Mục từ này cần được bình duyệt
Thư pháp gia/đang phát triển

Thư pháp gia (Hán văn : 書法家, Hi văn : Καλλιγράφος) được hiểu là những người thạo thư pháp và có khả năng đẩy văn tự lên tầm nghệ thuật[1].

Lịch sử[sửa]

Bút tích Thanh Hư động (清虛洞) của hoàng đế Trần Duệ Tông.
Thư pháp Latin.
Người Arab chuộng thư pháp trên gạch men và gốm ghép.

Thư pháp xuất hiện hầu như đồng thời với sự hình thành văn tự bởi nhu cầu trình bày trang nhã và minh bạch văn bản. Công cụ chính tạo nên thư phápbút và chất liệu lưu trữ văn tự, mà sau được hiểu gồm mựcgiấy. Thư pháp gia thường không nhất thiết phải là bậc trí giả nhưng ít nhiều được coi trọng nhờ vốn học vấn đủ để biên chép.

Trong thế giới Tây phương, thư pháp gia thường là hiền sĩ hoặc tăng lữ vì đặc thù thực dụng của thể chữ kí ngang mặt giấy. Ngược lại, ở thế giới Á Đông, thư pháp gia có sự phân cấp rất rõ : Thư pháp gia đã ít nhất một lần đậu khoa cử hoặc được kính nể cả tài năng và đức hạnh thì mặc nhiên liệt hạng tinh anh, những người này coi chữ của mình là vốn quý và chỉ đem tặng những ai thân thiết hay khả kính ; còn lại, thư pháp gia vốn do thi hỏng thì chẳng những không đủ tư cách dạy học mà còn bị cả sĩ lâm coi khinh, vì thế, đối với họ thì bán chữ thuần túy là cách mưu sinh. Những thư pháp gia có địa vị thấp thường bị lỡm là "vị sư bán tự" (lái "bán tự vi sư"), thi thoảng kiêm thêm nghề bói toán hoặc bốc thuốc làm kế sinh nhai.

Tại Việt Nam hậu kì hiện đại, do tình trạng kì thị cũng như đứt đoạn văn hóa Hán tự[2], nhiều người tự xưng thư pháp gia đi bán chữ theo lối cổ, nhưng thường phạm những điều kị của giới thư họa truyền thống : Không phân biệt được các thể Hán tự, không biết cách cầm bút, pha mực, thậm chí lạm dụng kí tự Latin vào thư pháp Hán (do bản thân họ không học Hán tự nghiêm túc)... Cho nên lớp người này bị giới nghiên cứu Hán-Nôm tẩy chay.

