Mục từ này cần được bình duyệt
Khmer Đỏ
Quốc kỳ Campuchia Dân chủ với biểu tượng Angkor Wat vàng trên nền đỏ.

Khmer Đỏ là tên gọi để chỉ những người cộng sản Campuchia và sau này là chế độ Campuchia Dân chủ do Đảng Cộng sản Campuchia lãnh đạo giai đoạn 1975 đến 1979.[1] Cái tên Khmer Đỏ (gốc tiếng Pháp Khmer Rouge) khởi nguồn từ Norodom Sihanouk, người sử dụng nó lần đầu vào thập niên 1960.[1]

Ý thức hệ[sửa]

Có bốn chủ đề tương quan chi phối ý thức hệ của Khmer Đỏ: độc lập và tự lực hoàn toàn, bảo tồn nền chuyên chính vô sản, cách mạng kinh tế toàn diện và lập tức, chuyển đổi hoàn toàn các giá trị xã hội Khmer.[2] Vào năm 1975 Khmer Đỏ phát biểu mục tiêu của mình là "dẫn dắt nhân dân đi đến thắng lợi trong cuộc cách mạng dân chủ dân tộc, tiêu diệt bọn đế quốc, phong kiến, tư bản và thành lập một nhà nước cách mạng dân tộc ở Campuchia. Mục tiêu xa hơn của đảng là dẫn dắt nhân dân gây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản ở Campuchia."[3]

Nguồn gốc và bản chất ý thức hệ[sửa]

Pol Pot, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Campuchia và Thủ tướng Campuchia Dân chủ

Các học giả nhìn chung nhấn mạnh nguồn gốc Marxist của Khmer Đỏ, nhiều biểu đạt và thực hành của Khmer Đỏ trực tiếp cộng hưởng với những phong trào Marxist-Leninist khác, nhất là chủ nghĩa Mao.[4] Tuy nhiên cụ thể nó là "kiểu" chủ nghĩa Marx gì lại là điều tranh luận: Marx, Marx-Lenin, Marx-Lenin-Mao, hay Mao cực đoan?[5] Những diễn giải hàn lâm về vị trí chính trị của nó thiếu sự nhất quán,[6] có khi cho rằng nó là phong trào Marxist-Leninist "thuần túy nhất" nhưng có khi mô tả nó như một cuộc "cách mạng nông dân" chống chủ nghĩa Marx.[7] Quan điểm sau là của nhà sử học Michael Vickery, người cho rằng Khmer Đỏ không phải một chế độ cộng sản Marxist và không giống bất kỳ cuộc cách mạng cộng sản nào đã từng xảy ra trước đó ở cả châu Á hay châu Âu.[8] Kiernan thì nhận định đây không phải cách mạng vô sản dành cho giai cấp công nhân và cũng chẳng phải cách mạng nông dân có lợi cho toàn bộ đối tượng này.[7]

Khmer Đỏ không sao chép chỉ một hình mẫu triết học nào mà chọn lọc lấy các yếu tố của từng loại, từ ý tưởng của Mao, Stalin, Frantz Fanon, và Samir Amin.[9] Vào năm 1978 Pol Pot phát biểu rằng Campuchia đang "xây dựng chủ nghĩa xã hội với không một mô hình", quá trình diễn ra xuyên suốt giai đoạn cầm quyền của Khmer Đỏ.[10] Ý thức hệ chủ nghĩa Mao tỏ ra ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều đặc điểm của chế độ như việc chú trọng tầng lớp nông dân nông thôn làm lực lượng bảo vệ cách mạng hơn là vô sản đô thị, những sáng kiến kiểu Đại nhảy vọt, khát khao xóa bỏ lợi ích cá nhân trong hành vi con người, thúc đẩy lối sống và ăn uống cộng đồng, xem trọng lẽ thường hơn là kiến thức kỹ thuật hay hàn lâm; tuy nhiên Khmer Đỏ thể hiện những đặc điểm này ở mức độ cực đoan hơn.[9] Các tác phẩm của Samir Amin, một nhà kinh tế học Marxist ủng hộ Khmer Đỏ, có ảnh hưởng đến Khieu Samphan từ thời còn là sinh viên ở Paris và chứa đựng những đề tài tương tự như thấy trong chính sách của Khmer Đỏ.[11] Một nhân vật có tư tưởng mang nhiều nét chung với Khmer Đỏ khác là Frantz Fanon, triết gia sùng bạo lực cách mạng.[12] Tác giả Karl Jackson còn tìm ra mối liên hệ giữa Khmer Đỏ và Stalin ở cái cách chuyển đổi hóa nông thôn, thêm nữa là một số lãnh đạo Khmer Đỏ từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hồi thập niên 1950, đảng cộng sản đậm chất Stalin chủ nghĩa nhất ở Tây Âu.[13]

Những nỗ lực xếp đặt Khmer Đỏ vào vòng chủ nghĩa cộng sản chính thống chưa bao giờ hoàn toàn thoả đáng. "Chủ nghĩa Mao cực đoan" thường được liên hệ nhưng Mao vẫn đặt niềm tin vào sức mạnh công nghệ để thay đổi tình hình kinh tế của Trung Quốc, trong khi Khmer Đỏ thì chối bỏ mọi hình thức chuyên môn hiện đại. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Campuchia có đặc trưng nhấn mạnh đến tính ưu việt của ý chí con người, với tư tưởng thuần khiết vượt trên các yếu tố vật chất như công nghệ và nó tạo ra một thế giới quan rất phi thực, gần như huyền diệu. Một ví dụ là giới chức Khmer Đỏ tin rằng họ sẽ gây tổn thất gấp 30 lần những gì Việt Nam gây ra cho họ trong cuộc xung đột biên giới năm 1978, bất chấp ưu thế vượt trội về nhân lực và trang thiết bị của Việt Nam.[14]

Một trong những đặc điểm của Campuchia Dân chủ được thảo luận nhiều đó là việc nó hình dung sáng tạo thế giới mới "từ con số không". Điều này có thể được diễn giải là cách mạng Campuchia gắn với thuyết hư vô, nhưng luận điểm phản biện cho rằng khái niệm gốc chỉ nói đến khát vọng xây dựng đất nước từ vạch xuất phát sau sự tàn phá của thế lực đế quốc. Ước muốn đưa đất nước quay về thời điểm trước lịch sử chắc chắn có phần kỳ quặc nếu nhìn từ quan điểm Marxist chính thống xem quốc gia lý tưởng là đỉnh cao của quá trình phát triển liên tục chứ không phải quay vòng lại giai đoạn sản xuất xưa cũ nhất.[15] Phần lớn bi kịch Khmer Đỏ gây ra là hệ quả của những mục tiêu thực sự phản động: những nỗ lực vặn ngược đồng hồ.[16]

Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là Sparta cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.[17] Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp Lycurgus là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."[18]

Chủ quyền và tự lực[sửa]

Chủ nghĩa dân tộc vốn là nét nổi bật ở hầu như mọi phong trào cách mạng, thế nhưng Khmer Đỏ đã nâng vấn đề tự lực và chủ quyền dân tộc đến một tầm dị thường.[2] Chủ nghĩa dân tộc của Khmer Đỏ giống với chủ nghĩa dân tộc của Norodom Sihanouk trừ một điểm khác biệt lớn là Khmer Đỏ xác định những người Campuchia không bài Việt Nam là phản quốc, là người nước ngoài chứ không phải người Campuchia và đối xử tàn ác với nhóm này.[19] Giới lãnh đạo Khmer Đỏ lo sợ Việt Nam sẽ thực dân hóa Campuchia sau khi Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Dương và đó là lý do mà những tuyên ngôn tư tưởng hết sức nhấn mạnh đến chủ quyền và tự lực hoàn toàn. Sự sợ hãi về những ý đồ của Việt Nam khiến họ thẳng thừng từ chối "mối quan hệ đặc biệt" mà Việt Nam đề nghị vì điều đó có thể bao gồm cả quyền Việt Nam được đóng quân trên đất Campuchia cùng ảnh hưởng đáng kể, ít nhất lên chính sách đối ngoại của Campuchia.[20]

Điểm kỳ lạ ở Khmer Đỏ là họ áp dụng những nguyên tắc trừu tượng một cách giáo điều, đem thẳng lý thuyết vào thực tế bất chấp những hậu quả tai hại như cô lập ngoại giao, tàn phá kinh tế, nhân dân đau khổ.[21] Xét mức độ và phạm vi áp dụng để hướng đến tự lực và chủ quyền hoàn toàn, Khmer Đỏ là gần như độc nhất vô nhị. Ngay sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ lập tức buộc tất cả người dân rời khỏi các thành phố, phá hủy hàng tiêu dùng phương Tây, đốt sách và thư viện, chấm dứt hầu hết các mối quan hệ ngoại giao, bãi bỏ tiền tệ, thị trường, ngoại hối, cắt đứt gần như mọi giao dịch với thế giới bên ngoài.[22] Khmer Đỏ công khai từ chối viện trợ nước ngoài, không nhận bất kỳ đề nghị viện trợ nào từ các nước không cộng sản. Thiếu vắng nguồn cung lương thực và thuốc men hiện đại, nhiều người dân Campuchia đã chết trong đói khổ và bệnh tật.[23] Ngân hàng trung ương, biểu tượng của sự kết nối giữa Campuchia với hệ thống kinh tế thế giới, bị đánh sập bằng chất nổ và giấy bạc được để tung bay trên những con phố không người của thủ đô. Nhà thờ chính tòa Phnom Penh bị tháo dỡ từng viên đá một cho đến khi không còn bất kỳ dấu tích của dinh thự tôn giáo Tây phương nổi bật nhất ở quốc gia.[24]

Giai cấp xã hội[sửa]

Khi Khmer Đỏ huy động lực lượng để lật đổ chính quyền Lon Nol họ chia xã hội Campuchia thành năm giai cấp phân biệt: công nhân, nông dân, tư sản, tư bản, và phong kiến.[25] Họ tập trung công kích "chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến" và tìm cách lôi kéo mọi thành phần xã hội khác. Tuy nhiên sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ chỉ còn coi trọng công nhân, nông dân tập thể, quan chức chính quyền, và quân cách mạng.[26] Thay vì tạm thời sử dụng những con người hiện có để vận hành nhà nước, Khmer Đỏ lập tức loại bỏ toàn bộ và xây dựng một bộ máy phi tập trung, phi quan liêu, Mao chủ nghĩa cấp tiến do đảng và quân đội kiểm soát để phục vụ đối tượng có vị thế thấp kém nhất trong xã hội cũ là nông dân nghèo. Khmer Đỏ cấp tốc săn lùng và trừ khử toàn bộ sĩ quan và nhiều quân nhân trong quân đội của Lon Nol, quan chức chế độ cũ, hoàng thân (trừ Sihanouk), địa chủ, doanh nhân, lao động có tay nghề, chuyên gia có học vấn, người Chăm, tu sĩ Phật giáo.[27]

Tổng quan, người dân Campuchia Dân chủ được phân thành ba hạng: người có đủ quyền (penh sith), ứng viên đạt đủ quyền (triem), và người không có quyền (bannheu).[28] Gần như mọi penh sith đều tham gia cách mạng từ sớm và đến từ bộ phận dân quê nghèo cũng như ít học nhất, được phép nhận đủ lương thực và gia nhập mọi tổ chức như đảng hay quân đội. Triem cũng chủ yếu đến từ nông thôn, được nhận khẩu phần ít hơn và nắm giữ chức sắc nhỏ. Hạng thấp nhất, bannheu, không có quyền gì kể cả nhận lương thực; bao gồm cựu địa chủ, sĩ quan, quan chức, giáo viên, thương nhân, cư dân thành thị.[29] Hầu hết đối tượng mà Khmer đỏ nhắm đến tiêu diệt là thuộc nhóm này.[28] Nhóm được hưởng đầy đủ đặc quyền chỉ chiếm chưa đến 15% tổng dân số.[29] Còn một kiểu phân chia xã hội khác thành "người mới" (neak thmey) là cư dân thành thị bị trục xuất và "người cũ" (neak chas) là nông dân ở miền quê.[30] Trong khi người mới thường là nạn nhân bị bức hại thì tình cảnh của người cũ lại nhập nhằng, có khi họ được đối xử tốt hơn nhưng cũng có khi là tương tự.[31]

