Sửa đổi Khmer Đỏ
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 14: | Dòng 14: | ||
Những nỗ lực xếp đặt Khmer Đỏ vào vòng chủ nghĩa cộng sản chính thống chưa bao giờ hoàn toàn thoả đáng. "Chủ nghĩa Mao cực đoan" thường được liên hệ nhưng Mao vẫn đặt niềm tin vào sức mạnh công nghệ để thay đổi tình hình kinh tế của Trung Quốc, trong khi Khmer Đỏ thì chối bỏ mọi hình thức chuyên môn hiện đại. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Campuchia có đặc trưng nhấn mạnh đến tính ưu việt của ý chí con người, với tư tưởng thuần khiết vượt trên các yếu tố vật chất như công nghệ và nó tạo ra một thế giới quan rất phi thực, gần như huyền diệu. Một ví dụ là giới chức Khmer Đỏ tin rằng họ sẽ gây tổn thất gấp 30 lần những gì Việt Nam gây ra cho họ trong cuộc xung đột biên giới năm 1978, bất chấp ưu thế vượt trội về nhân lực và trang thiết bị của Việt Nam.{{sfn|Harris|2012|p=52}} | Những nỗ lực xếp đặt Khmer Đỏ vào vòng chủ nghĩa cộng sản chính thống chưa bao giờ hoàn toàn thoả đáng. "Chủ nghĩa Mao cực đoan" thường được liên hệ nhưng Mao vẫn đặt niềm tin vào sức mạnh công nghệ để thay đổi tình hình kinh tế của Trung Quốc, trong khi Khmer Đỏ thì chối bỏ mọi hình thức chuyên môn hiện đại. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Campuchia có đặc trưng nhấn mạnh đến tính ưu việt của ý chí con người, với tư tưởng thuần khiết vượt trên các yếu tố vật chất như công nghệ và nó tạo ra một thế giới quan rất phi thực, gần như huyền diệu. Một ví dụ là giới chức Khmer Đỏ tin rằng họ sẽ gây tổn thất gấp 30 lần những gì Việt Nam gây ra cho họ trong cuộc xung đột biên giới năm 1978, bất chấp ưu thế vượt trội về nhân lực và trang thiết bị của Việt Nam.{{sfn|Harris|2012|p=52}} | ||
− | Một trong những đặc điểm của Campuchia Dân chủ được thảo luận nhiều đó là việc nó hình dung sáng tạo thế giới mới "từ con số không". Điều này có thể được diễn giải là cách mạng Campuchia gắn với [[thuyết hư vô]], nhưng luận điểm phản biện cho rằng khái niệm gốc chỉ nói đến khát vọng xây dựng đất nước từ vạch xuất phát sau sự tàn phá của thế lực đế quốc. Ước muốn đưa đất nước quay về thời điểm trước lịch sử chắc chắn có phần kỳ quặc nếu nhìn từ quan điểm Marxist chính thống xem quốc gia lý tưởng là đỉnh cao của quá trình phát triển liên tục chứ không phải quay vòng lại giai đoạn sản xuất xưa cũ nhất.{{sfn|Harris|2012|p=62 | + | Một trong những đặc điểm của Campuchia Dân chủ được thảo luận nhiều đó là việc nó hình dung sáng tạo thế giới mới "từ con số không". Điều này có thể được diễn giải là cách mạng Campuchia gắn với [[thuyết hư vô]], nhưng luận điểm phản biện cho rằng khái niệm gốc chỉ nói đến khát vọng xây dựng đất nước từ vạch xuất phát sau sự tàn phá của thế lực đế quốc. Ước muốn đưa đất nước quay về thời điểm trước lịch sử chắc chắn có phần kỳ quặc nếu nhìn từ quan điểm Marxist chính thống xem quốc gia lý tưởng là đỉnh cao của quá trình phát triển liên tục chứ không phải quay vòng lại giai đoạn sản xuất xưa cũ nhất.{{sfn|Harris|2012|p=62}} |
Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là [[Sparta]] cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192, 195}} Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp [[Lycurgus]] là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192}} | Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là [[Sparta]] cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192, 195}} Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp [[Lycurgus]] là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192}} | ||
Dòng 62: | Dòng 62: | ||
== Lịch sử == | == Lịch sử == | ||
− | Sự trỗi dậy của Khmer Đỏ không thể lý giải bằng việc chỉ đề cập đến các yếu tố bên trong và bên ngoài, hay nhân chủng và lịch sử đơn thuần mà không xét đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Kết luận khả dĩ nhất là sự lan | + | Sự trỗi dậy của Khmer Đỏ không thể lý giải bằng việc chỉ đề cập đến các yếu tố bên trong và bên ngoài, hay nhân chủng và lịch sử đơn thuần mà không xét đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Kết luận khả dĩ nhất là sự lan tràn của [[chiến tranh Việt Nam]] đã làm gia tăng căng thẳng tiềm ẩn trong xã hội Campuchia và điều này mang đến thời cơ cho Khmer Đỏ. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng Khmer Đỏ có thể được xem là chủ yếu bên trong về nguồn gốc, kết hợp với một số ảnh hưởng ý thức hệ bên ngoài. Tuy nhiên, sự thăng tiến của nó chủ yếu do các yếu tố bên ngoài tác động.{{sfn|Edwards|2004|p=65}} |
Lịch sử phong trào cộng sản ở Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:{{sfn|Ross|1990|p=35}} | Lịch sử phong trào cộng sản ở Campuchia có thể được chia thành 6 giai đoạn:{{sfn|Ross|1990|p=35}} | ||
#Sự nổi lên của [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] trước Thế chiến II mà thành viên hầu như chỉ có người Việt Nam. | #Sự nổi lên của [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] trước Thế chiến II mà thành viên hầu như chỉ có người Việt Nam. | ||
− | # | + | #10 năm đấu tranh giành độc lập từ Pháp, khi đó một đảng cộng sản riêng của người Campuchia là [[Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia]] (KPRP) được thành lập dưới sự bảo trợ của Việt Nam. |
#Giai đoạn sau Đại hội lần Hai của KPRP vào năm 1960, khi Saloth Sar (Pol Pot sau này) và các lãnh đạo Khmer Đỏ tương lai giành quyền kiểm soát bộ máy. | #Giai đoạn sau Đại hội lần Hai của KPRP vào năm 1960, khi Saloth Sar (Pol Pot sau này) và các lãnh đạo Khmer Đỏ tương lai giành quyền kiểm soát bộ máy. | ||
#Đấu tranh cách mạng từ cuộc nổi dậy ban đầu năm 1967–68 đến sự sụp đổ của chính quyền Lon Nol vào tháng 4 năm 1975. | #Đấu tranh cách mạng từ cuộc nổi dậy ban đầu năm 1967–68 đến sự sụp đổ của chính quyền Lon Nol vào tháng 4 năm 1975. | ||
Dòng 72: | Dòng 72: | ||
#Giai đoạn sau Đại hội lần Ba của KPRP vào tháng 1 năm 1979, khi Việt Nam đã tiếp quản hiệu quả đảng cộng sản và chính quyền Campuchia. | #Giai đoạn sau Đại hội lần Ba của KPRP vào tháng 1 năm 1979, khi Việt Nam đã tiếp quản hiệu quả đảng cộng sản và chính quyền Campuchia. | ||
− | Phần lớn lịch sử phong trào nằm trong | + | Phần lớn lịch sử phong trào nằm trong bí ẩn, chủ yếu bởi những cuộc thanh trừng liên tiếp, nhất là vào thời kỳ Campuchia Dân chủ, khiến không có nhiều nhân chứng sống sót để thuật lại. Tuy nhiên một điều rõ ràng là căng thẳng giữa người Việt và người Khmer là một chủ đề chính trong tiến trình của nó. Trong ba thập niên kể từ lúc Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc đến khi Khmer Đỏ giành thắng lợi (1945–75), sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản đã dần bị lu mờ bởi nỗi sợ hãi rằng người Việt với phong trào mạnh mẽ hơn nhiều đang sử dụng chủ nghĩa cộng sản làm nền tảng hệ tư tưởng để thống trị người Khmer. Sự tương đồng giữa Việt Nam cộng sản và [[nhà Nguyễn]], triều đại từng mượn cớ "sứ mệnh khai hoá Nho giáo" để lấn chiếm lãnh thổ vào thế kỷ 19, được hưởng ứng. Vì vậy, một nhánh chủ nghĩa cộng sản bản địa mới đã ra đời sau năm 1960 bổ sung khai thác tư tưởng thù địch Việt Nam độc hại của người Khmer. Tài liệu Khmer Đỏ thập niên 1970 thường gọi người Việt là ''yuon'' (man rợ), một thuật ngữ có từ thời Angkor.{{sfn|Ross|1990|p=35–36}} |
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
== Kinh tế == | == Kinh tế == | ||
Dòng 103: | Dòng 78: | ||
Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | ||
− | |||
− | |||
== Tham khảo == | == Tham khảo == | ||
Dòng 134: | Dòng 107: | ||
*{{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r}} | *{{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r}} | ||
*{{cite book | last = Dy | first = Khamboly | title = A History of Democratic Kampuchea (1975-1979) | publisher = Documentation Center of Cambodia | publication-place = Phnom Penh | date = 2007 | isbn = 978-99950-60-04-6 | url = https://d.dccam.org/Projects/Genocide/DK_Book/DK_History--EN.pdf}} | *{{cite book | last = Dy | first = Khamboly | title = A History of Democratic Kampuchea (1975-1979) | publisher = Documentation Center of Cambodia | publication-place = Phnom Penh | date = 2007 | isbn = 978-99950-60-04-6 | url = https://d.dccam.org/Projects/Genocide/DK_Book/DK_History--EN.pdf}} | ||
− | |||
=== Web === | === Web === | ||
− | *{{cite web | last = Prasso | first = Sheridan T. | title = The riel value of money : how the world's only attempt to abolish money has hindered Cambodia's economic development | website = ScholarSpace | date = 2001 | url = https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/10125/3782 | hdl = 10125/3782 | s2cid = 55837234 | ref = {{harvid|Prasso|2001}}}} | + | *{{cite web | last = Prasso | first = Sheridan T. | title = The riel value of money : how the world's only attempt to abolish money has hindered Cambodia's economic development | website = ScholarSpace | date = 2001 | url = https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/10125/3782 | access-date = 17 April 2022 | hdl = 10125/3782 | s2cid = 55837234 | ref = {{harvid|Prasso|2001}}}} |
− | *{{cite web | last1 = Chhair | first1 = Sokty | last2 = Ung | first2 = Luyna | title = Economic History of Industrialization in Cambodia | website = UNU Collections | date = 2013 | publication-place = Helsinki | issn = 17987237 | isbn = 978-92-9230-711-0 | s2cid = 150504993 | url = http://collections.unu.edu/view/UNU:3461 | ref = {{harvid|Chhair|Ung|2013}}}} | + | *{{cite web | last1 = Chhair | first1 = Sokty | last2 = Ung | first2 = Luyna | title = Economic History of Industrialization in Cambodia | website = UNU Collections | date = 2013 | publication-place = Helsinki | issn = 17987237 | isbn = 978-92-9230-711-0 | s2cid = 150504993 | url = http://collections.unu.edu/view/UNU:3461 | access-date = 17 April 2022 | ref = {{harvid|Chhair|Ung|2013}}}} |
− | *{{cite web | url = https://gsp.yale.edu/sites/default/files/gs10_-_an_oral_history_of_family_life_under_the_khmer_rouge.pdf | title = An Oral History of Family Life under the Khmer Rouge | last = Mam | first = Kaylanee E. | date = 1999 | publisher = Yale University | + | *{{cite web | url = https://gsp.yale.edu/sites/default/files/gs10_-_an_oral_history_of_family_life_under_the_khmer_rouge.pdf | title = An Oral History of Family Life under the Khmer Rouge | last = Mam | first = Kaylanee E. | date = 1999 | publisher = Yale University | access-date = 12 April 2024}} |
− | |||
− |