Sửa đổi Khmer Đỏ
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 66: | Dòng 66: | ||
Lịch sử phong trào cộng sản ở Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:{{sfn|Ross|1990|p=35}} | Lịch sử phong trào cộng sản ở Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:{{sfn|Ross|1990|p=35}} | ||
#Sự nổi lên của [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] trước Thế chiến II mà thành viên hầu như chỉ có người Việt Nam. | #Sự nổi lên của [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] trước Thế chiến II mà thành viên hầu như chỉ có người Việt Nam. | ||
− | # | + | #10 năm đấu tranh giành độc lập từ Pháp, khi đó một đảng cộng sản riêng của người Campuchia là [[Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia]] (KPRP) được thành lập dưới sự bảo trợ của Việt Nam. |
#Giai đoạn sau Đại hội lần Hai của KPRP vào năm 1960, khi Saloth Sar (Pol Pot sau này) và các lãnh đạo Khmer Đỏ tương lai giành quyền kiểm soát bộ máy. | #Giai đoạn sau Đại hội lần Hai của KPRP vào năm 1960, khi Saloth Sar (Pol Pot sau này) và các lãnh đạo Khmer Đỏ tương lai giành quyền kiểm soát bộ máy. | ||
#Đấu tranh cách mạng từ cuộc nổi dậy ban đầu năm 1967–68 đến sự sụp đổ của chính quyền Lon Nol vào tháng 4 năm 1975. | #Đấu tranh cách mạng từ cuộc nổi dậy ban đầu năm 1967–68 đến sự sụp đổ của chính quyền Lon Nol vào tháng 4 năm 1975. | ||
Dòng 81: | Dòng 81: | ||
Sang những năm 1945–47, [[Việt Minh]] và chính quyền Thái Lan có chung lý tưởng hỗ trợ những phong trào chống Pháp ở Đông Dương, trong đó có [[Khmer Issarak]] hoạt động ở biên giới Thái Lan. Nhóm này về sau chia làm hai phe tả và hữu; những nhân vật phe tả tiêu biểu là Sơn Ngọc Minh (Achar Mean), Sieu Heng, và Tou Samouth. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1950, Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Khmer Issarak được tổ chức, qua đó sáng lập [[Mặt trận Issarak Thống nhất]] (UIF) với thủ lĩnh là [[Sơn Ngọc Minh]]. Các đảng viên người Campuchia của Đảng Cộng sản Đông Dương nắm quyền thế trong UIF.{{sfnm|1a1=Chandler|1y=2008|1p=221|2a1=Ross|2y=1990|2p=36}} Đến năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải thể và tách ra thành các đảng cộng sản riêng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.{{sfn|Nguyễn Trọng Phúc|2019|p=78}} Ở Campuchia đó là [[Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia]] (KPRP) khi ấy có khoảng 1.000 đảng viên.{{sfn|Chandler|2008|p=222}} | Sang những năm 1945–47, [[Việt Minh]] và chính quyền Thái Lan có chung lý tưởng hỗ trợ những phong trào chống Pháp ở Đông Dương, trong đó có [[Khmer Issarak]] hoạt động ở biên giới Thái Lan. Nhóm này về sau chia làm hai phe tả và hữu; những nhân vật phe tả tiêu biểu là Sơn Ngọc Minh (Achar Mean), Sieu Heng, và Tou Samouth. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1950, Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Khmer Issarak được tổ chức, qua đó sáng lập [[Mặt trận Issarak Thống nhất]] (UIF) với thủ lĩnh là [[Sơn Ngọc Minh]]. Các đảng viên người Campuchia của Đảng Cộng sản Đông Dương nắm quyền thế trong UIF.{{sfnm|1a1=Chandler|1y=2008|1p=221|2a1=Ross|2y=1990|2p=36}} Đến năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải thể và tách ra thành các đảng cộng sản riêng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.{{sfn|Nguyễn Trọng Phúc|2019|p=78}} Ở Campuchia đó là [[Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia]] (KPRP) khi ấy có khoảng 1.000 đảng viên.{{sfn|Chandler|2008|p=222}} | ||
