Mục từ này cần được bình duyệt
Trần Quang Đức
Trần Quang Đức
Vân Trai chi ấn.
Vân Trai chi ấn.
Nguyên danh
Trần Quang Đức (陳光德)
Sinh(1985-05-16)16 tháng 5 năm 1985
Hải Phòng, Việt Nam
Hộ khẩuFlag of Hanoi (proposal).svg Hà Nội, Việt Nam
Văn bằngTHPT Thái Phiên
Đại học Bắc Kinh
Thể loạiVăn chương
Vinh danhGiải nhất Nhịp cầu Hán ngữ (2004)
Giải sách hay - Ngàn năm áo mũ (2014)
Trang chủ
TQDblog

Trần Quang Đức (sinh năm 1985 tại Hải Phòng) là một tác gia và dịch giả Việt Nam[1].

Sinh bình[sửa]

  • Nguyên danh : Trần Quang Đức (陳光德)
  • Biểu tự : Nam Phong (南風), Tam Uyển (三碗), Thí Phổ (施普)
  • Hiệu : Nam Quốc nhân (南國人), An Biên học sĩ (安邊學士)
  • Thất danh : Cao Trai (高齋), Vân Trai (雲齋)
  • Bút danh : Vân Nang (雲囊)
  • Pháp danh : An Biên cư sĩ (安邊居士)
  • Tôn xưng : Trần phu tử (陳夫子), Vân Trai tiên sinh (雲齋先生)

Ông Trần Quang Đức sinh ngày 16 tháng 05 năm 1985 tại thành phố Hải Phòng trong gia đình có truyền thống Nho phong. Thuở nhỏ, ông bắt đầu được ông nội hướng dẫn tự học và đọc Hán tự, sau đó tiếp thụ thêm mặt chữ Nôm.

Năm 2003, ông tất nghiệp trường THPT Thái Phiên (Hải Phòng), sau đó thi đỗ trường Đại học Ngoại ngữ Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên, năm 2004, ông đoạt giải nhất cuộc thi Nhịp cầu Hán ngữ nên nhận học bổng sang du học Đại học Bắc Kinh. Sau 4 năm ở Bắc Kinh, ông hồi hương và công tác tại Viện Văn học.

Ông bắt đầu được công luận Việt Nam chú ý với ấn phẩm Ngàn năm áo mũ[2], một công trình chuyên khảo lịch đại y quan An Nam từ quốc sơ tới trung đại mạt kì[3]. Những cứ liệu này đồng thời dẫn tới sự phản bác thành kiến bài xích Nho học, Hán tự và cả lịch sử văn học trung đại mà dư luận từ đầu thập niên 2000 duy trì tới thời điểm 2013 - khi sách được công bố. Tác phẩm này cũng lập tức khơi dậy trong giới trẻ trào lưu tìm về cội nguồn phong hóa Việt Nam vốn đã mai một từ thời kì lãnh chiến tang thương.

Ngàn năm áo mũ trở thành hiện tượng sách Hà Nội mùa hè năm 2013 với lượng tiêu thụ cả ngàn cuốn chỉ 2 tuần sau khi xuất bản. Thành công này khiến tác gia Trần Quang Đức quyết định rời Viện Văn học công tác tại Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam.

Nhìn lại quá khứ, chúng ta không thể thù ghét quá khứ. Với những gì trong quá khứ thì thế hệ sau cần phải tôn trọng chứ không phải rũ sạch. Bởi nếu giờ ta không tôn trọng quá khứ của ta thì con cháu sau này cũng không tôn trọng ta.

— Vân Trai Trần Quang Đức, tọa đàm ngày 07 tháng 10 năm 2014[4]
Với tôi, việc dạy học Hán Nôm là thông qua ngôn ngữ để nói về văn hóa tư tưởng, cũng như việc nghiên cứu, phục chế trang phục, thông qua áo mão để nói về phương thức sinh hoạt. Bất quá nhằm mang lại một cách nhìn, một hướng tiếp cận mới đối với những mặt tích cực của văn hóa Á Đông truyền thống, đặc biệt là văn hóa của giới trí thức tinh hoa xưa, trước khi bị cộng sản hóa.
Cái hay đẹp của nền văn hóa này không thể chỉ dựa vào các bài nghiên cứu mang nặng tính học thuật, hay mấy lời hô hào phát huy suông được. Từ phục trang, đến ngôn ngữ, tư tưởng... muốn hiểu cho rõ, không chỉ dừng lại ở việc được nghe thấy, được đọc thấy, mà còn phải được nhìn thấy, được cảm thấy.
Âu hóa, suy cho cùng, là định mệnh. Nhưng văn hóa truyền thống cũng không đáng bị phủ định sạch trơn.

— Vân Trai Trần Quang Đức, Áo xiêm chưa đổi hết, sách vở còn nguyên sao ?, Hà Nội, 2016

  • Năm 2010, trong một lần tầm khảo tại thư khố Viện Hán Nôm, ông Trần Quang Đức vô tình phát hiện một thủ cảo của tác gia Liễu Am Trần Danh Án nhan đề Tây Sơn hành (Tản Ông di tập, A.2157, TVVHN). Đây kì thực là một dâm thi mường tượng đêm tân hôn của Quang Trung đếNgọc Hân công chúa nhằm bỉ bác triều Tây Sơn[5]. Sự phát hiện này cung cấp thêm một áng văn đặc sắc cho dòng văn chương thời Lê mạt vốn ít cứ liệu.
  • Cận tết nguyên đán 2014, dư luận đả kích Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SHB) in tờ lịch có nội dung "sai lịch sử" hồ Hoàn Kiếm khi nói rằng vua Lê cầm kiếm đuổi rùa. Khi được báo giới phỏng vấn, ông Trần Quang Đức dẫn các sách Sơn cư tạp thuật, Tang thương ngẫu lục, Đại Nam nhất thống chí, Hà thành kim tích khảo để giải thích rằng : Đây chỉ là truyền thuyết chứ không phải lịch sử. Vả chăng, tình tiết "vua Lê trả kiếm" chỉ xuất hiện sớm nhất ở đầu thế kỉ XX trong Quốc văn giáo khoa thư, phỏng theo một chi tiết trong truyền thuyết Arthur. Trước thế kỉ XX, mọi thư tịch đều nói rằng, vua Lê cầm kiếm đuổi rùa hoặc ném rùa, vì thế nội dung lịch chí ít khớp với cổ thư[6].
  • Cuối năm 2017, trong quá trình tầm khảo tư liệu giúp nghiên cứu gia Nguyễn Duy Chính soạn loạt ấn phẩm về triều Quang Trung, ông Trần Quang Đức công bố một bức ảnh nhỏ do nhà Sotheby's chụp năm 1981, nguyên bản là một họa phẩm của tác gia Mậu Bính Thái, dựa theo lạc khoản để xác định là Tây Sơn Thái Tổ hoặc người đóng giả. Bức ảnh này nhằm minh diễn giả thuyết của tác giả Nguyễn Duy Chính rằng người sang mừng khánh tiết Thanh Thế Tông đế vẫn là Tây Sơn Thái Tổ chứ không phải "giả vương nhập cận". Trước sự công kích của dư luận, ông Trần Quang Đức nêu hai quan điểm : Chí ít họa phẩm cho cái nhìn khách quan nhất về bào phục đế vương triều Tây Sơn, thứ nữa, vua Quang Trung đâu nhất thiết phải cao to vạm vỡ như dân gian hiện đại tô vẽ. Đồng thời, ông khẳng định mình chỉ cung cấp tư liệu mới chứ chưa vội xác quyết dung mạo vua Quang Trung hay không, và phản bác những ý kiến ấu trĩ cho rằng triều Thanh cố ý bôi xấu hình ảnh vị quân vương này[7].

Trứ tác[sửa]

Thi phú
  • Thuật hoài (懷懷, 2010)
  • Dữ chư văn sĩ hoan ẩm hậu kí (與諸文士歡飲後記, 2010)
  • Gặp bọn dân phòng chặn xe vòi tiền (遭民防挡车索犯规费, 2010)
  • Xa phu hành (車夫行, 2011)
  • Bán dạ dự Vô Công Khuất Lão Nam Long hoan ẩm hậu cảm[8] (半夜與無公屈老南龍歡飲後感, 2011)
  • Trường tương ức (長相憶, 2011)
  • Khỏi ốm (2011)
  • Nhớ Khuất Lão (憶屈老, 2011)
  • Với Khuất Lão (與屈老, 2011)
  • Không cầm (空琴, 2012)
  • Như Hoằng Hóa hải than hữu cảm (如弘化海灘有感, 2012)
  • Chiều hẹn Tử Hư ở Hàng Giấy (暮會子虛於紙鋪, 2012)
  • Tặng Tiếu Chi sơn phòng chủ nhân[9] (贈笑之山房主人, 2012)
  • Vô ngữ chi thu (無語之秋, 2012)
  • Mộng hải (夢海, 2014)
  • Cảm tác trước thành nhà Hồ (2014)
  • Trùng dương (2015)
  • Hạ Tiếu ông nhi lập chi niên (賀笑翁而立之年, 2016)
  • Diêu hạ Nguyễn Trách Am đản thần thi nhất thủ (遙賀阮窄庵誕辰詩一首, 2016)
  • Chơi chùa Linh Ứng (游靈應寺, 2017)
  • Điểm hoa trà chiến (點花茶戰, 2020)
Tùng văn
  • Phá chấp luận (破執論, 2010)
  • Đại Việt quốc Lý gia Thái Tổ hoàng đế thiên đô kỉ sự bi[10] (大越國李家太祖皇帝遷都紀事碑, 2010)
  • Cao Trai nhàn lục (高齋閑錄, 2011)
  • Đồng Tử Hư tả Lậu Thất Minh (同子虛寫《陋室銘》, 2012)
  • Vân Trai tùng thoại (雲齋叢話, 2012)
  • Vân Nang tiểu sử (雲囊小史, 2013)
  • Du Kim Sơn động kí (游金山洞記, 2017)
Ấn bản
  • Ngàn năm áo mũ[11][12] (千古衣冠, 2013) - Chuyên khảo
  • Vân Trai vô đề tuyển lục (雲齋無題選錄, 2015) - Truyện kí
  • Mộng vân tập (夢雲集, 2018) - Thi tuyển
Dịch phẩm

三碗素不知儒之惡害,夢寐思之。一日,夢之曲阜問儒於孔子。初見,三碗不知其何如,脫口而曰:害!孔子一驚,疑有小子問海之所謂者,答曰:海,浩圖餘睹,青溝,萬里目。三碗忽醒,方知是時其妻子早起,朗讀西夷語。《安邊陳氏之高齋閑錄》
Tam Uyển tố bất tri Nho chi ô hại, mộng mị tư chi. Nhất nhật, mộng chi Khúc Phụ vấn Nho ư Khổng Tử. Sơ kiến, Tam Uyển bất tri kỳ hà như, thoát khẩu nhi viết : Hại [1]. Khổng Tử nhất kinh, nghi hữu tiểu tử vấn hải chi sở vị giả, đáp viết : Hải, hạo đồ dư đổ, thanh câu vạn lý mục [2]. Tam Uyển hốt tỉnh, phương tri thị thời kỳ thê tử tảo khỉ, lãng độc Tây Di ngữ (An Biên Trần thị chi Cao Trai nhàn lục).
Tam Uyển xưa nay không biết cái hại của Nho ra sao, đến nằm ngủ cũng suy nghĩ. Một hôm, mơ tới Khúc Phụ, hỏi Khổng Tử về đạo Nho. Vừa gặp, Tam Uyển chẳng biết thế nào, buột miệng nói : Hại. Khổng Tử giật mình, ngờ có học trò hỏi Biển là gì, bèn đáp : Biển, bức tranh rộng lớn, nom mãi không hết, ngòi nước màu xanh, ngút vạn dặm mắt. Tam Uyển bừng tỉnh, mới hay bấy giờ vợ con dậy sớm, đọc lớn tiếng Tây Di (trích trong Cao Trai nhàn lục của họ Trần người An Biên).
[1] Hi.
[2] Hi, how do you do, thank you very much.
— Vân Trai Trần Quang Đức, Mơ gặp Khổng hóa ra gặp vợ, Hà Nội, 2015

Tham khảo[sửa]

Liên kết[sửa]

Quốc văn
Ngoại văn