Sửa đổi Khmer Đỏ
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
<indicator name="mới">[[File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này cần được bình duyệt]]</indicator> | <indicator name="mới">[[File:UnderCon icon.svg|40px|link={{TALKPAGENAME}}#Bình duyệt|alt=Mục từ này cần được bình duyệt|Mục từ này cần được bình duyệt]]</indicator> | ||
[[File:Flag of Democratic Kampuchea.svg|thumb|Quốc kỳ Campuchia Dân chủ với biểu tượng Angkor Wat vàng trên nền đỏ.]] | [[File:Flag of Democratic Kampuchea.svg|thumb|Quốc kỳ Campuchia Dân chủ với biểu tượng Angkor Wat vàng trên nền đỏ.]] | ||
− | '''Khmer Đỏ''' là tên gọi để chỉ những người cộng sản Campuchia và sau này là chế độ [[Campuchia Dân chủ]] do [[Đảng Cộng sản Campuchia]] lãnh đạo giai đoạn 1975 đến 1979.{{ | + | '''Khmer Đỏ''' là tên gọi để chỉ những người cộng sản Campuchia và sau này là chế độ [[Campuchia Dân chủ]] do [[Đảng Cộng sản Campuchia]] lãnh đạo giai đoạn 1975 đến 1979.{{sfn|Ross|1990|p=316}} Cái tên ''Khmer Đỏ'' (gốc tiếng Pháp ''Khmer Rouge'') khởi nguồn từ [[Norodom Sihanouk]], người sử dụng nó lần đầu vào thập niên 1960.{{sfn|Ross|1990|p=316}} |
== Ý thức hệ == | == Ý thức hệ == | ||
Dòng 14: | Dòng 14: | ||
Những nỗ lực xếp đặt Khmer Đỏ vào vòng chủ nghĩa cộng sản chính thống chưa bao giờ hoàn toàn thoả đáng. "Chủ nghĩa Mao cực đoan" thường được liên hệ nhưng Mao vẫn đặt niềm tin vào sức mạnh công nghệ để thay đổi tình hình kinh tế của Trung Quốc, trong khi Khmer Đỏ thì chối bỏ mọi hình thức chuyên môn hiện đại. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Campuchia có đặc trưng nhấn mạnh đến tính ưu việt của ý chí con người, với tư tưởng thuần khiết vượt trên các yếu tố vật chất như công nghệ và nó tạo ra một thế giới quan rất phi thực, gần như huyền diệu. Một ví dụ là giới chức Khmer Đỏ tin rằng họ sẽ gây tổn thất gấp 30 lần những gì Việt Nam gây ra cho họ trong cuộc xung đột biên giới năm 1978, bất chấp ưu thế vượt trội về nhân lực và trang thiết bị của Việt Nam.{{sfn|Harris|2012|p=52}} | Những nỗ lực xếp đặt Khmer Đỏ vào vòng chủ nghĩa cộng sản chính thống chưa bao giờ hoàn toàn thoả đáng. "Chủ nghĩa Mao cực đoan" thường được liên hệ nhưng Mao vẫn đặt niềm tin vào sức mạnh công nghệ để thay đổi tình hình kinh tế của Trung Quốc, trong khi Khmer Đỏ thì chối bỏ mọi hình thức chuyên môn hiện đại. Đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Campuchia có đặc trưng nhấn mạnh đến tính ưu việt của ý chí con người, với tư tưởng thuần khiết vượt trên các yếu tố vật chất như công nghệ và nó tạo ra một thế giới quan rất phi thực, gần như huyền diệu. Một ví dụ là giới chức Khmer Đỏ tin rằng họ sẽ gây tổn thất gấp 30 lần những gì Việt Nam gây ra cho họ trong cuộc xung đột biên giới năm 1978, bất chấp ưu thế vượt trội về nhân lực và trang thiết bị của Việt Nam.{{sfn|Harris|2012|p=52}} | ||
− | Một trong những đặc điểm của Campuchia Dân chủ được thảo luận nhiều đó là việc nó hình dung sáng tạo thế giới mới "từ con số không". Điều này có thể được diễn giải là cách mạng Campuchia gắn với [[thuyết hư vô]], nhưng luận điểm phản biện cho rằng khái niệm gốc chỉ nói đến khát vọng xây dựng đất nước từ vạch xuất phát sau sự tàn phá của thế lực đế quốc. Ước muốn đưa đất nước quay về thời điểm trước lịch sử chắc chắn có phần kỳ quặc nếu nhìn từ quan điểm Marxist chính thống xem quốc gia lý tưởng là đỉnh cao của quá trình phát triển liên tục chứ không phải quay vòng lại giai đoạn sản xuất xưa cũ nhất.{{sfn|Harris|2012|p=62 | + | Một trong những đặc điểm của Campuchia Dân chủ được thảo luận nhiều đó là việc nó hình dung sáng tạo thế giới mới "từ con số không". Điều này có thể được diễn giải là cách mạng Campuchia gắn với [[thuyết hư vô]], nhưng luận điểm phản biện cho rằng khái niệm gốc chỉ nói đến khát vọng xây dựng đất nước từ vạch xuất phát sau sự tàn phá của thế lực đế quốc. Ước muốn đưa đất nước quay về thời điểm trước lịch sử chắc chắn có phần kỳ quặc nếu nhìn từ quan điểm Marxist chính thống xem quốc gia lý tưởng là đỉnh cao của quá trình phát triển liên tục chứ không phải quay vòng lại giai đoạn sản xuất xưa cũ nhất.{{sfn|Harris|2012|p=62}} |
Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là [[Sparta]] cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192, 195}} Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp [[Lycurgus]] là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192}} | Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là [[Sparta]] cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192, 195}} Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp [[Lycurgus]] là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."{{sfn|Westad|Quinn-Judge|2006|p=192}} | ||
=== Chủ quyền và tự lực === | === Chủ quyền và tự lực === | ||
− | [[Chủ nghĩa dân tộc]] vốn là nét nổi bật ở hầu như mọi phong trào cách mạng, thế nhưng Khmer Đỏ đã nâng vấn đề tự lực và chủ quyền dân tộc đến một tầm dị thường.{{sfn|Jackson|1989|p=39}} Chủ nghĩa dân tộc của Khmer Đỏ giống với chủ nghĩa dân tộc của [[Norodom Sihanouk]] trừ một điểm khác biệt lớn là Khmer Đỏ xác định những người Campuchia không bài Việt Nam là phản quốc, là người nước ngoài chứ không phải người Campuchia và đối xử tàn ác với nhóm này.{{sfn|Kiernan|2001|p=192}} Giới lãnh đạo Khmer Đỏ lo sợ Việt Nam sẽ thực dân hóa Campuchia sau khi Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Dương và đó là lý do mà những tuyên ngôn tư tưởng hết sức nhấn mạnh đến chủ quyền và tự lực hoàn toàn. Sự sợ hãi về những ý đồ của Việt Nam khiến họ thẳng thừng từ chối "mối quan hệ đặc biệt" mà Việt Nam đề nghị vì điều đó có thể bao gồm cả quyền Việt Nam được đóng quân trên đất Campuchia cùng ảnh hưởng đáng kể, ít nhất lên chính sách đối ngoại của Campuchia.{{sfn|Jackson|1989|p=41}} | + | [[Chủ nghĩa dân tộc]] vốn là nét nổi bật ở hầu như mọi phong trào cách mạng, thế nhưng Khmer Đỏ đã nâng vấn đề tự lực và chủ quyền dân tộc đến một tầm dị thường.{{sfn|Jackson|1989|p=39}} Chủ nghĩa dân tộc của Khmer Đỏ giống với chủ nghĩa dân tộc của [[Norodom Sihanouk]] trừ một điểm khác biệt lớn là Khmer Đỏ xác định những người Campuchia không bài Việt Nam là phản quốc, là người nước ngoài chứ không phải người Campuchia và đối xử tàn ác với nhóm này.{{sfn|Kiernan|2001|p=192}} Giới lãnh đạo Khmer Đỏ lo sợ Việt Nam sẽ thực dân hóa Campuchia sau khi Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Dương và đó là lý do mà những tuyên ngôn tư tưởng hết sức nhấn mạnh đến chủ quyền và tự lực hoàn toàn.{{sfn|Jackson|1989|p=41}} Sự sợ hãi về những ý đồ của Việt Nam khiến họ thẳng thừng từ chối "mối quan hệ đặc biệt" mà Việt Nam đề nghị vì điều đó có thể bao gồm cả quyền Việt Nam được đóng quân trên đất Campuchia cùng ảnh hưởng đáng kể, ít nhất lên chính sách đối ngoại của Campuchia.{{sfn|Jackson|1989|p=41}} |
− | Điểm kỳ lạ ở Khmer Đỏ là họ áp dụng những nguyên tắc trừu tượng một cách giáo điều, đem thẳng lý thuyết vào thực tế bất chấp những hậu quả tai hại như cô lập ngoại giao, tàn phá kinh tế, nhân dân đau khổ.{{sfn|Jackson|1989|p=44}} Xét mức độ và phạm vi áp dụng để hướng đến tự lực và chủ quyền hoàn toàn, Khmer Đỏ là gần như độc nhất vô nhị. Ngay sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ lập tức buộc tất cả người dân rời khỏi các thành phố, phá hủy hàng tiêu dùng phương Tây, đốt sách và thư viện, chấm dứt hầu hết các mối quan hệ ngoại giao, bãi bỏ tiền tệ, thị trường, ngoại hối, cắt đứt gần như mọi giao dịch với thế giới bên ngoài.{{sfn|Jackson|1989|p=45}} Khmer Đỏ công khai từ chối viện trợ nước ngoài, không nhận bất kỳ đề nghị viện trợ nào từ các nước không cộng sản. Thiếu vắng nguồn cung lương thực và thuốc men hiện đại, nhiều người dân Campuchia đã chết trong đói khổ và bệnh tật.{{sfn|Jackson|1989|p=48}} Ngân hàng trung ương, biểu tượng của sự kết nối giữa Campuchia với hệ thống kinh tế thế giới, bị đánh sập bằng chất nổ và giấy bạc được để tung bay trên những con phố không người của thủ đô. Nhà thờ chính tòa Phnom Penh bị tháo dỡ từng viên đá một cho đến khi không còn bất kỳ dấu tích của dinh thự tôn giáo Tây phương nổi bật nhất ở quốc gia.{{sfn|Jackson|1989|p=49}} | + | Điểm kỳ lạ ở Khmer Đỏ là họ áp dụng những nguyên tắc trừu tượng một cách giáo điều, đem thẳng lý thuyết vào thực tế bất chấp những hậu quả tai hại như cô lập ngoại giao, tàn phá kinh tế, nhân dân đau khổ.{{sfn|Jackson|1989|p=44}} Xét mức độ và phạm vi áp dụng để hướng đến tự lực và chủ quyền hoàn toàn, Khmer Đỏ là gần như độc nhất vô nhị.{{sfn|Jackson|1989|p=45}} Ngay sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ lập tức buộc tất cả người dân rời khỏi các thành phố, phá hủy hàng tiêu dùng phương Tây, đốt sách và thư viện, chấm dứt hầu hết các mối quan hệ ngoại giao, bãi bỏ tiền tệ, thị trường, ngoại hối, cắt đứt gần như mọi giao dịch với thế giới bên ngoài.{{sfn|Jackson|1989|p=45}} Khmer Đỏ công khai từ chối viện trợ nước ngoài, không nhận bất kỳ đề nghị viện trợ nào từ các nước không cộng sản.{{sfn|Jackson|1989|p=48}} Thiếu vắng nguồn cung lương thực và thuốc men hiện đại, nhiều người dân Campuchia đã chết trong đói khổ và bệnh tật.{{sfn|Jackson|1989|p=48}} Ngân hàng trung ương, biểu tượng của sự kết nối giữa Campuchia với hệ thống kinh tế thế giới, bị đánh sập bằng chất nổ và giấy bạc được để tung bay trên những con phố không người của thủ đô.{{sfn|Jackson|1989|p=49}} Nhà thờ chính tòa Phnom Penh bị tháo dỡ từng viên đá một cho đến khi không còn bất kỳ dấu tích của dinh thự tôn giáo Tây phương nổi bật nhất ở quốc gia.{{sfn|Jackson|1989|p=49}} |
=== Giai cấp xã hội === | === Giai cấp xã hội === | ||
− | Khi Khmer Đỏ huy động lực lượng để lật đổ chính quyền Lon Nol họ chia xã hội Campuchia thành năm giai cấp phân biệt: công nhân, nông dân, tư sản, tư bản, và phong kiến.{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=50|2a1=Ross|2y=1990|2p=51–52}} Họ tập trung công kích "chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến" và tìm cách lôi kéo mọi thành phần xã hội khác. Tuy nhiên sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ chỉ còn coi trọng công nhân, nông dân tập thể, quan chức chính quyền, và quân cách mạng.{{sfn|Jackson|1989|p=50}} Thay vì tạm thời sử dụng những con người hiện có để vận hành nhà nước, Khmer Đỏ lập tức loại bỏ toàn bộ và xây dựng một bộ máy phi tập trung, phi quan liêu, Mao chủ nghĩa cấp tiến do đảng và quân đội kiểm soát để phục vụ đối tượng có vị thế thấp kém nhất trong xã hội cũ là nông dân nghèo. Khmer Đỏ cấp tốc săn lùng và trừ khử toàn bộ sĩ quan và nhiều quân nhân trong quân đội của Lon Nol, quan chức chế độ cũ, hoàng thân (trừ Sihanouk), địa chủ, doanh nhân, lao động có tay nghề, chuyên gia có học vấn, người Chăm, tu sĩ Phật giáo.{{sfn|Jackson|1989|p=51}} | + | Khi Khmer Đỏ huy động lực lượng để lật đổ chính quyền Lon Nol họ chia xã hội Campuchia thành năm giai cấp phân biệt: công nhân, nông dân, tư sản, tư bản, và phong kiến.{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=50|2a1=Ross|2y=1990|2p=51–52}} Họ tập trung công kích "chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến" và tìm cách lôi kéo mọi thành phần xã hội khác.