Sửa đổi Bánh cuốn/đang phát triển
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 5: | Dòng 5: | ||
'''Bánh cuốn''' trong thực tế không phải cách gọi nhất quán và hoàn toàn chính xác, mà chỉ là lối định danh phổ biến nhất từ hậu kì hiện đại<ref>[https://books.google.com/books?id=101_jqEgglwC&pg=PR15 T. H. Yellowdawn: ''Fermented Foods'' (2008); pp. 302–304]</ref>. Tại [[Việt Nam]], tùy mỗi phương ngữ lại có cách gọi khác nhau, dù bản chất hầu như không đổi, tỉ dụ : Bánh cuốn ([[Hà Nội]]), bánh quấn ([[Nam Định]]), bánh mướt ([[Bắc Trung Bộ]]), bánh ướt ([[Nam Bộ]])... Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp diễn âm '''quyển bính''' (卷餅) trong [[Hán văn]]. | '''Bánh cuốn''' trong thực tế không phải cách gọi nhất quán và hoàn toàn chính xác, mà chỉ là lối định danh phổ biến nhất từ hậu kì hiện đại<ref>[https://books.google.com/books?id=101_jqEgglwC&pg=PR15 T. H. Yellowdawn: ''Fermented Foods'' (2008); pp. 302–304]</ref>. Tại [[Việt Nam]], tùy mỗi phương ngữ lại có cách gọi khác nhau, dù bản chất hầu như không đổi, tỉ dụ : Bánh cuốn ([[Hà Nội]]), bánh quấn ([[Nam Định]]), bánh mướt ([[Bắc Trung Bộ]]), bánh ướt ([[Nam Bộ]])... Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp diễn âm '''quyển bính''' (卷餅) trong [[Hán văn]]. | ||
==Lịch sử== | ==Lịch sử== | ||
− | Theo tham cứu của tác gia [[Trần Quang Đức]], thực phẩm này đã xuất hiện ít nhất là trước thời [[Triều Hán|Hán]], được gọi '''xuân thái bính''' (春菜餅) hoặc '''xuân thái''' (春餅), là món chín, để phân biệt với [[Gỏi cuốn|hạ thái bính]] là món tái | + | Theo tham cứu của tác gia [[Trần Quang Đức]], thực phẩm này đã xuất hiện ít nhất là trước thời [[Triều Hán|Hán]], được gọi '''xuân thái bính''' (春菜餅) hoặc '''xuân thái''' (春餅), là món chín, để phân biệt với [[Gỏi cuốn|hạ thái bính]] là món tái. |
Nguyên thủy thực phẩm này là cách chế biến [[gạo]] thông thường để ăn cho đỡ ngán, cũng là tận dụng những gạo thừa và ít dưỡng chất. [[Gạo tẻ]] xay nhuyễn, đồ chín tráng mỏng, cuốn tròn lại, nhân chủ yếu là rau, có thể thêm chút [[thịt]] để tăng hương vị, dùng nguội với nước chấm. Ban sơ, đây là món rất sang, thường làm quà biếu hoặc dùng trong lễ lạt. Nguyên liệu nhìn chung giản dị dễ kiếm, song để được bánh ngon phải nhờ tay thợ khéo, nên từ xưa bánh cuốn đã là hàng hóa, hãn hữu lắm mới có người tự chế biến thưởng thức. | Nguyên thủy thực phẩm này là cách chế biến [[gạo]] thông thường để ăn cho đỡ ngán, cũng là tận dụng những gạo thừa và ít dưỡng chất. [[Gạo tẻ]] xay nhuyễn, đồ chín tráng mỏng, cuốn tròn lại, nhân chủ yếu là rau, có thể thêm chút [[thịt]] để tăng hương vị, dùng nguội với nước chấm. Ban sơ, đây là món rất sang, thường làm quà biếu hoặc dùng trong lễ lạt. Nguyên liệu nhìn chung giản dị dễ kiếm, song để được bánh ngon phải nhờ tay thợ khéo, nên từ xưa bánh cuốn đã là hàng hóa, hãn hữu lắm mới có người tự chế biến thưởng thức. |