Mục từ này cần được bình duyệt
Văn học
(đổi hướng từ Văn chương)

Văn họcloại hình nghệ thuậtkhoa học phản ánh thế giới quan của người. Cho nên, ngành này được liệt vào khoa học xã hội.

Đặc tính tuần hoàn sinh diệt của phụng hoàng được người Á Đông tôn làm biểu tượng văn học. Hiện vật đất nung thời Hồ.

Thuật ngữ[sửa]

Thuật ngữ văn học trực tiếp phát xuất từ biệt ngữ Latin thế kỉ XII litteratura, diễn từ dụng ngữ littera[1] hàm nghĩa "thư tịch, kí lục". Trong nhãn quan Tây phương, văn học được hiểu rộng là những trứ tác làm sản phẩm của quá trình cống hiến trí tuệ hoặc nghệ thuật, cũng có thể hiểu sáng tác dưới tư tưởng mĩ học. Tuy nhiên, tại Đông phương, thuật ngữ này được hiểu giản dị hơn là khoa học nghiên cứu văn chương, nghĩa là phân biệt giữa văn chương (sáng tác) và văn học (khảo bình), mà từ văn chương tới văn học có thể còn khâu quá độ là san hành.

Tại Việt Nam, văn học thường được hiểu gồm các sinh hoạt sáng tác, xuất bản và nghiên cứu phê bình, gần đây có thể thêm phạm trù quảng cáo. Tựu trung, khái niệm văn học đã bao hàm các thuộc tính nghệ thuật, truyền thôngkhoa học. Phạm trù nhỏ cũng như căn bản nhất của văn học là văn ngôn và văn tự.

Ngôn ngữ (言語) ⇨ Văn chương (文章) ⇨ Trước thuật (著術) ⇨ Kiểm duyệt (檢閱) ⇨ San hành (刊行) ⇨ Quảng bá (廣播) ⇨ Văn học (文學)

Lịch sử[sửa]

Văn-học nằm ngoài những định-luật băng-hoại, chỉ mình nó không thừa-nhận cái chết.

Mikhayl Saltykov-Shchedrin, tựa Bông hồng vàng và bình minh mưa

Lịch sử văn học (văn học sử) nhất thiết liên đới sự phát triển nền văn minh, mà tại Á Đông thường gắn khái niệm văn học với văn hiến, ý nghĩa tương tự. Theo những cách hiểu thông dụng, văn học không nhất định phải gắn với kí tự, mà trái lại, văn học thường tồn tại bởi yếu tố khẩu truyền, thậm chí phát sinh vấn đề dị bản trong cùng tác phẩm. Ở hậu kì hiện đại, cụ thể là cuối thập niên 1990, văn học bắt đầu hiện diện trong hình thái thế giới ảo[2] do sự phát triển tích cực của kỉ nguyên số hóa, hay còn gọi mạng xã hội. Việc phát hành quảng bá các tác phẩm cổ kim kèm bài khảo bình trở nên vô cùng tiện lợi, vì thế, đưa văn học tới những thử thách mới và đổi hẳn phương thức lưu truyền tự xưa.

Khi tiến hành thống kê lịch đại văn chương, học giới thường chia theo các phạm trù nhằm tiện lợi hóa khâu nghiên cứu : Thể loại (trường phái), thể tài (phương thức), bố cục (cấu trúc), thi pháp, thì đại (giai đoạn), khu vực (địa phương). Trong các thế kỉ XIX-XX từng có quan niệm hẹp chia văn chương và văn học theo ý thức hệ (xu hướng chính trị, tông giáo, triết lý), nhưng từ đầu thập niên 2000 đã được loại trừ. Tựu trung, từ giác độ nghiên cứu, có thể liệt mọi biểu đạt ngôn luận vào văn học. Cũng vì thế, trong bối cảnh học giới thường tồn tại ý niệm văn sử triết bất phân (文史哲不分)[3] và coi là nguyên lý bất biến khi khảo sát vấn đề văn học bất kì.

Tuy nhiên, để việc khảo bình văn chương đạt hiệu quả cao nhất, nhà nghiên cứu phải nắm chắc thi họcmĩ học. Nhìn chung, văn học thường được đồng nhất với trước thuật, hoặc trước thuật là phần hệ trọng nhất của văn học.

Tham khảo[sửa]

Liên kết[sửa]

  1. Literature (n.), Online Etymology Dictionary, truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2014
  2. Văn học mạng là gì ? (Phạm Xuân Nguyên)
  3. Trong văn có sử - làm sao cho khỏi quá đà ?

Tài liệu[sửa]

Quốc văn
Ngoại văn

Tư liệu[sửa]

Quốc văn
Ngoại văn