Khmer Đỏ bêu riếu sự bất bình đẳng và đồi trụy của chốn đô thị thời chế độ cũ. Với khát khao xóa bỏ vĩnh viễn sự bất bình đẳng, họ trừ khử những cá nhân trước kia có địa vị vừa và cao chiếu theo của cải, học vấn, nghề nghiệp, hay dòng dõi. Đuổi hết cư dân khỏi các thành phố, sát hại bannheu, bãi bỏ tiền tệ và thị trường, triệt để với học thuyết đấu tranh giai cấp vĩnh viễn giữa penh sithbannheu là biện pháp mà giới lãnh đạo Khmer Đỏ cho rằng sẽ nhanh chóng mang lại một xã hội quân bình.[32]

Gia đình[sửa]

Khmer Đỏ thi hành các chính sách nhằm đập tan kết cấu gia đình truyền thống và thay thế nó bằng Angkar.[↓ 1] Theo Khmer Đỏ, tình yêu thương dành cho gia đình là không cần thiết bởi Angkar mới là gia đình thật sự của mỗi người. Vì thế ngay cả gia đình hạt nhân cũng không thể tồn tại khi mà Khmer Đỏ bắt đầu chia rẽ các thành viên và tấn công các tổ chức văn hoá, tôn giáo, vật chất ủng hộ gia đình. Bằng cách này, Khmer Đỏ mong muốn tâm sức của một người sẽ không bị cướp mất ít nhiều bởi gia đình mà dành hết cho Angkar. Các thành viên gia đình bị sát hại hoặc cưỡng bức lao động, sống và sinh hoạt tách biệt để cho mọi liên kết giữa họ bị cắt đứt.[34]

Khác với truyền thống sắp đặt, hôn nhân thời Khmer Đỏ là cưỡng ép giữa những người không quen biết. Việc cưới xin diễn ra công khai và vội vã bao gồm nhiều cặp đôi thay vì là chuyện gia đình riêng tư. Những người thân thường không được tham dự và hôn lễ được mô tả là nghĩa vụ giống như làm nông hay đi lính. Sau kết hôn, các cặp đôi không được khuyến khích tạo lập quan hệ vì chế độ muốn xoá mờ tình cảm giữa họ. Mục đích kết hôn thường chỉ là sinh đẻ, hầu hết cặp đôi đều sớm bị chia ly và hiếm khi gặp lại nhau sau này. Sự khác biệt giữa hôn nhân thời Khmer Đỏ và trước đó là rất sâu sắc và chính sách này nhằm tiêu huỷ bản sắc gia đình người Campuchia.[35]

Khi thấy quan hệ gia đình của người dân vẫn còn gắn kết, Khmer Đỏ đã tìm cách mới để áp chế đối thủ gia đình của họ. Họ truyền bá tư tưởng cho trẻ em, đối tượng dễ uốn nắn và dễ bị tác động. Trẻ em được dạy rằng không phải cha mẹ mà là Angkar mang lại cho chúng những điều tốt đẹp. Chúng cần phải nhận Angkar làm cha mẹ, ghét cha mẹ sinh ra mình và được khuyên theo dõi họ. Hành động này thúc đẩy sự chia rẽ giữa con cái và cha mẹ vì đó như xem cha mẹ là tội phạm hay kẻ thù. Khmer Đỏ trao cho trẻ em vị thế đứng trên cha mẹ mình, khích lệ chúng ngược đãi họ và đón nhận lòng thành của chúng. Ước muốn của Khmer Đỏ là thủ tiêu mọi mối quan hệ và biến Angkar trở thành gia đình mới mà tất cả mọi người phải dâng hiến cuộc đời cho nó.[36]

Cuộc cách mạng nhắm đến tạo ra một gia đình mới mà chỉ chia sẻ thành quả lao động hợp tác của họ, chỉ bày tỏ tình cảm với chế độ và chỉ quan tâm đến phúc lợi của quốc gia. Tuy nhiên, Khmer Đỏ không thể phá vỡ những liên kết gia đình có truyền thống hàng thế kỷ. Người dân Campuchia vẫn trung thành với ý niệm gia đình, học cách thích nghi với các chính sách đe doạ ý niệm này, đấu tranh để bảo vệ và bảo tồn kết cấu gia đình bất chấp rủi ro bị trừng phạt hoặc sát hại. Trong công cuộc xoá bỏ mọi tình cảm và quan hệ giữa các cá nhân, Khmer Đỏ không thể thay thế những liên kết cảm xúc gia đình mãnh liệt. Chế độ ao ước tạo ra một gia đình mới và tự cho mình là phụ mẫu của nhân dân, nhưng không hoàn thành được bổn phận của vai trò này. Cả về mặt tự nhiên lẫn cảm xúc, Khmer Đỏ thất bại với trách nhiệm họ đảm đương.[37]

Tôn giáo[sửa]

Thái độ thù địch tôn giáo của Khmer Đỏ, là cực kỳ ác liệt.[38] Khmer Đỏ bài trừ mọi tôn giáo từ đạo Phật là đức tin của hơn 90% dân số đến những nhóm tôn giáo thiểu số như đạo Hồi hay đạo Cơ Đốc.[39] Từ lập trường ý thức hệ, Khmer Đỏ muốn xoá sạch mọi vết tích của những thứ mà họ cho là tư duy hay tập tục lỗi thời. Hiến pháp của chế độ bề ngoài thì đảm bảo cho tự do tôn giáo nhưng lại cấm những tôn giáo phản động hay phản cách mạng. Thực tế thì chính quyền gán cho mọi tôn giáo là phản động và tìm cách thải loại đối tượng này ra khỏi xã hội. Thêm một lý do là tư tưởng bài ngoại độc hại, Khmer Đỏ liên kết các cộng đồng tôn giáo với ảnh hưởng ngoại bang.[38]

Phật giáo[sửa]

Đạo Phật du nhập Campuchia vào thế kỷ 5 và là tôn giáo quốc gia chính thức ở đây từ thế kỷ 13. Mặc cho điều này, chế độ mới vẫn xem đạo Phật là ảnh hưởng ngoại bang đã lan truyền từ nơi khác đến quê hương Khmer.[40] Chính quyền Pol Pot cáo buộc nhiều nhà sư là gián điệp của các cường quốc bên ngoài, cụ thể như là mật vụ CIA.[41] Diệt trừ Phật giáo cũng là việc cần làm để thiết lập trật tự mới mà Pol Pot và phe phái kiếm tìm. Ví dụ, một trật tự xã hội thứ bậc là yếu tố được xã hội Khmer truyền thống và Phật giáo chấp thuận. Các khái niệm công đức và nghiệp chướng của Phật giáo ngụ chỉ vị thế xã hội phản ánh kết quả những hành động quá khứ của một người. Vì vậy, sự khác biệt tôn ti giữa con người là hợp thức, và điều này xâm phạm học thuyết cộng sản.[40]

Trong hàng thế kỷ, những ngôi chùa Phật là trung tâm của đời sống thôn quê, là nguồn tri thức, địa điểm gìn giữ và truyền bá văn hoá Campuchia. Chính sách của Khmer Đỏ đối với Phật giáo đã dẫn đến những cuộc tấn công hết sức tàn bạo và triệt căn. Khi đã giành chính quyền, Khmer Đỏ bắt đầu tiêu huỷ và báng bổ sách, tượng, thánh vật và thánh tích của Phật đạo. Các hoạt động thờ cúng, cầu nguyện, thiền định, lễ hội, đều bị cấm; tương tự là Pali, ngôn ngữ kinh Phật Khmer. Các lãnh đạo Phật giáo, nhà sư, hay những người không chịu cởi bỏ áo tràng màu nghệ bị hành hình.[42] Tất cả đền chùa và tu viện được lệnh đóng cửa, một nửa cuối cùng bị phá huỷ và hầu hết số còn lại bị xâm phạm. Khmer Đỏ xem nhiều thành phần của xã hội Campuchia là kẻ thù, nhưng tu sĩ Phật giáo và tăng lữ các tôn giáo khác bị lăng mạ nặng nề. Khmer Đỏ hay có luận điệu rằng sư sãi là "lũ đỉa" hoặc "sâu" bòn rút của cải nhiều hơn là tạo ra. Những người không thể chạy trốn trở thành nạn nhân của hành vi ngược đãi có hệ thống và tàn bạo trên quy mô chưa từng có. Nhiều sư trẻ bị ép kết hôn hoặc nhập ngũ. Gần như tất cả bị ép hoàn tục và lao động tay chân vất vả bất kể tuổi tác hay sức lực của họ, cùng với đó là nhiều trường hợp bị tra tấn và hành quyết.[43]

Quy mô sau cùng của sự áp bức nhằm vào Phật giáo Campuchia là đáng kinh ngạc và nó cho thấy một trong những chiến dịch bài trừ tôn giáo tàn khốc nhất thời hiện đại. Sau khi Khmer Đỏ bị lật đổ, chỉ còn chưa đến 100 nhà sư Khmer ở Campuchia khi gần như tất cả đã bỏ mạng hoặc rời đi. Chỉ 70 trên 2.680 sư thuộc 8 tu viện lớn nhất Campuchia sống sót qua thời Khmer Đỏ.[43] Một nghiên cứu do chính quyền Campuchia tiến hành năm 1989 khẳng định chế độ Pol Pot đã sát hại 25.000 nhà sư,[43] tuy nhiên có tác giả tính toán con số này chỉ là một nửa (12.500).[44] Đến cuối năm 1979, gần một năm sau khi Khmer Đỏ bị đánh đuổi, số lượng nhà sư ở Campuchia là dưới 1.000,[43] so với khoảng 60.000 trước năm 1975.[42]

Cơ đốc giáo[sửa]

Cơ đốc giáo xuất hiện ở Campuchia khi các nhà truyền giáo đầu tiên đến đây vào thế kỷ 16. Cơ đốc giáo hay đặc biệt là Công giáo có liên hệ mật thiết với Pháp, thế lực thực dân cũ từng chỉ miễn cưỡng từ bỏ quyền kiểm soát vào năm 1953. Thái độ bài ngoại đối với Cơ đốc nhân còn thêm tăng bởi thực tế nhiều tín đồ của đạo này không phải người Khmer. Hành động đàn áp Cơ đốc giáo ở Campuchia dù không mới nhưng dưới thời Khmer Đỏ, phạm vi và nỗ lực nhằm tẩy sạch sự tồn tại của nó khỏi không gian văn hoá Campuchia là chưa từng thấy.[43]

Khmer Đỏ lên nắm quyền đã lập tức đóng cửa các nhà thờ và hầu hết số này cuối cùng bị phá huỷ. Các tập tục như thánh lễ bị cấm còn các tài liệu tôn giáo như kinh thánh bị tịch thu và đốt bỏ. Nhiều linh mục bị xử tử, trong đó có Joseph Chamar Salas, giám mục người Khmer đầu tiên của Campuchia. Một nghiên cứu năm 1995 chỉ ra cộng đồng Công giáo Campuchia có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các nhóm nạn nhân của cuộc diệt chủng tiến hành bởi Khmer Đỏ, khoảng 50%. Một nguyên nhân được nêu đó là người Công giáo phần đông là người thành thị và người Việt Nam, đối tượng thuộc số mà Khmer Đỏ căm thù nhất.[45]

Cơ đốc giáo ở Campuchia ngày nay chỉ có nguồn gốc từ đầu thập niên 1990 bởi Khmer Đỏ gần như đã xoá sạch mọi vết tích quá khứ và cắt đứt liên kết với lịch sử của nó.[46]

Hồi giáo[sửa]

