Sửa đổi Lý thuyết lực hấp dẫn trong kinh tế quốc tế
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{mới}} | {{mới}} | ||
− | [[File:Lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế.svg|thumb|550px| | + | [[File:Lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế.svg|thumb|550px|lực hấp dẫn trong thương mại quốc tế]] |
'''Lý thuyết lực hấp dẫn trong kinh tế quốc tế''' là một lý thuyết [[kinh tế học]] được sử dụng để dự đoán quan hệ thương mại song phương hoặc dòng chảy [[FDI]] dựa trên quy mô của nền kinh tế - thường sử dụng Tổng sản phẩm quốc nội ([[GDP]]), GDP bình quân đầu người, Tổng sản phẩm quốc dân ([[GNP]]), và GNP bình quân đầu người - và khoảng cách giữa hai đối tác thương mại/đầu tư. Mô hình trọng lực đầu tiên được áp dụng bởi Tinbergen (1962) và Linnemann (1966). Nó được đặt tên là “mô hình lực hấp dẫn” tương tự với [[định luật vạn vật hấp dẫn]] của [[Isaac Newton]] khi tính toán lực hút tương tác giữa hai vật thể ''F''<sub>''ij''</sub>, tỷ lệ thuận với khối lượng ''M''<sub>''i''</sub>, ''M''<sub>''j''</sub> và tỷ lệ nghịch với khoảng cách, với công thức: | '''Lý thuyết lực hấp dẫn trong kinh tế quốc tế''' là một lý thuyết [[kinh tế học]] được sử dụng để dự đoán quan hệ thương mại song phương hoặc dòng chảy [[FDI]] dựa trên quy mô của nền kinh tế - thường sử dụng Tổng sản phẩm quốc nội ([[GDP]]), GDP bình quân đầu người, Tổng sản phẩm quốc dân ([[GNP]]), và GNP bình quân đầu người - và khoảng cách giữa hai đối tác thương mại/đầu tư. Mô hình trọng lực đầu tiên được áp dụng bởi Tinbergen (1962) và Linnemann (1966). Nó được đặt tên là “mô hình lực hấp dẫn” tương tự với [[định luật vạn vật hấp dẫn]] của [[Isaac Newton]] khi tính toán lực hút tương tác giữa hai vật thể ''F''<sub>''ij''</sub>, tỷ lệ thuận với khối lượng ''M''<sub>''i''</sub>, ''M''<sub>''j''</sub> và tỷ lệ nghịch với khoảng cách, với công thức: | ||
Dòng 19: | Dòng 19: | ||
*''T''<sub>''ij''</sub> là kim ngạch trao đổi thương mại giữa quốc gia ''i'' và quốc gia ''j'' | *''T''<sub>''ij''</sub> là kim ngạch trao đổi thương mại giữa quốc gia ''i'' và quốc gia ''j'' | ||
*''A'' là Hệ số hấp dẫn hay cản trở | *''A'' là Hệ số hấp dẫn hay cản trở | ||
− | *''Y''<sub>''i''</sub> là Quy mô nền kinh tế của quốc gia | + | *''Y''<sub>''i''</sub> là Quy mô nền kinh tế của quốc gia i |
− | *''Y''<sub>''j''</sub> là Quy mô nền kinh tế của quốc gia | + | *''Y''<sub>''j''</sub> là Quy mô nền kinh tế của quốc gia j |
− | *DIS<sub>''ij''</sub> là Khoảng cách giữa hai quốc gia | + | *DIS<sub>''ij''</sub> là Khoảng cách giữa hai quốc gia i và j |
− | * | + | *β<sub>1</sub>; β<sub>2</sub>; β<sub>1</sub> là các Hệ số hồi quy riêng của từng nhân tố có trong mô hình |
*''u''<sub>''ij''</sub> là Sai số ngẫu nhiên | *''u''<sub>''ij''</sub> là Sai số ngẫu nhiên | ||
Về cơ bản lý thuyết trên đã lượng hóa được ảnh hưởng của 3 nhân tố cơ bản là quy mô nền kinh tế của quốc gia xuất khẩu, quốc gia nhập khẩu và khoảng cách giữa hai quốc gia đến kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai quốc gia. | Về cơ bản lý thuyết trên đã lượng hóa được ảnh hưởng của 3 nhân tố cơ bản là quy mô nền kinh tế của quốc gia xuất khẩu, quốc gia nhập khẩu và khoảng cách giữa hai quốc gia đến kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai quốc gia. | ||
− | |||
===Các mô hình nâng cao=== | ===Các mô hình nâng cao=== | ||
Các nghiên cứu sau đó trên cơ sở của mô hình này đã phát triển và bổ sung thêm các nhân tố khác vào mô hình như nghiên cứu của Gbetnkom và Khan (2002), Erdem và Nazlioglu (2008), Hatab, Romstad và Huo (2010) và một số nghiên cứu khác. | Các nghiên cứu sau đó trên cơ sở của mô hình này đã phát triển và bổ sung thêm các nhân tố khác vào mô hình như nghiên cứu của Gbetnkom và Khan (2002), Erdem và Nazlioglu (2008), Hatab, Romstad và Huo (2010) và một số nghiên cứu khác. |