− | Trong năm 1952, cơ quan tình báo Pháp ước tính lực lượng Issarak có quân số khoảng 5.000 nhưng khả năng thực tế là đông hơn.{{sfn|Chandler|2008|p=222}} Các nhóm du kích cộng sản phối hợp cùng Việt Minh đã chiếm cứ một phần sáu lãnh thổ Campuchia và bắt giữ hàng ngàn lính Pháp. Hai năm sau tại thời điểm [[Hội nghị Geneva]] (1954), lực lượng cộng sản có thể đã kiểm soát hơn một nửa vương quốc.{{sfn|Chandler|2008|p=221}} | + | Trong năm 1952, cơ quan tình báo Pháp ước tính lực lượng Issarak có quân số khoảng 5.000 nhưng khả năng thực tế là đông hơn.{{sfn|Chandler|2008|p=222}} Các nhóm du kích cộng sản phối hợp cùng Việt Minh đã chiếm cứ một phần sáu lãnh thổ Campuchia và bắt giữ hàng ngàn lính Pháp. Hai năm sau tại thời điểm [[Hội nghị Geneva]] (1954), lực lượng cộng sản có thể đã kiểm soát hơn một nửa vương quốc.{{sfn|Chandler|2008|p=221}} Tháng 7 năm 1954, số lượng đảng viên KPRP ước tính là 2.000 và khoảng một nửa số này đã sang Bắc Việt Nam lưu vong sau [[Hiệp định Geneva]], bao gồm Sơn Ngọc Minh.{{sfnm|1a1=Chandler|1y=2008|1p=222|2a1=Ross|2y=1990|2p=37}} Theo diễn giải lịch sử đảng của Campuchia Dân chủ, việc Việt Minh không thể đàm phán một vai trò chính trị cho KPRP tại Hội nghị Geneva giống như một sự phản bội phong trào của Campuchia.{{sfn|Ross|1990|p=36–37}} Dưới sức ép từ chế độ Sihanouk và đồng minh phương Tây, Việt Nam thậm chí không thể để những người cộng sản Campuchia tham gia đàm phán.{{sfn|Mosyakov|2004|p=2}} Các sự kiện năm 1954 đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ giữa người Việt và Khmer cộng sản. Sự cộng tác thân thiết giai đoạn 1949–53 chấm dứt còn KPRP chuyển sang hoạt động bí mật và không còn được Hà Nội để tâm trong nhiều năm.{{sfn|Mosyakov|2004|p=2–3}} |
− | |||
− | |||
=== Nhóm sinh viên Paris === | === Nhóm sinh viên Paris === | ||
− | Vào thập niên 1950, những sinh viên Khmer ở Paris đã tổ chức phong trào cộng sản riêng mà hầu như không có liên hệ gì với đảng ở quê hương họ. Từ đây có những người mà sau này đã trở về Campuchia giành quyền chỉ huy bộ máy đảng, dẫn dắt cuộc nổi dậy chống | + | Vào thập niên 1950, những sinh viên Khmer ở Paris đã tổ chức phong trào cộng sản riêng mà hầu như không có liên hệ gì với đảng ở quê hương họ. Từ đây có những người mà sau này đã trở về Campuchia giành quyền chỉ huy bộ máy đảng, dẫn dắt cuộc nổi dậy chống Lon Nol và Sihanouk, rồi lập nên chế độ Campuchia Dân chủ.{{sfn|Ross|1990|p=38}} |
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
== Kinh tế == | == Kinh tế == | ||
Dòng 103: | Dòng 90: | ||
Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | ||
− | |||
− | |||
== Tham khảo == | == Tham khảo == | ||
Dòng 134: | Dòng 119: | ||
*{{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r}} | *{{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r}} | ||
*{{cite book | last = Dy | first = Khamboly | title = A History of Democratic Kampuchea (1975-1979) | publisher = Documentation Center of Cambodia | publication-place = Phnom Penh | date = 2007 | isbn = 978-99950-60-04-6 | url = https://d.dccam.org/Projects/Genocide/DK_Book/DK_History--EN.pdf}} | *{{cite book | last = Dy | first = Khamboly | title = A History of Democratic Kampuchea (1975-1979) | publisher = Documentation Center of Cambodia | publication-place = Phnom Penh | date = 2007 | isbn = 978-99950-60-04-6 | url = https://d.dccam.org/Projects/Genocide/DK_Book/DK_History--EN.pdf}} | ||
− | |||
=== Web === | === Web === |