{{sfn|Jackson|1989|p=50}} Tuy nhiên sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ chỉ còn coi trọng công nhân, nông dân tập thể, quan chức chính quyền, và quân cách mạng.{{sfn|Jackson|1989|p=50}} Thay vì tạm thời sử dụng những con người hiện có để vận hành nhà nước, Khmer Đỏ lập tức loại bỏ toàn bộ và xây dựng một bộ máy phi tập trung, phi quan liêu, Mao chủ nghĩa cấp tiến do đảng và quân đội kiểm soát để phục vụ đối tượng có vị thế thấp kém nhất trong xã hội cũ là nông dân nghèo.{{sfn|Jackson|1989|p=51}} Khmer Đỏ cấp tốc săn lùng và trừ khử toàn bộ sĩ quan và nhiều quân nhân trong quân đội của Lon Nol, quan chức chế độ cũ, hoàng thân (trừ Sihanouk), địa chủ, doanh nhân, lao động có tay nghề, chuyên gia có học vấn, người Chăm, tu sĩ Phật giáo.{{sfn|Jackson|1989|p=51}} |
− | Tổng quan, người dân Campuchia Dân chủ được phân thành ba hạng: người có đủ quyền (''penh sith''), ứng viên đạt đủ quyền (''triem''), và người không có quyền (''bannheu'').{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=52|2a1=Duffy|2y=1994|2p=86}} Gần như mọi ''penh sith'' đều tham gia cách mạng từ sớm và đến từ bộ phận dân quê nghèo cũng như ít học nhất, được phép nhận đủ lương thực và gia nhập mọi tổ chức như đảng hay quân đội. ''Triem'' cũng chủ yếu đến từ nông thôn, được nhận khẩu phần ít hơn và nắm giữ chức sắc nhỏ. Hạng thấp nhất, ''bannheu'', không có quyền gì kể cả nhận lương thực; bao gồm cựu địa chủ, sĩ quan, quan chức, giáo viên, thương nhân, cư dân thành thị.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} Hầu hết đối tượng mà Khmer đỏ nhắm đến tiêu diệt là thuộc nhóm này.{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=52|2a1=Duffy|2y=1994|2p=86}} Nhóm được hưởng đầy đủ đặc quyền chỉ chiếm chưa đến 15% tổng dân số.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} Còn một kiểu phân chia xã hội khác thành "người mới" (''neak thmey'') là cư dân thành thị bị trục xuất và "người cũ" (''neak chas'') là nông dân ở miền quê.{{sfnm|1a1=Kiernan|1y=2008|1p=164|2a1=Ross|2y=1990|2p=52}} Trong khi người mới thường là nạn nhân bị bức hại thì tình cảnh của người cũ lại nhập nhằng, có khi họ được đối xử tốt hơn nhưng cũng có khi là tương tự.{{sfn|Ross|1990|p=53–54}} | + | Tổng quan, người dân Campuchia Dân chủ được phân thành ba hạng: người có đủ quyền (''penh sith''), ứng viên đạt đủ quyền (''triem''), và người không có quyền (''bannheu'').{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=52|2a1=Duffy|2y=1994|2p=86}} Gần như mọi ''penh sith'' đều tham gia cách mạng từ sớm và đến từ bộ phận dân quê nghèo cũng như ít học nhất, được phép nhận đủ lương thực và gia nhập mọi tổ chức như đảng hay quân đội.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} ''Triem'' cũng chủ yếu đến từ nông thôn, được nhận khẩu phần ít hơn và nắm giữ chức sắc nhỏ.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} Hạng thấp nhất, ''bannheu'', không có quyền gì kể cả nhận lương thực; bao gồm cựu địa chủ, sĩ quan, quan chức, giáo viên, thương nhân, cư dân thành thị.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} Hầu hết đối tượng mà Khmer đỏ nhắm đến tiêu diệt là thuộc nhóm này.{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=52|2a1=Duffy|2y=1994|2p=86}} Nhóm được hưởng đầy đủ đặc quyền chỉ chiếm chưa đến 15% tổng dân số.{{sfn|Jackson|1989|p=52}} Còn một kiểu phân chia xã hội khác thành "người mới" (''neak thmey'') là cư dân thành thị bị trục xuất và "người cũ" (''neak chas'') là nông dân ở miền quê.{{sfnm|1a1=Kiernan|1y=2008|1p=164|2a1=Ross|2y=1990|2p=52}} Trong khi người mới thường là nạn nhân bị bức hại thì tình cảnh của người cũ lại nhập nhằng, có khi họ được đối xử tốt hơn nhưng cũng có khi là tương tự.{{sfn|Ross|1990|p=53–54}} |