Gần như tất cả người Hồi giáo ở Campuchia là người sắc tộc Chăm bắt đầu di cư đến đây từ thế kỷ 15. Mặc cho sự hiện diện hàng thế kỷ, Khmer Đỏ vẫn nghi ngờ họ và xem Hồi giáo là ảnh hưởng bên ngoài chống chủ nghĩa xã hội. Cộng đồng này trở thành mục tiêu tấn công bởi hai lý do sắc tộc và tôn giáo.[47]

Khmer Đỏ lên nắm quyền đã lập tức triển khai bức hại người Chăm Hồi giáo. Khmer Đỏ nhằm vào những truyền thống tôn giáo đặc thù, bao gồm hạn chế hoạt động như cầu nguyện, ép xâm phạm các quy tắc Hồi giáo như bắt mặc trang phục kiểu pajama đen, nuôi lợn hay ăn thịt lợn. Những người không tuân theo bị hành quyết. Khmer Đỏ tích cực tiến hành thanh lọc sắc tộc, buộc người Chăm kết hôn với người Khmer cộng với hành vi cưỡng hiếp hàng loạt nhằm làm loãng huyết thống và làm yếu bản sắc cùng sự tôn thờ văn hoá. Cộng đồng người Chăm phải đóng cửa các trường học Hồi giáo, đi thu thập và đốt các bản kinh Koran. Sự áp bức dẫn đến các cuộc nổi dậy tuy nhiên nhanh chóng bị Khmer Đỏ dập tắt tàn bạo. Các ngôi làng bị san phẳng còn người dân bị thảm sát đồng loạt. Hơn 100 ngôi làng của người Chăm bị xoá sổ và số người chết ước tính trong khoảng 100.000–200.000. Tỷ lệ tử vong của người Chăm Hồi giáo trong cuộc diệt chủng Khmer Đỏ là khoảng 34 đến hơn 50%, so với 18–19% của người Khmer và 21–25% của toàn thể dân số Campuchia.[48]

Lịch sử[sửa]

Sự trỗi dậy của Khmer Đỏ không thể lý giải bằng việc chỉ đề cập đến các yếu tố bên trong và bên ngoài, hay nhân chủng và lịch sử đơn thuần mà không xét đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Kết luận khả dĩ nhất là sự lan rộng của chiến tranh Việt Nam đã làm gia tăng căng thẳng tiềm ẩn trong xã hội Campuchia và điều này mang đến thời cơ cho Khmer Đỏ. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng Khmer Đỏ có thể được xem là chủ yếu bên trong về nguồn gốc, kết hợp với một số ảnh hưởng ý thức hệ bên ngoài. Tuy nhiên, sự thăng tiến của nó chủ yếu do các yếu tố bên ngoài tác động.[49]

Lịch sử phong trào cộng sản ở Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:[50]

  1. Sự nổi lên của Đảng Cộng sản Đông Dương trước Thế chiến II mà thành viên hầu như chỉ có người Việt Nam.
  2. Mười năm đấu tranh giành độc lập từ Pháp, khi đó một đảng cộng sản riêng của người Campuchia là Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (KPRP) được thành lập dưới sự bảo trợ của Việt Nam.
  3. Giai đoạn sau Đại hội lần Hai của KPRP vào năm 1960, khi Saloth Sar (Pol Pot sau này) và các lãnh đạo Khmer Đỏ tương lai giành quyền kiểm soát bộ máy.
  4. Đấu tranh cách mạng từ cuộc nổi dậy ban đầu năm 1967–68 đến sự sụp đổ của chính quyền Lon Nol vào tháng 4 năm 1975.
  5. Chế độ Campuchia Dân chủ từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 1 năm 1979.
  6. Giai đoạn sau Đại hội lần Ba của KPRP vào tháng 1 năm 1979, khi Việt Nam đã tiếp quản hiệu quả đảng cộng sản và chính quyền Campuchia.

Phần lớn lịch sử phong trào nằm trong lớp màn bí ẩn, chủ yếu bởi những cuộc thanh trừng liên tiếp, nhất là vào thời kỳ Campuchia Dân chủ, khiến không có nhiều nhân chứng sống sót để thuật lại. Tuy nhiên một điều rõ ràng là căng thẳng giữa người Việt và người Khmer là một chủ đề chính trong tiến trình của nó. Trong 30 năm kể từ lúc Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc đến khi Khmer Đỏ giành thắng lợi (1945–75), sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản đã dần bị lu mờ bởi nỗi sợ hãi rằng người Việt với phong trào mạnh mẽ hơn nhiều đang lấy chủ nghĩa cộng sản làm lý lẽ hệ tư tưởng để tiến tới thống trị người Khmer. Quan điểm Việt Nam cộng sản tương đồng với nhà Nguyễn, triều đại từng mượn cớ "khai hoá Nho giáo" để lấn chiếm lãnh thổ vào thế kỷ 19, được hưởng ứng. Vì vậy, một nhánh chủ nghĩa cộng sản bản xứ mới đã ra đời sau năm 1960 bổ sung khai thác tư tưởng thù địch Việt Nam độc hại của người Khmer. Tài liệu Khmer Đỏ thập niên 1970 thường gọi người Việt là yuon (man rợ), một thuật ngữ có từ thời Angkor.[51]

Sự tương tác giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế bên trong phong trào cộng sản Campuchia gây phiền nhiễu xuyên suốt lịch sử đảng. Việc phủ nhận bất kỳ thành phần quốc tế hay xã hội chủ nghĩa có thể là biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi: đề cao sự vĩ đại của quốc gia, nhắc lại thời Angkor huy hoàng, và phân biệt chủng tộc người Việt. Cả Sihanouk, Lon Nol, và Pol Pot đều từng ít nhiều chọn theo hướng đi này.[52]

Thời kỳ đầu[sửa]

Vào đầu năm 1930 Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng việc hợp nhất các tổ chức cộng sản và tên gọi sớm được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương.[53] Các đảng viên ban đầu hầu như toàn là người Việt Nam và phải đến cuối Chiến tranh thế giới thứ Hai mới có một số ít người Campuchia gia nhập nhưng họ không có ảnh hưởng gì đáng kể trong và ngoài Campuchia.[54]