我國自廢漢學後,舊學者一時之間 不知所向。於是稍能寫一手好字者多坐路旁賣字謀生,時人謂之翁徒。然則,真儒以此為恥,常蔑視之,足見當時之謂翁徒者皆無品行之流也。再後來,本朝太祖皇 帝立國之初,翁徒日趨稀少,是故武公廷連乃作翁徒詩以示其懷古耳。後人愚痴,不知其臭美,皆謂翁徒踞坐賣字為美俗,且鼓吹之。德孟年間,翁徒驀然甚衆,亦多爲卑賤蠢陋者。武公翁徒詩本為國音詩,今譯為漢文,又附有引入以詳翁徒事跡(小注:翁徒,或譯為‘老秀才’此辭用不甚當。蓋老秀才,明稱國子監拔萃人才者)。
Ngã quốc tự phế Hán học hậu, cựu học giả nhất thời chi gian bất tri sở hướng. Ư thị sảo năng tả nhất thủ hảo tự giả đa tọa lộ bàng mại tự mưu sinh, thời nhân vị chi "ông đồ". Nhiên tắc, chân nho dĩ thử vi sỉ, thường miệt thị chi, túc kiến đương thời chi vị "ông đồ" giả giai vô phẩm hạnh chi lưu dã. Tái hậu lai, bản triều Thái Tổ hoàng đế lập quốc chi sơ, "ông đồ" nhật xu hi thiểu, thị cố Vũ công Đình Liên nãi tác "Ông đồ" thi dĩ thị kỳ hoài cổ nhĩ. Hậu nhân ngu si, bất tri kì xú mỹ, giai vị "Ông đồ" cứ tọa mại tự vi mỹ tục, thả cổ xuy chi. Đức Mạnh niên gian, "ông đồ" mạch nhiên thậm chúng, nhiên đa vi ti tiện xuẩn lậu giả. Vũ công "Ông đồ" thi bản vi Quốc âm thi, kim dịch vi Hán văn, hựu phụ hữu dẫn nhập dĩ tường "ông đồ" sự tích. (Tiểu chú : "Ông đồ" hoặc dịch vi "Lão tú tài", thử từ dụng bất thậm đáng. Cái "lão tú tài", Minh xưng Quốc Tử giám bạt tụy nhân tài giả).
Nước ta từ sau khi bỏ Hán học, những người theo lối cựu học nhất thời không biết phương hướng. Bấy giờ, nhiều người viết chữ hơi đẹp liền ra ngồi ngoài đường bán chữ mưu sinh, người đương thời gọi là "ông đồ". Song le, các bậc chân nho coi việc làm như vậy là sỉ nhục, thường miệt thị họ, đủ thấy bấy giờ "ông đồ" đều là bọn không có phẩm hạnh vậy. Sau đó, hồi đầu Thái Tổ hoàng đế của bản triều lập nước, "ông đồ" ngày một ít dần, bởi vậy ông Vũ Đình Liên mới viết bài thơ "Ông đồ" để tỏ cái ý hoài cổ của ông ta mà thôi. Người đời sau ngu si, không biết xấu tốt, đều coi việc "ông đồ" ngồi xổm bán chữ là thuần phong mỹ tục, rồi cổ xúy cho việc đó. Những năm Đức Mạnh, "ông đồ" đột nhiên xuất hiện rất nhiều, nhưng phần lớn là bọn ti tiện ngu xuẩn. Bài thơ "Ông đồ" của ông Vũ vốn là thơ Quốc âm, nay tôi dịch sang Hán văn, lại phụ chép thêm phần dẫn nhập để tỏ tường sự tích của "ông đồ" (Chú thích : Có người dịch "Ông đồ" là "Lão tú tài", từ này dùng không thích đáng. Chừng vì "lão tú tài" là từ nhà Minh gọi những người tài giỏi xuất chúng trong Quốc Tử giám vậy).

— Vân-trai Trần-quang-Đức, Lão đồ nhi, Hà Nội, 2016

Văn hóa[sửa]

"Đồ" giả Văn Miếu sai tư thế ngồi, cầm bút và dùng Latin trong thư pháp Hán. Những hình ảnh quen thuộc ở Việt Nam thập niên 2010 bị giới nghiên cứu cổ văn lên án.
  • Tây Âu trung đại, trang sức thủ bản (manuscriptum illuminatum) là trường phái mĩ thuật kết hợp giữa thư pháp và hội họa, đòi công phu cùng chất liệu tương đối đắt. Thư pháp gia thường là những linh mục có tài nghệ đặc biệt được chủng viện giao phó soạn nội dung liên quan đến thánh tích, các điều hay lạ trong dân gian cùng thời.
  • Thư pháp Á Đông được cho là hình thành từ thời Đông Châu Liệt Quốc với các thể kim văn, triện văn bắt nguồn từ giáp cốt văn. Đến nay còn giữ được một số bức thư pháp tương truyền của thư giả Vương Hi Chi đời Đông Tấn. Sau này có những Tống Huy Tông, Tô Thức, Đường Dần, Văn Trưng Minh... kế tục. Ở hiện đại, cố chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông cũng được coi là thư pháp gia trứ danh với trường phái Mao tự độc đáo.
  • Tại Việt Nam, những thư pháp gia có phẩm hạnh thấp thường được gọi đại khái thầy đồ, ông đồ, ông tú, tương đương học vị sinh đồtú tài. Thực tế, có rất ít thư pháp gia hạng này đạt danh vị đó, cho nên phải chọn nghề bán chữ nuôi thân, bị khinh miệt nhất trong sĩ lâm.

Chữ Hán được sử dụng tại Việt Nam ít nhất từ 2000 năm trước. Các triều đại phong kiến quân chủ độc lập tại Việt Nam đều coi chữ Hán, văn Hán là ngôn ngữ hành chính nhà nước, ngôn ngữ văn học... Thậm chí đến thời Nguyễn, triều đình Việt còn tự nhận là chủ thể kế thừa văn hóa, ngôn ngữ Hán chính thống, hơn nhà Thanh phía Bắc. Chữ Hán mất vị trí độc tôn, nhường vị thế cho chữ quốc ngữ kể từ đầu thế kỷ XX, đánh dấu bởi sự phế bỏ lối thi khoa cử cuối triều Nguyễn. Mặc dù không còn được coi trọng như trong quá khứ, chữ Hán vẫn tiếp tục được các nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc), Việt Nam Cộng hòa (miền Nam) sử dụng trong nhiều trường hợp quan phương. Chỉ sau khi nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành lập (1976), đặc biệt sau khi cuộc chiến Việt - Trung diễn ra (1979), chữ Hán mới chính thức bước ra khỏi vũ đài lịch sử và dần trở thành một thứ "chữ lạ", bị gán ghép với nhiều giá trị "lạ".''

— Vân-trai Trần-quang-Đức, Chữ Hán tại Việt Nam, Hà Nội, 2014

Mặc dù trình độ thư pháp gia không phải lúc nào cũng cao, những lớp người này góp phần khá trọng yếu trong lịch sử nhân loại ở khía cạnh làm đẹp văn tự, vô hình trung khiến văn bản trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, trong nhiều giai đoạn lịch sử, những kẻ lạm dụng danh xưng thư pháp gia để trục lợi lại vô tình làm tan biến cái hay của thư pháp.

Tham khảo[sửa]

Liên kết[sửa]

Tài liệu[sửa]

  • Oscar Ogg (1954), Three classics of Italian Calligraphy, an unabridged reissue of the writing books of Arrighi, Tagliente & Palatino, with an introduction, Dover publications inc. New York, USA
  • John Howard Benson & Arthur Graham Carrey (1940), The Ellements of Lettering, John Stevens, Newport, Rhode Island, printed by: D. B. Updike at The Merrymount Press, Boston
  • John Howard Benson (1955), The first writing book, an English translation & fascimile text of Arrighi's Operina, the first Manual of the chancery hand", London Oxford University press, Geoffrey Cumberlege New Haven Yale University Press.
  • Berthold Wolpe (1959), A newe writing booke of copies, 1574, A fascimile of a unique Elisabethan Writing book in the Bodleian Library Oxford, Lion and Unicorn Press, London
  • Diringer, D. (1968), The Alphabet: A Key to the History of Mankind, 1 (lxb. 3rd), London: Hutchinson & Co., tr. 441
  • Fairbank, Alfred, (1975). Augustino Da Siena, the 1568 edition of his writing book in fascimile, David R. Godine (Boston) & The Merrion Press, (London).
  • Fraser, M.; Kwiatowski, W. (2006), Ink and Gold: Islamic Calligraphy, London: Sam Fogg Ltd.
  • Gaze, T. & Jacobson, M. (editors), (2013). An Anthology Of Asemic Handwriting. Uitgeverij.
  • Johnston, E. (1909), "Plate 6", Manuscript & Inscription Letters: For schools and classes and for the use of craftsmen, San Vito Press & Double Elephant Press 10th Impression
  • Marns, F.A (2002) Various, copperplate and form, London
  • Mediavilla, Claude (2006), Histoire de la calligraphie française (trong français), Paris: Michel, ISBN 978-2-226-17283-9CS1 maint: ref=harv (link)
  • Shepherd, Margaret (2013), Learn World Calligraphy: Discover African, Arabic, Chinese, Ethiopic, Greek, Hebrew, Indian, Japanese, Korean, Mongolian, Russian, Thai, Tibetan Calligraphy, and Beyond, Crown Publishing Group, tr. 192, ISBN 978-0-8230-8230-8
  • Annemarie Schimmel, Calligraphy and Islamic Culture, New York University Press, 1984, ISBN 978-0-8147-7830-2
  • Wolfgang Kosack : Islamische Schriftkunst des Kufischen Geometrisches Kufi in 593 Schriftbeispielen. Deutsch – Kufi – Arabisch. 380 Seiten. Verlag Christoph Brunner, Basel 2014.

Tư liệu[sửa]