− | Khmer Đỏ bêu riếu sự bất bình đẳng và đồi trụy của chốn đô thị thời chế độ cũ. Với khát khao xóa bỏ vĩnh viễn sự bất bình đẳng, họ trừ khử những cá nhân trước kia có địa vị vừa và cao chiếu theo của cải, học vấn, nghề nghiệp, hay dòng dõi. Đuổi hết cư dân khỏi các thành phố, sát hại ''bannheu'', bãi bỏ tiền tệ và thị trường, triệt để với học thuyết đấu tranh giai cấp vĩnh viễn giữa ''penh sith'' và ''bannheu'' là biện pháp mà giới lãnh đạo Khmer Đỏ cho rằng sẽ nhanh chóng mang lại một xã hội quân bình.{{sfn|Jackson|1989|p=55}} | + | Khmer Đỏ bêu riếu sự bất bình đẳng và đồi trụy của chốn đô thị thời chế độ cũ.{{sfn|Jackson|1989|p=55}} Với khát khao xóa bỏ vĩnh viễn sự bất bình đẳng, họ trừ khử những cá nhân trước kia có địa vị vừa và cao chiếu theo của cải, học vấn, nghề nghiệp, hay dòng dõi.{{sfn|Jackson|1989|p=55}} Đuổi hết cư dân khỏi các thành phố, sát hại ''bannheu'', bãi bỏ tiền tệ và thị trường, triệt để với học thuyết đấu tranh giai cấp vĩnh viễn giữa ''penh sith'' và ''bannheu'' là biện pháp mà giới lãnh đạo Khmer Đỏ cho rằng sẽ nhanh chóng mang lại một xã hội quân bình.{{sfn|Jackson|1989|p=55}} |
=== Gia đình === | === Gia đình === | ||
Dòng 45: | Dòng 45: | ||
[[Đạo Phật]] du nhập Campuchia vào thế kỷ 5 và là tôn giáo quốc gia chính thức ở đây từ thế kỷ 13. Mặc cho điều này, chế độ mới vẫn xem đạo Phật là ảnh hưởng ngoại bang đã lan truyền từ nơi khác đến quê hương Khmer.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=197}} Chính quyền Pol Pot cáo buộc nhiều nhà sư là gián điệp của các cường quốc bên ngoài, cụ thể như là mật vụ [[CIA]].{{sfn|Harris|2012|p=122}} Diệt trừ Phật giáo cũng là việc cần làm để thiết lập trật tự mới mà Pol Pot và phe phái kiếm tìm. Ví dụ, một trật tự xã hội thứ bậc là yếu tố được xã hội Khmer truyền thống và Phật giáo chấp thuận. Các khái niệm công đức và nghiệp chướng của Phật giáo ngụ chỉ vị thế xã hội phản ánh kết quả những hành động quá khứ của một người. Vì vậy, sự khác biệt tôn ti giữa con người là hợp thức, và điều này xâm phạm học thuyết cộng sản.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=197}} | [[Đạo Phật]] du nhập Campuchia vào thế kỷ 5 và là tôn giáo quốc gia chính thức ở đây từ thế kỷ 13. Mặc cho điều này, chế độ mới vẫn xem đạo Phật là ảnh hưởng ngoại bang đã lan truyền từ nơi khác đến quê hương Khmer.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=197}} Chính quyền Pol Pot cáo buộc nhiều nhà sư là gián điệp của các cường quốc bên ngoài, cụ thể như là mật vụ [[CIA]].{{sfn|Harris|2012|p=122}} Diệt trừ Phật giáo cũng là việc cần làm để thiết lập trật tự mới mà Pol Pot và phe phái kiếm tìm. Ví dụ, một trật tự xã hội thứ bậc là yếu tố được xã hội Khmer truyền thống và Phật giáo chấp thuận. Các khái niệm công đức và nghiệp chướng của Phật giáo ngụ chỉ vị thế xã hội phản ánh kết quả những hành động quá khứ của một người. Vì vậy, sự khác biệt tôn ti giữa con người là hợp thức, và điều này xâm phạm học thuyết cộng sản.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=197}} | ||
− | Trong hàng thế kỷ, những ngôi chùa Phật là trung tâm của đời sống thôn quê, là nguồn tri thức, địa điểm gìn giữ và truyền bá văn hoá Campuchia. Chính sách của Khmer Đỏ đối với Phật giáo đã dẫn đến những cuộc tấn công | + | Trong hàng thế kỷ, những ngôi chùa Phật là trung tâm của đời sống thôn quê, là nguồn tri thức, địa điểm gìn giữ và truyền bá văn hoá Campuchia. Chính sách của Khmer Đỏ đối với Phật giáo đã dẫn đến những cuộc tấn công tàn bạo và triệt căn bậc nhất trong lịch sử. Khi đã giành chính quyền, Khmer Đỏ bắt đầu tiêu huỷ và báng bổ sách, tượng, thánh vật và thánh tích của Phật đạo. Các hoạt động thờ cúng, cầu nguyện, thiền định, lễ hội, đều bị cấm; tương tự là [[Pali]], ngôn ngữ kinh Phật Khmer. Các lãnh đạo Phật giáo, nhà sư, hay những người không chịu cởi bỏ áo tràng màu nghệ bị hành hình.{{sfn|Jackson|1989|p=212}} Tất cả đền chùa và tu viện được lệnh đóng cửa, một nửa cuối cùng bị phá huỷ và hầu hết số còn lại bị xâm phạm. Khmer Đỏ xem nhiều thành phần của xã hội Campuchia là kẻ thù, nhưng tu sĩ Phật giáo và tăng lữ các tôn giáo khác bị lăng mạ nặng nề. Khmer Đỏ hay có luận điệu rằng sư sãi là "lũ đỉa" hoặc "sâu" bòn rút của cải nhiều hơn là tạo ra. Những người không thể chạy trốn trở thành nạn nhân của hành vi ngược đãi có hệ thống và tàn bạo trên quy mô chưa từng có. Nhiều sư trẻ bị ép kết hôn hoặc nhập ngũ. Gần như tất cả bị ép hoàn tục và lao động tay chân vất vả bất kể tuổi tác hay sức lực của họ, cùng với đó là nhiều trường hợp bị tra tấn và hành quyết.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} |
− | Quy mô sau cùng của sự áp bức nhằm vào Phật giáo Campuchia là đáng kinh ngạc và nó cho thấy một trong những chiến dịch bài trừ tôn giáo tàn khốc nhất thời hiện đại. Sau khi Khmer Đỏ bị lật đổ, chỉ còn chưa đến 100 nhà sư Khmer ở Campuchia khi gần như tất cả đã bỏ mạng hoặc rời đi. Chỉ 70 trên 2.680 sư thuộc 8 tu viện lớn nhất Campuchia sống sót qua thời Khmer Đỏ.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} Một nghiên cứu do chính quyền Campuchia tiến hành năm 1989 khẳng định chế độ Pol Pot đã sát hại 25.000 nhà sư,{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} tuy nhiên có tác giả tính toán con số này chỉ là một nửa (12.500).{{sfn|Harris|2012|p=137}} Đến cuối năm 1979, gần một năm sau khi Khmer Đỏ bị đánh đuổi, số lượng nhà sư ở Campuchia là dưới 1.000,{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} so với khoảng 60.000 trước năm 1975.{{sfn|Jackson|1989|p=212}} | + | Quy mô sau cùng của sự áp bức nhằm vào Phật giáo Campuchia là đáng kinh ngạc và nó cho thấy một trong những chiến dịch bài trừ tôn giáo tàn khốc nhất thời hiện đại. Sau khi Khmer Đỏ bị lật đổ, chỉ còn chưa đến 100 nhà sư Khmer ở Campuchia khi gần như tất cả đã bỏ mạng hoặc rời đi. Chỉ 70 trên 2.680 sư thuộc 8 tu viện lớn nhất Campuchia sống sót qua thời Khmer Đỏ.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} Một nghiên cứu do chính quyền Campuchia tiến hành vào năm 1989 khẳng định chế độ Pol Pot đã sát hại 25.000 nhà sư,{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} tuy nhiên có tác giả tính toán con số này chỉ là một nửa (12.500).{{sfn|Harris|2012|p=137}} Đến cuối năm 1979, gần một năm sau khi Khmer Đỏ bị đánh đuổi, số lượng nhà sư ở Campuchia là dưới 1.000,{{sfn|Brown|Smith|2021|p=198}} so với khoảng 60.000 trước năm 1975.{{sfn|Jackson|1989|p=212}} |
==== Cơ đốc giáo ==== | ==== Cơ đốc giáo ==== | ||
Dòng 57: | Dòng 57: | ||
==== Hồi giáo ==== | ==== Hồi giáo ==== | ||
− | Gần như tất cả người Hồi giáo ở Campuchia là người sắc tộc [[người Chăm|Chăm]] bắt đầu di cư đến đây | + | Gần như tất cả người Hồi giáo ở Campuchia là người sắc tộc [[người Chăm|Chăm]] bắt đầu di cư đến đây vào thế kỷ 15. Mặc cho sự hiện diện hàng thế kỷ, Khmer Đỏ vẫn nghi ngờ họ và xem [[Hồi giáo]] là ảnh hưởng bên ngoài chống chủ nghĩa xã hội. Cộng đồng này trở thành mục tiêu tấn công vì hai lý do sắc tộc và tôn giáo.{{sfn|Brown|Smith|2021|p=200}} |
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
== Kinh tế == | == Kinh tế == | ||
Dòng 103: | Dòng 63: | ||
Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,{{sfn|Tyner|2020|p=149}} thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."{{sfnm|1a1=Jackson|1y=1989|1p=48|2a1=Ross|2y=1990|2p=154}} Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.{{sfn|Tyner|2017|p=110}} Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.{{sfnm|1a1=Tyner|1y=2017|1p=107|2a1=Chandler|2y=2008|2p=262}} Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.{{sfn|Chandler|2008|p=263}} Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân tay đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.{{sfn|Chandler|2008|p=264}} | ||
− | |||
− | |||
== Tham khảo == | == Tham khảo == | ||
Dòng 120: | Dòng 78: | ||
*{{cite journal | last = Clayton | first = Thomas | title = Building the New Cambodia: Educational Destruction and Construction under the Khmer Rouge, 1975-1979 | journal = History of Education Quarterly | date = 1998 | volume = 38 | issue = 1 | page = 1–16 | doi = 10.2307/369662 | jstor = 369662 | s2cid = 144621604}} | *{{cite journal | last = Clayton | first = Thomas | title = Building the New Cambodia: Educational Destruction and Construction under the Khmer Rouge, 1975-1979 | journal = History of Education Quarterly | date = 1998 | volume = 38 | issue = 1 | page = 1–16 | doi = 10.2307/369662 | jstor = 369662 | s2cid = 144621604}} | ||
*{{cite journal | last = Brandner | first = Tobias | title = Emerging Christianity in Cambodia: People Movement to Christ or Playground for Global Christianity? | journal = International Bulletin of Mission Research | volume = 44 | issue = 3 | pages = 279–289 | date = 1 July 2020 | doi = 10.1177/2396939319879556 | s2cid = 211648968}} | *{{cite journal | last = Brandner | first = Tobias | title = Emerging Christianity in Cambodia: People Movement to Christ or Playground for Global Christianity? | journal = International Bulletin of Mission Research | volume = 44 | issue = 3 | pages = 279–289 | date = 1 July 2020 | doi = 10.1177/2396939319879556 | s2cid = 211648968}} | ||
− | |||
=== Sách === | === Sách === | ||
− | |||
*{{cite book | editor-last = Jackson | editor-first = Karl D. | date = 1989 | title = Cambodia, 1975-1978: Rendezvous with Death | publisher = Princeton University Press | isbn = 978-0-691-02541-4 | url = https://press.princeton.edu/books/paperback/9780691025414/cambodia-1975-1978 | jstor = j.ctt6wq0t4}} | *{{cite book | editor-last = Jackson | editor-first = Karl D. | date = 1989 | title = Cambodia, 1975-1978: Rendezvous with Death | publisher = Princeton University Press | isbn = 978-0-691-02541-4 | url = https://press.princeton.edu/books/paperback/9780691025414/cambodia-1975-1978 | jstor = j.ctt6wq0t4}} | ||
*{{cite book | last = Kiernan | first = Ben | date = 2008 | title = The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia Under the Khmer Rouge, 1975-79 | edition = 3 | publisher = Yale University Press | isbn = 978-0-300-14434-5 | url = https://yalebooks.yale.edu/book/9780300144345/pol-pot-regime/}} | *{{cite book | last = Kiernan | first = Ben | date = 2008 | title = The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia Under the Khmer Rouge, 1975-79 | edition = 3 | publisher = Yale University Press | isbn = 978-0-300-14434-5 | url = https://yalebooks.yale.edu/book/9780300144345/pol-pot-regime/}} | ||
Dòng 131: | Dòng 87: | ||
*{{cite book | editor1-last = Ross | editor1-first = Russell R. | date = 1990 | title = Cambodia : a country study | publisher = US Library of Congress | url = https://www.loc.gov/item/89600150/ | lccn = 89600150}} | *{{cite book | editor1-last = Ross | editor1-first = Russell R. | date = 1990 | title = Cambodia : a country study | publisher = US Library of Congress | url = https://www.loc.gov/item/89600150/ | lccn = 89600150}} | ||
*{{cite book | last = Maguire | first = Peter | date = 2005 | title = Facing Death in Cambodia | publisher = Columbia University Press | isbn = 978-0-231-50939-8 | url = https://cup.columbia.edu/book/facing-death-in-cambodia/9780231120524}} | *{{cite book | last = Maguire | first = Peter | date = 2005 | title = Facing Death in Cambodia | publisher = Columbia University Press | isbn = 978-0-231-50939-8 | url = https://cup.columbia.edu/book/facing-death-in-cambodia/9780231120524}} | ||
− | *{{cite book | last = Brown | first = Sara Elise | last2 = Smith | first2 = Stephen David | title = The Routledge Handbook of Religion, Mass Atrocity, and Genocide | publisher = Routledge | publication-place = Abingdon, Oxon ; New York, NY | date = 2021 | isbn=978-0-367-32150-5 | url = https://www.routledge.com/The-Routledge-Handbook-of-Religion-Mass-Atrocity-and-Genocide/Brown-Smith/p/book/9781032122748}} | + | * {{cite book | last = Brown | first = Sara Elise | last2 = Smith | first2 = Stephen David | title = The Routledge Handbook of Religion, Mass Atrocity, and Genocide | publisher = Routledge | publication-place = Abingdon, Oxon ; New York, NY | date = 2021 | isbn=978-0-367-32150-5 | url = https://www.routledge.com/The-Routledge-Handbook-of-Religion-Mass-Atrocity-and-Genocide/Brown-Smith/p/book/9781032122748}} |
− | *{{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r | + | * {{cite book | last = Harris | first = Ian | title = Buddhism in a Dark Age | publisher = University of Hawaii Press | publication-place = Honolulu | date = 2012 | isbn = 978-0-8248-3561-3 | jstor = j.ctt6wqf7r}} |
− | |||
− | |||
=== Web === | === Web === | ||
− | *{{cite web | last = Prasso | first = Sheridan T. | title = The riel value of money : how the world's only attempt to abolish money has hindered Cambodia's economic development | website = ScholarSpace | date = 2001 | url = https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/10125/3782 | hdl = 10125/3782 | s2cid = 55837234 | ref = {{harvid|Prasso|2001}}}} | + | *{{cite web | last = Prasso | first = Sheridan T. | title = The riel value of money : how the world's only attempt to abolish money has hindered Cambodia's economic development | website = ScholarSpace | date = 2001 | url = https://scholarspace.manoa.hawaii.edu/handle/10125/3782 | access-date = 17 April 2022 | hdl = 10125/3782 | s2cid = 55837234 | ref = {{harvid|Prasso|2001}}}} |
− | *{{cite web | last1 = Chhair | first1 = Sokty | last2 = Ung | first2 = Luyna | title = Economic History of Industrialization in Cambodia | website = UNU Collections | date = 2013 | publication-place = Helsinki | issn = 17987237 | isbn = 978-92-9230-711-0 | s2cid = 150504993 | url = http://collections.unu.edu/view/UNU:3461 | ref = {{harvid|Chhair|Ung|2013}}}} | + | *{{cite web | last1 = Chhair | first1 = Sokty | last2 = Ung | first2 = Luyna | title = Economic History of Industrialization in Cambodia | website = UNU Collections | date = 2013 | publication-place = Helsinki | issn = 17987237 | isbn = 978-92-9230-711-0 | s2cid = 150504993 | url = http://collections.unu.edu/view/UNU:3461 | access-date = 17 April 2022 | ref = {{harvid|Chhair|Ung|2013}}}} |
− | *{{cite web | url = https://gsp.yale.edu/sites/default/files/gs10_-_an_oral_history_of_family_life_under_the_khmer_rouge.pdf | title = An Oral History of Family Life under the Khmer Rouge | last = Mam | first = Kaylanee E. | date = 1999 | publisher = Yale University | + | *{{cite web | url = https://gsp.yale.edu/sites/default/files/gs10_-_an_oral_history_of_family_life_under_the_khmer_rouge.pdf | title = An Oral History of Family Life under the Khmer Rouge | last = Mam | first = Kaylanee E. | date = 1999 | publisher = Yale University | access-date = 12 April 2024}} |
− | |||
− |