Sửa đổi Thành nhà Hồ

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 5: Dòng 5:
 
Thành Tây Đô có vị trí và địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa, nằm giữa hai sông là Sông Mã và Sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam là nơi hợp lưu của Sông Bưởi và Sông Mã.
 
Thành Tây Đô có vị trí và địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa, nằm giữa hai sông là Sông Mã và Sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng, phía Tây có núi Ngưu Ngọa, phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam là nơi hợp lưu của Sông Bưởi và Sông Mã.
  
Thành Tây Đô bao gồm 2 vòng: vòng ngoài (Thành Ngoại) và vòng trong (Thành Nội). Thành Ngoại được đắp bằng đất với thể tích lên tới 100.000 m3 và có trồng tre gai dày cùng hào sâu vòng quanh rộng 10 - 20 m, cách tường thành ngoài 50 m, tạo thành chướng ngại vật để tăng cường tính phòng thủ. Bên trong Thành Ngoại là Thành Nội, có mặt bằng hình chữ nhật có kích thước gần vuông. Các số liệu về kích thước thành ghi chép trong sử sách không thống nhất. Phương pháp đo đạc thủ công cho kết quả khoảng 860 m, chênh lệch gần 20 m so với cách đo bằng máy móc hiện đại. Thành Nội cao đến 7 - 8 m, riêng tường chính phía Nam có độ cao 10 m. Mặt ngoài Thành Nội được xây từ đá khối theo chiều hơi nghiêng, càng lên cao các phiến đá càng nhỏ lại, còn mặt trong đắp đất nện chắc theo kiểu dốc thoải. Bốn cổng thành theo hướng chính Đông, chính Tây, chính Nam và chính Bắc, được đặt tên. Cổng Tiền là Cửa Nam, Cổng Hậu là Cửa Bắc, Đông Môn và Tây Môn. Các cổng xây theo kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi. Trong số 4 cổng thì cổng lớn nhất là Cổng Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,2 m. Phiến đá to nhất dài chừng 7m, cao 1,5 m, nặng cỡ 25 tấn, còn các tảng đá trung bình kích thước phổ biến là 2 m x 1 m x 0,7 m. Trong quá trình xây dựng thành, các tảng đá đa số nặng 15 - 20 tấn được đẽo gọt khá vuông vức và nhẵn nhụi, sau đó được nâng cao đến cỡ chục mét và ghép nối khít với nhau, không dùng chất kết dính.
+
Như các cấu trúc thành khác, thành Tây Đô bao gồm 2 vòng: vòng ngoài (Thành Ngoại) và vòng trong (Thành Nội). Thành Ngoại được đắp bằng đất với thể tích lên tới 100.000 m3 và có trồng tre gai dày cùng hào sâu vòng quanh rộng 10 - 20 m, cách tường thành ngoài 50 m, tạo thành chướng ngại vật để tăng cường tính phòng thủ. Bên trong Thành Ngoại là Thành Nội, có mặt bằng hình chữ nhật có kích thước gần vuông. Các số liệu về kích thước thành ghi chép trong sử sách không thống nhất. Phương pháp đo đạc thủ công cho kết quả khoảng 860 m, chênh lệch gần 20 m so với cách đo bằng máy móc hiện đại. Thành Nội cao đến 7 - 8 m, riêng tường chính phía Nam có độ cao 10 m. Mặt ngoài Thành Nội được xây từ đá khối theo chiều hơi nghiêng, càng lên cao các phiến đá càng nhỏ lại, còn mặt trong đắp đất nện chắc theo kiểu dốc thoải. Bốn cổng thành theo hướng chính Đông, chính Tây, chính Nam và chính Bắc, được đặt tên. Cổng Tiền là Cửa Nam, Cổng Hậu là Cửa Bắc, Đông Môn và Tây Môn. Các cổng xây theo kiểu vòm cuốn, đá xếp múi bưởi. Trong số 4 cổng thì cổng lớn nhất là Cổng Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,2 m. Phiến đá to nhất dài chừng 7m, cao 1,5 m, nặng cỡ 25 tấn, còn các tảng đá trung bình kích thước phổ biến là 2 m x 1 m x 0,7 m. Trong quá trình xây dựng thành, các tảng đá đa số nặng 15 - 20 tấn được đẽo gọt khá vuông vức và nhẵn nhụi, sau đó được nâng cao đến cỡ chục mét và ghép nối khít với nhau, không dùng chất kết dính.
  
 
Nối liền cửa Nam là đường Hoa Nhai lát đá chạy thẳng tắp, dài đến 2,5 km hướng đến Đàn Tế Nam Giao xây dựng vào năm 1402. Bên trong thành đường xá được quy hoạch theo ô vuông, nền đường có lát đá. Các cung điện, đền đài bên trong thành đã bị chiến tranh tàn phá và thời gian hủy hoại. Di tích còn lại cho tới ngày nay chỉ còn Thành Nội với 4 cổng còn khá nguyên vẹn. Trong số phế tích nổi bật là nền chính điện có chạm một đôi rồng đá rất đẹp dài tới 3,6 m.
 
Nối liền cửa Nam là đường Hoa Nhai lát đá chạy thẳng tắp, dài đến 2,5 km hướng đến Đàn Tế Nam Giao xây dựng vào năm 1402. Bên trong thành đường xá được quy hoạch theo ô vuông, nền đường có lát đá. Các cung điện, đền đài bên trong thành đã bị chiến tranh tàn phá và thời gian hủy hoại. Di tích còn lại cho tới ngày nay chỉ còn Thành Nội với 4 cổng còn khá nguyên vẹn. Trong số phế tích nổi bật là nền chính điện có chạm một đôi rồng đá rất đẹp dài tới 3,6 m.

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: