Sửa đổi Chủ nghĩa đa phương

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 22: Dòng 22:
 
Ngoại giao đa phương đã trở thành một kênh ngoại giao chính thức của các quốc gia-dân tộc cùng với sự ra đời của Hội Quốc Liên năm 1919 và sau này là Liên Hiệp Quốc năm 1945. Hai cuộc chiến tranh thế giới đã gây ra những tổn thất to lớn cho toàn nhân loại và để ngăn chặn các cuộc chiến tranh mới, một số cơ chế đa phương cần phải được xây dựng. Sau sự thành lập Liên Hiệp Quốc và các thể chế Bretton Woods năm 1945, ngoại giao đa phương đã được phổ biến trên toàn cầu. Ngày nay, chủ nghĩa đa phương đã trở thành một hình thái kiến trúc không thể thiếu của nền Ngoại giao thế giới.
 
Ngoại giao đa phương đã trở thành một kênh ngoại giao chính thức của các quốc gia-dân tộc cùng với sự ra đời của Hội Quốc Liên năm 1919 và sau này là Liên Hiệp Quốc năm 1945. Hai cuộc chiến tranh thế giới đã gây ra những tổn thất to lớn cho toàn nhân loại và để ngăn chặn các cuộc chiến tranh mới, một số cơ chế đa phương cần phải được xây dựng. Sau sự thành lập Liên Hiệp Quốc và các thể chế Bretton Woods năm 1945, ngoại giao đa phương đã được phổ biến trên toàn cầu. Ngày nay, chủ nghĩa đa phương đã trở thành một hình thái kiến trúc không thể thiếu của nền Ngoại giao thế giới.
 
==Tranh luận==
 
==Tranh luận==
Mặc dù đã có một số định nghĩa như trên về khái niệm và nội hàm của chủ nghĩa đa phương, tuy nhiên cho đến nay giới học thuật quốc tế vẫn còn một số tranh luận. James Caporaso phàn nàn rằng chủ nghĩa đa phương đã được sử dụng để mô tả một loạt các hình thức hợp tác quốc tế khác nhau, nhưng vẫn chưa được khái niệm hoá một cách thỏa đáng. Một mặt, chủ nghĩa đa phương thường được dùng lẫn với các khái niệm liên quan như ''globalism'' ([[chủ nghĩa toàn cầu]]), và ''regionalism'' ([[chủ nghĩa khu vực]]). Các khái niệm này đều hàm ý về những hoạt động đối ngoại có sự tham gia của ba chủ thể trở lên trên các cấp độ địa lý khác nhau. Mặt khác, chủ nghĩa đa phương thường được dùng thay thế với ngoại giao đa phương và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, theo Caporaso, chủ nghĩa đa phương có phạm vi rộng hơn ngoại giao đa phương vốn gắn liền với các hoạt động của ngoại giao nhà nước ở cấp độ đa phương. Chủ nghĩa đa phương cũng không hoàn toàn đồng nhất với các tổ chức quốc tế ở chỗ chủ nghĩa đa phương không chỉ là các tổ chức cụ thể có trụ sở, nhân viên, ban thư kí… mà đó là khái niệm về cách thế giới được tổ chức như thế nào, hay rộng hơn là một lý tưởng để theo đuổi. Do đó việc xuất hiện nhiều tổ chức đa phương không đồng nghĩa với việc chủ nghĩa đa phương rất phát triển.
+
Mặc dù đã có một số định nghĩa như trên về khái niệm và nội hàm của chủ nghĩa đa phương, tuy nhiên cho đến nay giới học thuật quốc tế vẫn còn một số tranh luận. James Caporaso phàn nàn rằng chủ nghĩa đa phương đã được sử dụng để mô tả một loạt các hình thức hợp tác quốc tế khác nhau, nhưng vẫn chưa được khái niệm hoá một cách thỏa đáng. Một mặt, chủ nghĩa đa phương thường được dùng lẫn với các khái niệm liên quan như ''globalism'' ([[chủ nghĩa toàn cầu]]), và ''regionalism'' ([[chủ nghĩa khu vực]]). Các khái niệm này đều hàm ý về những hoạt động đối ngoại có sự tham gia của ba chủ thể trở lên trên các cấp độ địa lý khác nhau. Mặt khác, chủ nghĩa đa phương thường được dùng thay thế với ngoại giao đa phương và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, theo Caporaso, chủ nghĩa đa phương có phạm vi rộng hơn ngoại giao đa phương vốn gắn liền với các hoạt động của ngoại giao nhà nước ở cấp độ đa phương. CNĐP cũng không hoàn toàn đồng nhất với các tổ chức quốc tế ở chỗ chủ nghĩa đa phương không chỉ là các tổ chức cụ thể có trụ sở, nhân viên, ban thư kí… mà đó là khái niệm về cách thế giới được tổ chức như thế nào, hay rộng hơn là một lý tưởng để theo đuổi. Do đó việc xuất hiện nhiều tổ chức đa phương không đồng nghĩa với việc CNĐP rất phát triển.
  
Ngoài ra, vẫn còn những tranh luận giữa các trường phái lý thuyết quan hệ quốc tế về tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương, thể hiện qua vai trò của các thể chế quốc tế. Các lý thuyết quan hệ quốc tế đều thống nhất ở chỗ cho rằng các thể chế quốc tế ban đầu đều là sản phẩm được lập ra bởi ý chí chủ quan của các quốc gia, dựa trên những tính toán lợi ích riêng và mong muốn đạt được những lợi ích riêng đó thông qua hợp tác đa phương trong khuôn khổ thể chế. Tuy nhiên, các lý thuyết lại có cách nhìn nhận khác nhau việc chủ nghĩa đa phương được sử dung như là phương tiện hay mục tiêu để thực hiện chính sách của các quốc gia. Thuyết hiện thực cho rằng thể chế đa phương là công cụ quyền lực của các nước lớn, nhất là để giữ vững bá quyền của nước bá chủ. Thể chế quốc tế, do đó, không có vai trò gì lớn và sẽ suy yếu hoặc giải thể nếu không có sự ủng hộ hoặc tham gia của các nước lớn. Thuyết Mác-xít cũng coi chủ nghĩa đa phương là công cụ chính sách nhưng cho rằng việc tham gia các tổ chức quốc tế sẽ đem lại quyền lực cho nước yếu nhằm chống lại sự chi phối của nước mạnh. Trong khi đó, thuyết tự do và thuyết kiến tạo lại cho rằng các thể chế quốc tế sau khi được thành lập và vận hành sẽ có sự tồn tại độc lập và ảnh hưởng nhất định đối với các nước thành viên. Chủ nghĩa đa phương, theo hai cách tiếp cận này, được xem như là một mục tiêu cần đạt được, dựa trên những tính toán về khả năng tác động và ảnh hưởng ngược lại của các thể chế đa phương đối với cách hành xử cũng như quan niệm về lợi ích và kỳ vọng giữa các quốc gia với nhau.
+
Ngoài ra, vẫn còn những tranh luận giữa các trường phái lý thuyết quan hệ quốc tế về tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương, thể hiện qua vai trò của các thể chế quốc tế. Các lý thuyết quan hệ quốc tế đều thống nhất ở chỗ cho rằng các thể chế quốc tế ban đầu đều là sản phẩm được lập ra bởi ý chí chủ quan của các quốc gia, dựa trên những tính toán lợi ích riêng và mong muốn đạt được những lợi ích riêng đó thông qua hợp tác đa phương trong khuôn khổ thể chế. Tuy nhiên, các lý thuyết lại có cách nhìn nhận khác nhau việc CNĐP được sử dung như là phương tiện hay mục tiêu để thực hiện chính sách của các quốc gia. Thuyết hiện thực cho rằng thể chế đa phương là công cụ quyền lực của các nước lớn, nhất là để giữ vững bá quyền của nước bá chủ. Thể chế quốc tế, do đó, không có vai trò gì lớn và sẽ suy yếu hoặc giải thể nếu không có sự ủng hộ hoặc tham gia của các nước lớn. Thuyết Mác-xít cũng coi CNĐP là công cụ chính sách nhưng cho rằng việc tham gia các tổ chức quốc tế sẽ đem lại quyền lực cho nước yếu nhằm chống lại sự chi phối của nước mạnh. Trong khi đó, thuyết tự do và thuyết kiến tạo lại cho rằng các thể chế quốc tế sau khi được thành lập và vận hành sẽ có sự tồn tại độc lập và ảnh hưởng nhất định đối với các nước thành viên. CNĐP, theo hai cách tiếp cận này, được xem như là một mục tiêu cần đạt được, dựa trên những tính toán về khả năng tác động và ảnh hưởng ngược lại của các thể chế đa phương đối với cách hành xử cũng như quan niệm về lợi ích và kỳ vọng giữa các quốc gia với nhau.
  
 
Gần đây đã xuất hiện một số công trình về đa phương dựa trên sự phê phán các mạch lý luận được coi là quá thiên vào vai trò quyết định của các nước lớn và thế giới phương Tây (Eurocentric), do đó không phản ánh được sự phát triển của tiến trình ngoại giao đa phương ở một số khu vực khác với những đặc thù riêng biệt về ngoại giao đa phương. Điển hình là phân tích về tiến trình ngoại giao đa phương của các nước ASEAN. Theo nhận xét của Amitav Acharya, ASEAN hoạt động không theo hình thức bỏ phiếu theo đa số như ở các tổ chức đa phương khác mà dựa trên nguyên tắc “đồng thuận” và “phương cách ASEAN”. Xét rộng hơn, hợp tác đa phương ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương mang hai đặc điểm chính là ‘thể chế mềm’ (''soft institutionalism'') và ‘chủ nghĩa khu vực mở’ (''open regionalism'') dựa trên các thể chế do ASEAN - một tập hợp của các nước vừa và nhỏ - điều phối, khác với sự thể chế hoá ở mức độ cao trong hợp tác đa phương của EU. Nói cách khác, Amitav Acharya (1997) cho rằng “có một phương cách của châu Á (Asian Way) về chủ nghĩa đa phương.” Đây là những công trình quan trọng, mở ra hướng nghiên cứu so sánh giữa các khu vực khác nhau về quá trình hợp tác đa phương, dựa trên các điều kiện không gian và thời gian đặc thù. Tuy mức độ khái quát hóa có thể giảm đi nhưng lý thuyết về đa phương cũng bớt trừu tượng và bất cập hơn trước sự vận động liên tục của quan hệ quốc tế.
 
Gần đây đã xuất hiện một số công trình về đa phương dựa trên sự phê phán các mạch lý luận được coi là quá thiên vào vai trò quyết định của các nước lớn và thế giới phương Tây (Eurocentric), do đó không phản ánh được sự phát triển của tiến trình ngoại giao đa phương ở một số khu vực khác với những đặc thù riêng biệt về ngoại giao đa phương. Điển hình là phân tích về tiến trình ngoại giao đa phương của các nước ASEAN. Theo nhận xét của Amitav Acharya, ASEAN hoạt động không theo hình thức bỏ phiếu theo đa số như ở các tổ chức đa phương khác mà dựa trên nguyên tắc “đồng thuận” và “phương cách ASEAN”. Xét rộng hơn, hợp tác đa phương ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương mang hai đặc điểm chính là ‘thể chế mềm’ (''soft institutionalism'') và ‘chủ nghĩa khu vực mở’ (''open regionalism'') dựa trên các thể chế do ASEAN - một tập hợp của các nước vừa và nhỏ - điều phối, khác với sự thể chế hoá ở mức độ cao trong hợp tác đa phương của EU. Nói cách khác, Amitav Acharya (1997) cho rằng “có một phương cách của châu Á (Asian Way) về chủ nghĩa đa phương.” Đây là những công trình quan trọng, mở ra hướng nghiên cứu so sánh giữa các khu vực khác nhau về quá trình hợp tác đa phương, dựa trên các điều kiện không gian và thời gian đặc thù. Tuy mức độ khái quát hóa có thể giảm đi nhưng lý thuyết về đa phương cũng bớt trừu tượng và bất cập hơn trước sự vận động liên tục của quan hệ quốc tế.

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: