền ảo như sinh ra bọc trứng, nở ra trăm con trai. Ở vùng Hạ Hoà (Phú Thọ) còn lưu truyền phổ biến truyền thuyết dân gian trong đó nhấn mạnh chi tiết Âu Cơ là tiên nữ chuyên trồng dâu, dệt vải, nuôi tằm cho trời, nhân tiết đầu xuân du chơi, nhìn xuống hạ giới thì thấy động Lăng Xương bên bờ sông Đà có bãi dâu xanh tươi bát ngát liền bay xuống thưởng ngoạn và đã gặp Lạc Long Quân vốn thuộc giống Rồng trong khung cảnh lãng mạn này. Như vậy, với việc huyền thoại hoá, người Việt Nam đã xây dựng cho mình biểu tượng cha Rồng mẹ Tiên và Tiên- Rồng chính là dòng dõi của người Việt Nam.  
 
Công lao to lớn của mẫu Âu Cơ được muôn đời sau truyền lại và được ghi vào sử sách trước hết bởi Người đã sinh ra vua Hùng –vị vua lập quốc Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), truyền đời nối dõi 18 đời và 99 người con khác cũng là tổ tiên hoặc là chủ các vùng đất khác trong toàn cõi Việt Nam. Chính từ chi tiết này, mẫu Âu Cơ trở nên vĩ đại hơn bởi Người trở thành biểu tượng cho nguồn gốc dân tộc. Các mĩ từ đã được người xưa sáng tạo nên để dành tặng cho biểu tượng người mẹ đặc biệt này:Tổ Mẫu Âu Cơ (người mẹ đầu tiên của dân tộc), Quốc Mẫu Âu Cơ (người mẹ của cả đất nước, hoặc từ này cũng được dùng để gọi mẹ của các vua). Và để cho biểu tượng người Mẹ của dân tộc thêm đặc biệt hơn, vĩ đại hơn và đẹp đẽ hơn, dân gian đã huyền thoại hoá mẹ Âu Cơ bằng những chi tiết li kỳ, huyền ảo như sinh ra bọc trứng, nở ra trăm con trai. Ở vùng Hạ Hoà (Phú Thọ) còn lưu truyền phổ biến truyền thuyết dân gian trong đó nhấn mạnh chi tiết Âu Cơ là tiên nữ chuyên trồng dâu, dệt vải, nuôi tằm cho trời, nhân tiết đầu xuân du chơi, nhìn xuống hạ giới thì thấy động Lăng Xương bên bờ sông Đà có bãi dâu xanh tươi bát ngát liền bay xuống thưởng ngoạn và đã gặp Lạc Long Quân vốn thuộc giống Rồng trong khung cảnh lãng mạn này. Như vậy, với việc huyền thoại hoá, người Việt Nam đã xây dựng cho mình biểu tượng cha Rồng mẹ Tiên và Tiên- Rồng chính là dòng dõi của người Việt Nam.  
  
Công lao to lớn nữa của mẫu Âu Cơ là đã cùng các con khai thiên phá thạch, kiến tạo nền nông nghiệp. Những chi tiết được ghi lại trong thần tích của đền thờ bà ở xã Hiền Lương (huyện Hạ Hoà, Phú Thọ) cho biết mẫu Âu Cơ đã kiếm giống lúa cho dân, chỉ cho mọi người biết đốt cây rẫy cỏ để trồng lúa nương (về sau Vua Hùng và con cháu vua Hùng dạy dân trồng lúa nước), bắc cầu qua khe suối, đào giếng Loan, giếng Phượng lấy nước sạch để ăn uống. Mẹ Âu Cơ cũng dạy dân trồng dâu nuôi tằm ở các bãi ven sông, dạy cho dân biết lá dâu là một loại thức ăn của tằm và phải có tằm mới có tơ lụa để mặc. mẫu Âu Cơ còn dạy dân trồng mía, sáng chế ra một loại bánh có tên là bánh uôi- loại bánh được làm bằng bột nếp giã kĩ, trộn với mật mía, nặn thành hình tròn, đồ trong chõ cho chín (còn gọi là bánh mật). Về phương diện này, mẫu Âu Cơ trở thành Tổ nghề nông tang của dân tộc Việt Nam.
+
Công lao to lớn nữa của mẫu Âu Cơ là đã cùng các con khai thiên phá thạch, kiến tạo nền nông nghiệp. Những chi tiết được ghi lại trong thần tích của đền thờ bà ở xã Hiền Lương (huyện Hạ Hoà, Phú Thọ) cho biết mẫu Âu Cơ đã kiếm giống lúa cho dân, chỉ cho mọi người biết đốt cây rẫy cỏ để trồng lúa nương (về sau Vua Hùng và con cháu vua Hùng dạy dân trồng lúa nước), bắc cầu qua khe suối, đào giếng Loan, giếng Phượng lấy nước sạch để ăn uống. Mẹ Âu Cơ cũng dạy dân trồng dâu nuôi tằm ở các bãi ven sông, dạy cho dân biết lá dâu là một loại thức ăn của tằm và phải có tằm mới có tơ lụa để mặc. mẫu Âu Cơ còn dạy dân trồng mía, sáng chế ra một loại bánh có tên là bánh uôi- loại bánh được làm bằng bột nếp giã kĩ, trộn với mật mía, nặn thành hình tròn, đồ trong chõ cho chín (còn gọi là bánh mật). Về phương diện này, mẫu Âu Cơ trở thành Tổ nghề nông tang của dân tộc Việt Nam.
  
 
== Mẫu Âu Cơ trong đời sống văn hoá Việt Nam ==  
 
== Mẫu Âu Cơ trong đời sống văn hoá Việt Nam ==  

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: