Hoa nương[1] là dụng ngữ xuất hiện sớm nhất từ thời Lê để mô tả phường gái hành nghề xướng kĩ.
Thuật ngữ[sửa]
Hoa nương (花娘) là lối gọi tắt của hoa mại nương (花賣娘), minh diễn là "phụ nữ hành nghề mại dâm". Theo biến thiên lịch sử lại có những cách gọi khác là nàng hoa, ả hoa, cô hoa, cái hoa, con hoa, gái bán hoa, gái hoa... hoặc giản lược đĩ (娼妓, 伎女, 妓女, 妓, 𡚦), tùy tình huống ứng xử và mức biểu thị tôn trọng hay không.
Ở hậu kì hiện đại, do văn hóa Hán tự đã mai một hoặc vì không hiểu nghĩa, truyền thông và công luận Việt Nam thường liệt hoa nương chung với đào nương (nữ lưu hành nghề xướng ca) và nặc nô (nữ lưu hành nghề thu nợ). Trong thực tế, đây là ba nghề chuyên biệt và có những giới luật tương đối khắt khe. Hoa nương thường bị coi là hạng ti tiện nhất, nhưng là đối tượng cảm hứng được giới văn nghệ khai thác nhiều nhất.
Hậu kì hiện đại còn lưu cách gọi không sát nghĩa lắm là gái đĩ, gái điếm hoặc đĩ điếm. Điếm (店) là những quán trọ ven đường cái, cũng là nơi hoa nương thường ở để kéo khách.
Lịch sử[sửa]
Theo chuyên khảo của tác gia Trần Quang Đức[2], thời Lê đĩ thường tập trung ở kinh thành, "chỗ nào cũng có", đặc biệt quanh quân doanh. Riêng hồi Lê mạt do có quá nhiều binh sĩ mắc bệnh giang mai nên triều đình đành phải "lùng bắt đĩ khắp các phố phường, cạo đầu, phạt trượng rồi đuổi đi". Mà theo một thi phẩm của hoàng đế Lê Thánh Tông (?), đĩ là phường gái giọng ẽo ợt, ra vẻ thanh tao, khi gặp tình nhân thì như "mèo thấy mỡ", "sụt sịt rằng tôi thương tôi nhớ", "bẻo lẻo chào anh ngược anh xuôi"... Vào năm 1501, hoàng đế Lê Hiến Tông từng ban lệnh cấm các quan tháp tùng mình không được dắt đĩ theo rồi bừa bãi tình dục.
Theo Sơn cư tạp thuật, "tục nước ta (xứ Bắc Hà) đối với việc phòng thân của đàn bà rất sơ lược, đã hở người lộ mặt, lại còn cùng con trai chung đường chung giếng, giẫm cỏ xem trò, lại còn cùng con trai kề vai chạm lưng, đến khi có người làm mối thì phần nhiều đã mất trinh rồi". Trong tác phẩm Histoire naturelle, civile et politique du Tonquin (Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đông Kinh), tác giả Richard cho biết "những người đàn bà bình dân có quyền tự do đi chơi và chăm lo những công việc bên ngoài, còn những người vợ quan lại và những người đàn bà đặc biệt khác thì bị quản lý chặt chẽ gần giống như những người đàn bà Trung Hoa. Nhiều phụ nữ này được coi như vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình cho người ngoại quốc với một cái giá rất xoàng và sau đó kịp thời kết hôn với người ngoại quốc kia. Người ta đã tìm họ chẳng qua vì những chuyện đó thôi. Họ được chọn chồng theo ý muốn, quyền hạn mà những phụ nữ Trung Hoa không có được".
Còn với đàn bà Nam Hà, nhà lữ hành John Barrow đã mô tả từ những năm 1792-3 rằng "họ được phép tự do luyến ái, ngay cả con gái quan lại cũng không ít cô cấu hiệp Tây lang hòng kiếm ít lợi lạc". Vài chục năm sau đó, hoàng đế Nguyễn Thánh Tổ nhận xét, "dân phong tập thói kiêu sa, dâm đãng", "đám đàn bà Gia Định rất dâm đãng", "bọn đàn bà dâm đãng, phóng túng, cư xử của chúng thật quá kinh tởm. Đàn ông vốn đã chơi bời phóng đãng thì sao đòi hỏi tiết hạnh ở đám vợ được ?".
Nước ta trước đây xướng-kĩ phần nhiều tập-trung ở kinh-sư và quân-phòng, chỗ nào cũng có, riêng phố Hàng-Chĩnh Hàng-Cau đông nhất. Đĩ phần nhiều bị giang-mai, tục gọi mụn Tiêm-La. Tương-truyền khi chinh-phạt Tiêm-La, tướng-sĩ mắc chứng này, về truyền-nhiễm cho nhau, đứa phóng-đãng trăng-hoa hay mắc-phải, có khi chết người. Sau năm Mậu-Thân [1788], tướng-sĩ trấn Bắc-Thành phần đông lây bệnh này, nguy-cấp khôn cứu, cấm cũng không dứt được. Bèn lùng-bắt đĩ khắp các phố-phường, cạo đầu, phạt trượng rồi đuổi đi. Đó cũng là một cách làm hay !
我國從前娼妓多聚京師軍房,在在有之,唯㽀肆、榔肆尤盛。妓多楊梅瘡,俗言暹羅瘡。相傳征暹羅時,將士得此癥,還相傳染,浪夫蕩子多得之,有至卒死者。戊申以後,鎮北城將士多染是瘡,危殆不救,禁之不能止,遂索諸坊庯娼妓,髡其頭,杖而逐之。是亦一快擧。— Đan Sơn, Sơn cư tạp thuật · Nữ lưu, An Nam quốc, thế kỉ XVIII
Từ sơ kì triều Nguyễn, triều đình An Nam áp dụng luật lệ triều Minh, phạt 60 trượng đối với quan lại và con em nhà quan qua đêm với đĩ. Nhưng luật này chỉ ở quan viên và con quan hưởng tập ấm, không đặt hình phạt nào cho kẻ mãi dâm và mại dâm.
Ngày 15 tháng 03 năm 1892, tại tỉnh Hà Nội, văn kiện Nghị định ấn định các thứ thuế thành phố được phép thu trong Hà Nội có quy định "bán thẻ cho gái mại dâm", tức là công nhận một nghề hợp pháp[3].
Văn hóa[sửa]
- Đường · Lý Hạ, Thân hồ tử tất lật ca : "Sóc khách đại hỉ, kình tràng khởi lập, mệnh hoa nương xuất mạc, bồi hồi bái khách" (朔客大喜,擎觴起立,命花娘出幕,裴回拜客).
- Tống · Mai Nghiêu Thần, Hoa nương ca : "Hoa nương thập nhị năng ca vũ, tịch thậm thanh danh cư nhạc phủ" (花娘十二能歌舞,籍甚聲名居樂府).
- Minh · Đào Tông Nghi, Chuyết canh lục · Phụ nữ viết nương : "Nhi thế vị ổn bà viết lão nương, nữ vu viết sư nương, đô hạ cập Giang Nam vị nam hích diệc viết sư nương, xướng phụ viết hoa nương" (而世謂穩婆曰老娘,女巫曰師娘,都下及江南謂男覡亦曰師娘,娼婦曰花娘).
- An Nam · Nguyễn Hữu Khanh, Vịnh Kiều[4][5] : "Mồ cỏ thương hoài con đĩ đượi, bóng hoa mê tít cậu đồ choai" (墓𦹵傷懷𡥵妓女代,𩃳花迷舅徒齋).
Phần Hoa giới[6] trong thi phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十戒孤魂國語文) được cho là của tác giả Lê Thánh Tông |
Trích thi phẩm Văn tế thập loại chúng sinh (文祭十類眾生) của tác giả Nguyễn Du |
---|---|
Biếng việc nữ công, Muốn bề nhan sắc. Giồi giẽ mi quang mặt phấn, Sắm lo bên lục má hồng. Răng đen cười hé nguyệt nga, lác ngờ hột đỗ, Trán rộng vạch ngang vân trận, mẽ tựa hoa mai. Nụ vàng giắt pha ngữ hạt trai, Quạt ngọc điểm đồi mồi xương vích, Biếc búp rong, tía rọc ráy, yếm chéo cánh, cạnh thêu, Lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống giang chân, thắt đáy, Tiếng thót ẻo à ẽo ợt, Nết làm chuộng quý chuộng thanh. Say mây mưa bàn tán mấy cơn, đón nhân tình bằng mèo thấy mỡ, Đắm trăng gió lân la đòi đoạn, mệt thế sự tựa kiến sa dầu. Chốc mòng quán Sở lầu Tần, Chấp chới ả Diêu nàng Ngụy. Quấn quýt sự anh sự ả. Dập dìu tin bướm tin ong. Làm bạn gửi, lấy chồng quyền, xụt xịt rằng tôi thương tôi thảm, Đưa người lâu, rước khách mới, bẻo lẻo chào anh ngược anh xuôi. |
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp, Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa, Ngẩn ngơ khi trở về già, Đâu chồng con tá biết là cậy ai ? Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đa, Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu ? |
Đầu thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam từng diễn ra cuộc tranh cãi gay gắt về giá trị của Truyện Kiều. Phái tôn sùng Kiều, đứng đầu là ông Phạm Quỳnh, hết mức ngợi ca rằng Kiều "vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc", để người Việt có thể "ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng : Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn...". Phẫn nộ trước giọng điệu này, Ngô Đức Kế phản bác : "Truyện Thanh Tâm tài nhân là tiểu thuyết hèn mạt bên Tàu, mà nay nước Việt Nam tôn phụng làm chính kinh chính sử, thiệt là rước lấy một cái đại sỉ nhục". Huỳnh Thúc Kháng thì thẳng thừng mạt sát "con đĩ Kiều kia có giá trị gì", "hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương phong bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều, gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít". Rõ ràng, cả hai giọng điệu trên đều cực đoan. Việc gán ghép Kiều với tệ trạng đồi phong bại tục đầu thế kỷ là khiên cưỡng, cũng hệt như việc gán Kiều với sự tồn vong của tiếng Việt, nước Việt.
Cuộc tranh cãi kể trên đã diễn ra hơn 80 năm. Ngày nay, theo lựa chọn của nền giáo dục Xã hội chủ nghĩa thì quan điểm của Phạm Quỳnh đã trở thành tư tưởng chính thống, chủ đạo. Từ nhà nghiên cứu cho chí giáo viên, học sinh, tất cả đều có chung một giọng điệu, một nếp nghĩ tôn sùng Kiều, coi Kiều là quốc hồn, quốc túy. Nhắc đến Kiều, mấy chục năm nay, ai cũng có chung một niềm thương xót, đau đớn. Và gần đây, vì một cái bìa sách có hình vẽ chấm phá nàng Kiều khỏa thân được một danh họa Việt Nam vẽ từ năm 1942, người ta cũng đỏ mặt tía tai, viện đủ cớ để lên án kịch liệt. Mỗi họa sĩ có quyền tưởng tượng để vẽ ra một cô Kiều cho riêng mình. Tranh vẽ Kiều khỏa thân, xưa nay không chỉ có một vài bức. Nhà sách nghiễm nhiên cũng có quyền lựa chọn tranh minh họa theo ý mình. Thậm chí, sau này, mỗi người đều có quyền phán xét Truyện Kiều, cũng như phán xét lịch sử - văn hóa nước mình. Vậy nên, xin đừng đem ý thức tập thể nhất thời ra làm vũ khí tấn công những người khác biệt.
Học văn không phải để nhằm tôn vinh, đẩy tác phẩm Việt Nam lên tầm thế giới, vũ trụ. Cũng như học sử, không phải để nhằm yêu nước, tự tôn dân tộc. Học gì cũng phải gắn nó với thực tế. Lý giải được quá khứ, hiện tại, để biết bản thân mình phải có trách nhiệm gì, phải làm gì cho hiện tại và tương lai. Học Kiều xong, chỉ biết thương Kiều trên sách vở, rồi một mực thần thánh hóa, thi vị hóa cô Kiều mà không biết đau, biết nhục khi biết bao cô gái Việt Nam phải kéo nhau ra nước ngoài làm đĩ, để có chung số phận với cô Kiều bên Tàu ; thế thì học và dạy như thế là vô nghĩa. Còn những kẻ động một chút lại giương bốn chữ "thuần phong mỹ tục" ra làm lệnh bài, dọa nạt người khác thì thực sự khả ố, đáng bị lên án. "Thuần phong mỹ tục" suy cho cùng chỉ là vỏ ngôn ngữ chuyển tải ý thức hệ Nho giáo của các ông hoàng bà chúa, là tầng lớp cai trị bên trên mà thôi. Văn hóa dân gian Việt Nam cũng như văn hóa dân gian nhiều nước khác, bao gồm cả Trung Quốc, vẫn có xu hướng coi trọng tính phồn thực ; các hành vi tính dục cũng tương đối tự do, như chính tác giả "Sơn cư tạp thuật" cuối thế kỷ XVIII ở ta từng ghi nhận : "Tục nước ta đối với việc phòng thân của đàn bà rất là sơ lược, đã hở người lộ mặt, lại còn cùng con trai chung đường chung giếng, giẫm cỏ xem chèo, lại còn cùng con trai kề vai chạm lưng, đến khi có người mai mối thì phần nhiều đã mất trinh rồi". Vậy nên, chốt lại là, xin hãy tôn trọng mọi sự khác biệt !— Vân Trai Trần Quang Đức, Không chỉ là bìa sách, Hà Nội, 19 tháng 11 năm 2015
Tham khảo[sửa]
Liên kết[sửa]
- ↑ Alexandre de Rhodes, [...] ; Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum ; Sacra Congregatio de Propaganda Fide, Roma, 1651.
- ↑ Mất trinh, gái điếm, chuyển giới và các sự lạ khác thời Lê
- ↑ Ganter, D (1895), Recueil de la législation en vigueur en Annam et au Tonkin [Vựng-tập văn-bản pháp-qui hiện-hành ở Trung-kì và Bắc-kì]
- ↑ 51 bài thơ Nôm vịnh Kiều
- ↑ Ngày xuân thưởng vịnh Kiều của cụ đồ làng Ngái
- ↑ Lê Quang Thái (2017-09), "Từ 'Thập giới cô hồn quốc ngữ văn' đến 'Văn tế thập loại chúng sinh'", Tạp chí Sông Hương, 343 Kiểm tra ngày tháng ở:
|date=
(trợ giúp)
Tài liệu[sửa]
- Quốc văn
- Đan Sơn, Sơn cư tạp thuật, An Nam quốc, thế kỉ XVIII
- Lê triều Quốc Sử viện, Đại Việt sử kí toàn thư, Đông Kinh, Bắc Hà, thế kỉ XVIII.
- Nguyễn Văn Thành, Võ Trinh, Trần Hựu ; Hoàng Việt luật lệ · Hình luật tạp kí, Huế, Trực Kì, An Nam quốc, 1815.
- Nguyễn triều Quốc Sử quán, Minh Mệnh chánh yếu, Huế, Trực Kì, An Nam quốc, 1840.
- Ngoại văn
- Sir John Barrow, A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793, London, Great Britain, 1806.
- Désiré Ganter, Recueil de la législation en vigueur en Annam et au Tonkin depuis l'origine du protectorat jusqu'au 1er mai 1895, Hanoï, Tonkin, Indochine, 1895-9.