Sang những năm 1945–47, Việt Minh và chính quyền Thái Lan có chung lý tưởng hỗ trợ những phong trào chống Pháp ở Đông Dương, trong đó có Khmer Issarak hoạt động ở biên giới Thái Lan. Nhóm này về sau chia làm hai phe tả và hữu; những nhân vật phe tả tiêu biểu là Sơn Ngọc Minh (Achar Mean), Sieu Heng, và Tou Samouth. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1950, Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Khmer Issarak được tổ chức, qua đó sáng lập Mặt trận Issarak Thống nhất (UIF) với thủ lĩnh là Sơn Ngọc Minh. Các đảng viên người Campuchia của Đảng Cộng sản Đông Dương nắm quyền thế trong UIF.[55] Đến năm 1951 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải thể và tách ra thành các đảng cộng sản riêng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.[56] Ở Campuchia đó là Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia (KPRP) khi ấy có khoảng 1.000 đảng viên.[57]

Trong năm 1952, cơ quan tình báo Pháp ước tính lực lượng Issarak có quân số khoảng 5.000 nhưng khả năng thực tế là đông hơn.[57] Các nhóm du kích cộng sản phối hợp cùng Việt Minh đã chiếm cứ một phần sáu lãnh thổ Campuchia và bắt giữ hàng ngàn lính Pháp. Hai năm sau tại thời điểm Hội nghị Geneva (1954), lực lượng cộng sản có thể đã kiểm soát hơn một nửa vương quốc.[58] Trước đó vào tháng 11 năm 1953, Pháp đã bàn giao hầu hết quyền lực chính phủ (không quân sự) cho Sihanouk và đến tháng 7 năm 1954 họ chấp nhận rút quân khỏi Lào, Campuchia, và Việt Nam.[59] Khi ấy, số lượng đảng viên KPRP ước tính là 2.000 và khoảng một nửa số này đã sang Bắc Việt Nam lưu vong sau Hiệp định Geneva, bao gồm Sơn Ngọc Minh.[60] Theo diễn giải lịch sử đảng của Campuchia Dân chủ, việc Việt Minh không thể đàm phán một vai trò chính trị cho KPRP tại Hội nghị Geneva giống như một sự phản bội phong trào của Campuchia.[61] Dưới sức ép từ chế độ Sihanouk và đồng minh phương Tây, Việt Nam thậm chí không thể để những người cộng sản Campuchia tham gia đàm phán.[62] Các sự kiện năm 1954 đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ giữa người Việt và Khmer cộng sản. Sự cộng tác thân thiết giai đoạn 1949–53 chấm dứt còn KPRP chuyển sang hoạt động bí mật và không còn được Hà Nội để tâm trong nhiều năm.[63]

Vào thời kỳ chống thực dân, phong trào cộng sản Campuchia bám rễ ở những vùng nông thôn. KPRP chú trọng đấu tranh vì độc lập, không đề cập đến chủ nghĩa Marx-Lenin hay bất kỳ chương trình cải cách ruộng đất hay chống phong kiến. Giới lãnh đạo đảng năm 1954 đa phần vẫn là người miền quê, học theo đạo Phật, ôn hoà và thân Việt Nam. Nó khác xa nhóm người gốc thành thị, học ở nước ngoài, có quan điểm cực đoan và khuynh hướng bài Việt Nam mà sẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia đi đến thắng lợi vào năm 1975.[64]

Nhóm sinh viên Paris[sửa]

Vào thập niên 1950, những sinh viên Khmer ở Paris đã tổ chức phong trào cộng sản riêng mà hầu như không có liên hệ gì với đảng ở quê hương họ. Từ đây có những người mà sau này đã trở về Campuchia giành quyền chỉ huy bộ máy đảng, dẫn dắt cuộc nổi dậy chống Sihanouk và Lon Nol, rồi lập nên chế độ Campuchia Dân chủ. Tiêu biểu trong số đó là Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan, Hou Youn, Son Sen, Hu Nim. Họ có thể là những lãnh đạo học thức nhất trong lịch sử chủ nghĩa cộng sản châu Á. Khieu Samphan và Hou Youn đã giành học vị tiến sĩ tại Đại học Paris, Hunim thì nhận bằng cấp từ Đại học Phnom Penh vào năm 1965. Nhìn lại thì có vẻ kỳ bí khi mà những con người ưu tú tài năng được cử sang Pháp theo học bổng của chính phủ lại có thể phát động cuộc cách mạng quyết liệt và đẫm máu nhất trong lịch sử châu Á hiện đại.[65]

Pol Pot và Ieng Sary gia nhập Đảng Cộng sản Pháp đâu đó trong khoảng 1949–51, đảng có tính nghiêm ngặt và Stalinist nhất ở Tây Âu. Sau buổi tham dự một liên hoan thanh niên ở Đông Berlin năm 1951 và gặp những người Khmer từng chiến đấu cùng Việt Minh, tư tưởng của họ thay đổi bước ngoặt rằng chỉ có một tổ chức đảng kỷ luật chặt chẽ cùng sự sẵn sàng cho đấu tranh vũ trang thì cách mạng mới hoàn thành. Họ chuyển đổi Hiệp hội Sinh viên Khmer (AEK) thành một nền tảng cho những lý tưởng dân tộc và tả khuynh, vận động đòi độc lập toàn diện và lập tức cho Campuchia. Vào năm 1952 Pol Pot, Hou Yuon, Ieng Sary thu nhận tiếng tăm qua việc gửi một thư ngỏ đến Sihanouk và gọi ông ta là "kẻ bóp nghẹt nền dân chủ non trẻ". Một năm sau nhà chức trách Pháp giải tán AEK vì thái độ chống thực dân. Tuy nhiên đến năm 1956 Hou Yuon và Khieu Samphan hỗ trợ sáng lập một nhóm thiên hướng Marxist mới là Liên minh Sinh viên Khmer (UEK).[66]

Những luận án tiến sĩ viết bởi Hou Youn và Khieu Samphan biểu hiện những đề tài căn bản mà sau này trở thành nền tảng chính sách của Campuchia Dân chủ. Hou Youn trong luận án năm 1955 trình bày rằng tá điền phải đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển quốc gia, thách thức quan điểm thông thường rằng đô thị hoácông nghiệp hoá là tiền đề của sự phát triển.[67] Còn Khieu Samphan trong luận án năm 1959 nêu luận điểm chính là Campuchia phải trở nên tự lực và chấm dứt sự lệ thuộc kinh tế chỉ bằng cách tự thoát ra khỏi hệ thống kinh tế thế giới và mở rộng sản xuất nông nghiệp để cung cấp nền tảng cho công nghiệp hoá.[68] Theo phân tích của ông thì hơn 80% dân số đô thị không làm ra gì và họ cần được đưa đến những khu vực sản xuất, đặc biệt là nông nghiệp, trong hình thức hợp tác xã.[69] Tổng quan thì tác phẩm của Khieu Samphan phản ánh sức ảnh hưởng từ một nhánh trường phái thuyết lệ thuộc đổ lỗi cho các nước công nghiệp hoá là thủ phạm khiến Thế giới thứ Ba chậm phát triển.[70]

Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia lần hai[sửa]

Sau khi hoàn thành khoá học, những sinh viên Khmer trở về Phnom Penh. Trong họ lúc này tồn tại hai luồng quan điểm đã trở nên rõ rệt: một là cứng rắn với đại diện gồm Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen; hai là mềm mỏng với đại diện gồm Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim. Những người theo chủ trương cứng rắn cho rằng Sihanouk là kẻ thù chính của dân tộc Khmer đang ngăn không cho một cuộc cách mạng thực sự diễn ra và do đó phải bị hạ bệ bởi đấu tranh vũ trang. Những người mềm mỏng thì muốn hợp tác với Sihanouk vì ông ta chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ; họ dự tính hành động trong lòng hệ thống chính trị hiện tại, giành lấy các chức vụ hàng đầu, rồi phát động cách mạng từ bên trên.[71]

Cuối tháng 9 năm 1960, các lãnh đạo KPRP tổ chức một hội nghị bí mật trong một căn phòng trống ở nhà ga Phnom Penh. Trong cuộc họp, vấn đề hợp tác hay phản kháng Sihanouk được thảo luận kỹ lưỡng. Kết quả là đảng được đổi tên thành Đảng Lao động Campuchia (WPK) nhằm khẳng định vị thế ngang hàng với Đảng Lao động Việt Nam và một uỷ ban trung ương mới được thành lập. Tou Samouth, người ủng hộ chính sách hợp tác, được bầu làm tổng bí thư, Nuon Chea làm phó bí thư, Pol Pot và Ieng Sary lần lượt nắm chức vụ cao thứ ba và năm. Các uỷ viên trung ương còn lại là Mar Mang, Keo Meas, Sơn Ngọc Minh (vắng mặt, ở Hà Nội), và So Phim.[72]

Tháng 7 năm 1962, Tou Samouth bị cảnh sát của Sihanouk ám sát nhưng đây cũng có thể là chủ ý của Pol Pot.[73] Đại hội đảng lần ba diễn ra vào tháng 2 năm 1963 đã chọn Pol Pot làm tổng bí thư kế nhiệm Tou Samouth.[74] Uỷ ban thường vụ lúc này gồm năm người là Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary, So Phim và Vorn Vet; trong đó chỉ có So Phim là xuất thân nông thôn.[75]

Kinh tế[sửa]

Chính sách kinh tế của Khmer Đỏ là dẹp bỏ hệ thống tư bản, thực hành lao động cưỡng bức và chú trọng phát triển nhanh chóng nông nghiệp.[76] Chiến lược phát triển kinh tế là xây dựng một nền tảng nông nghiệp mạnh mẽ được hỗ trợ bởi những ngành thủ công và công nghiệp nhỏ địa phương.[77] Chính quyền tiến hành tập thể hóa nông nghiệp toàn diện và lập tức, quốc hữu hóa mọi bộ phận của nền kinh tế, và thông qua đường lối tự lực.[78] Tất cả tài sản là sở hữu nhà nước, sở hữu cá nhân bị cấm tuyệt đối, thị trường và tiền tệ bị bãi bỏ.[79] Campuchia thời Khmer Đỏ là quốc gia duy nhất từng xóa bỏ tiền tệ,[80] thứ bị cho là "công cụ độc hại nhất" vì "nó cám dỗ chúng ta quay về với tư hữu."[81] Chế độ cũng cấm mọi giao thương quốc tế, chỉ trừ giao thương rất hạn chế với một số nước cộng sản đồng minh.[82]

Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.[83] Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,[81] thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."[84] Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.[83] Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.[85] Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.[86] Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.[87]

Vào tháng 12 năm 1977, Phó Thủ tướng Ieng Sary diễn giải: "Chúng tôi muốn tạo ra thứ gì đó chưa từng có trong lịch sử. Không có hình mẫu nào cho thứ mà chúng tôi đang xây dựng. Chúng tôi không bắt chước mô hình của Việt Nam hay Trung Quốc." Cái thứ chưa từng có trong lịch sử là xoá bỏ hoàn toàn tiền tệ và bất kỳ hành vi sử dụng đất cho sản xuất tư nhân trong một xã hội phi giai cấp "hoà hợp hoàn hảo".[69]

Tham khảo[sửa]

  1. Angkar là từ tiếng Khmer có nghĩa tổ chức, dùng để chỉ chế độ Khmer Đỏ.[33]

Trích dẫn[sửa]

  1. a b Dy 2007, tr. 1; Ross 1990, tr. 316.
  2. a b Jackson 1989, tr. 39.
  3. Slocomb 2006, tr. 385.
  4. Tyner 2017, tr. 1.
  5. Tyner 2017, tr. 2.
  6. Kiernan 2008, tr. 25.
  7. a b Kiernan 2008, tr. 26.
  8. O'kane 1993, tr. 735.
  9. a b Jackson 1989, tr. 244.
  10. Chandler 2008, tr. 256.
  11. Jackson 1989, tr. 245–246.
  12. Jackson 1989, tr. 246.
  13. Jackson 1989, tr. 249.
  14. Harris 2012, tr. 52.
  15. Harris 2012, tr. 62.
  16. Kiernan 2008, tr. 27.
  17. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192, 195.
  18. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192.
  19. Kiernan 2001, tr. 192.
  20. Jackson 1989, tr. 41.
  21. Jackson 1989, tr. 44.
  22. Jackson 1989, tr. 45.
  23. Jackson 1989, tr. 48.
  24. Jackson 1989, tr. 49.
  25. Jackson 1989, tr. 50; Ross 1990, tr. 51–52.
  26. Jackson 1989, tr. 50.
  27. Jackson 1989, tr. 51.
  28. a b Jackson 1989, tr. 52; Duffy 1994, tr. 86.
  29. a b Jackson 1989, tr. 52.
  30. Kiernan 2008, tr. 164; Ross 1990, tr. 52.
  31. Ross 1990, tr. 53–54.
  32. Jackson 1989, tr. 55.
  33. Mam 1999, tr. 1.
  34. Mam 1999, tr. 24.
  35. Mam 1999, tr. 18–19.
  36. Mam 1999, tr. 21–24.
  37. Mam 1999, tr. 25.
  38. a b Brown & Smith 2021, tr. 196.
  39. Brown & Smith 2021, tr. 195.
  40. a b Brown & Smith 2021, tr. 197.
  41. Harris 2012, tr. 122.
  42. a b Jackson 1989, tr. 212.
  43. a b c d e Brown & Smith 2021, tr. 198.
  44. Harris 2012, tr. 137.
  45. Brown & Smith 2021, tr. 198–199.
  46. Brandner 2020, tr. 3.
  47. Brown & Smith 2021, tr. 200.
  48. Brown & Smith 2021, tr. 200–201.
  49. Edwards 2004, tr. 65.
  50. Ross 1990, tr. 35.
  51. Ross 1990, tr. 35–36.
  52. Chandler 2008, tr. 223.
  53. Nguyễn Trọng Phúc 2019, tr. 26, 33.
  54. Ross 1990, tr. 36.
  55. Chandler 2008, tr. 221; Ross 1990, tr. 36.
  56. Nguyễn Trọng Phúc 2019, tr. 78.
  57. a b Chandler 2008, tr. 222.
  58. Chandler 2008, tr. 221.
  59. Kiernan 2017, tr. 129.
  60. Chandler 2008, tr. 222; Ross 1990, tr. 37.
  61. Ross 1990, tr. 36–37.
  62. Mosyakov 2004, tr. 2.
  63. Mosyakov 2004, tr. 2–3.
  64. Kiernan 2017, tr. 127.
  65. Ross 1990, tr. 38–39.
  66. Ross 1990, tr. 39; Ponchaud 1978, tr. 154.
  67. Ross 1990, tr. 39.
  68. Ross 1990, tr. 39–40; O'kane 1993, tr. 738.
  69. a b O'kane 1993, tr. 738.
  70. Ross 1990, tr. 40.
  71. Ponchaud 1978, tr. 158.
  72. Ross 1990, tr. 40; Kiernan 2017, tr. 132–133.
  73. Kiernan 2017, tr. 135; Chandler 2008, tr. 241; Ross 1990, tr. 41.
  74. Ross 1990, tr. 41; Kiernan 2017, tr. 135.
  75. Kiernan 2017, tr. 135–136.
  76. Chhair & Ung 2013, tr. 5.
  77. Ross 1990, tr. 151.
  78. Chhair & Ung 2013, tr. 5; Ross 1990, tr. 151.
  79. Chhair & Ung 2013; Prasso 2001, tr. 1.
  80. Prasso 2001, tr. 1.
  81. a b Tyner 2020, tr. 149.
  82. Chhair & Ung 2013, tr. 6.
  83. a b Tyner 2017, tr. 110.
  84. Jackson 1989, tr. 48; Ross 1990, tr. 154.
  85. Tyner 2017, tr. 107; Chandler 2008, tr. 262.
  86. Chandler 2008, tr. 263.
  87. Chandler 2008, tr. 264.

Tạp chí[sửa]

  • Slocomb, Margaret (ngày 30 tháng 8 năm 2006), "The Nature and Role of Ideology in the Modern Cambodian State", Journal of Southeast Asian Studies, 37 (3): 375–395, doi:10.1017/S0022463406000695, JSTOR 20071782, S2CID 144936898
  • Kiernan, Ben (tháng 6 năm 2001), "Myth, nationalism and genocide", Journal of Genocide Research, 3 (2): 187–206, doi:10.1080/14623520120062402, S2CID 9606008
  • O'kane, Rosemary H T (tháng 1 năm 1993), "Cambodia in the zero years: Rudimentary totalitarianism", Third World Quarterly, 14 (4): 735–748, doi:10.1080/01436599308420354, JSTOR 3992949, S2CID 154490829
  • Tyner, James A. (tháng 5 năm 2020), ""Currency is a Most Poisonous Tool": State Capitalism, Nonmarket Socialism, and the Elimination of Money during the Cambodian Genocide", Genocide Studies and Prevention, 14 (1): 143–158, doi:10.5038/1911-9933.14.1.1710, S2CID 218948256
  • Duffy, Terence (tháng 2 năm 1994), "Toward a Culture of Human Rights in Cambodia", Human Rights Quarterly, 16 (1): 82–104, doi:10.2307/762412, JSTOR 762412, S2CID 147500625
  • Clayton, Thomas (1998), "Building the New Cambodia: Educational Destruction and Construction under the Khmer Rouge, 1975-1979", History of Education Quarterly, 38 (1): 1–16, doi:10.2307/369662, JSTOR 369662, S2CID 144621604
  • Brandner, Tobias (ngày 1 tháng 7 năm 2020), "Emerging Christianity in Cambodia: People Movement to Christ or Playground for Global Christianity?", International Bulletin of Mission Research, 44 (3): 279–289, doi:10.1177/2396939319879556, S2CID 211648968
  • Edwards, Matthew (ngày 1 tháng 3 năm 2004), "The rise of the Khmer Rouge in Cambodia: internal or external origins?", Asian Affairs, 35 (1): 56–67, doi:10.1080/0306837042000184266, S2CID 159796058

Sách[sửa]

Web[sửa]