Mục từ này cần được bình duyệt
Mặt trăng
Phiên bản vào lúc 19:50, ngày 25 tháng 10 năm 2020 của Tttrung (Thảo luận | đóng góp)
Mặt trăng Biểu tượng Mặt trăng
Mặt trăng trên bầu trời đêm, quan sát từ Trái đất, theo chu kỳ quay quanh Trái đất, thể hiện các pha và sự lắc lư. Bề mặt Mặt trăng có các vùng sáng tối, các đốm màu không đều và các hố va chạm nằm rải rác với các kích thước khác nhau.
Mặt trăng nhìn từ Trái đất, theo chu kỳ quay quanh Trái đất, thể hiện các phasự lắc lư.
Danh pháp
Danh pháp
Trái đất I
Tên khác
  • Hằng Nga
  • Chị Hằng (văn thơ)
  • Nguyệt (Hán Việt)
Đặc trưng quỹ đạo
Kỷ nguyên J2000
Cận điểm quỹ đạo362600 km
(356400370400 km)
Viễn điểm quỹ đạo405400 km
(404000406700 km)
384 399 km  (0,00257AU)[1]
Độ lệch tâm quỹ đạo0,0549[1]
27,321661 ngày
(27 ngày 7 giờ 43 phút 11,5 s[1])
29,530589 ngày
(29 ngày 12 giờ 44 phút 2,9 s)
1,022 km/s
Độ nghiêng quỹ đạo5,145° so với hoàng đạo[2][↓ 1]
Lùi lại một vòng trong 18,61 năm
Dịch lên một vòng trong 8,85 năm
Vệ tinh tự nhiênTrái đất[↓ 2][3]
Tính chất vật lý
Bán kính trung bình
1737,4 km  
(0,2727 giá trị Trái đất)
[1][4][5]
Bán kính xích đạo
1738,1 km  
(0,2725 giá trị Trái đất)
[4]
Bán kính cực
1736,0 km  
(0,2731 giá trị Trái đất)
[4]
Độ dẹt0,0012[4]
Chu vi10921 km  (xích đạo)
3,793×107 km²  
(0,074 giá trị Trái đất)
Thể tích2,1958×1010 km³  
(0,020 giá trị Trái đất)[4]
Khối lượng7,342×1022 kg  
(0,012300 giá trị Trái đất)[1][4]
[6]
Mật độ trung bình
3,344 g/cm3[1][4]
0,606 giá trị Trái Đất
1,62 m/s2  (0,1654 g)[4]
0,3929 ±0,0009[7]
2,38 km/s
Chu kỳ quay thiên văn
27,321661 ngày  (đồng bộ)
Tốc độ quay xích đạo
4,627 m/s
Xích kinh cực bắc
  •  17giờ 47phút 26giây
  • 266,86°[9]
Xích vĩ cực bắc
65,64°[9]
Suất phản chiếu0,136 [10]
Nhiệt độ mặt tối thiểu trung bình tối đa
Xích đạo 100 K 220 K 390 K
85°B  150 K 230 K[11]
29,3 đến 34,1 phút cung[4][↓ 4]
Khí quyển[12]
Áp suất bề mặt
Thành phần theo thể tích

Mặt trăng là một thiên thể quay quanh Trái đất và là vệ tinh tự nhiên duy nhất của hành tinh này.[13][14][↓ 2] Trong Hệ Mặt trời, Mặt trăng là vệ tinh tự nhiên lớn thứ năm và nếu xét về tỷ lệ kích thước so với hành tinh mà nó quay quanh thì Mặt trăng đạt tỷ lệ này cao nhất.[↓ 6] Mặt trăng có mật độ khối lượng lớn thứ hai trong số các vệ tinh tự nhiên của Hệ Mặt trời, sau Io của Sao mộc.

Một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi cho rằng Mặt trăng được hình thành vào khoảng 4,51 tỷ năm trước, không lâu sau khi Trái đất hình thành, từ vật chất bắn ra sau một vụ va chạm lớn giữa Trái đất và một thiên thể giả định mang tên Theia có kích thước cỡ Sao hỏa. Nghiên cứu mới về đất đá Mặt trăng, tuy không phủ nhận giả thuyết về Theia, gợi ý tuổi Mặt trăng già hơn so với số liệu trước đây.[15]

Mặt trăng ở trong quỹ đạo đồng bộ với Trái đất, tức là chu kỳ tự quay của Mặt trăng bằng với chu kỳ quay quanh Trái đất, do đó nó luôn quay một mặt về phía Trái đất, là mặt nhìn được. Do Mặt trăng lắc qua lại theo thời gian, trong quan sát từ Trái đất, nhiều hơn một nửa diện tích Mặt trăng, 59%, có thể thấy được từ Trái đất.[16] Phần nhìn thấy của Mặt trăng có các biển Mặt trăng, là các vùng vật chất màu tối, để lại bởi hoạt động núi lửa cũ, nằm giữa các vùng vỏ cũ cao sáng màu, và các hố va chạm. Mặt trăng là thiên thể xuất hiện thường xuyên có độ sáng cao thứ hai trên trên bầu trời, đứng sau Mặt trời. Mặc dù bề mặt Mặt trăng chủ yếu gồm các vật chất tối màu, với suất phản chiếu chỉ cao hơn một chút so với nhựa đường, nhưng trong bầu trời đêm, nó vẫn sáng khi phản chiếu lại ánh sáng Mặt trời. Lực hấp dẫn của Mặt trăng gây ra thủy triều trên đại dương của Trái đất, đồng thời cũng gây ra hiệu ứng tương tự cho phần vỏ và lõi đất đá của Trái đất, và làm cho một ngày ở Trái đất bị dài hơn một chút.

Khoảng cách trung bình từ Mặt trăng đến Trái đất là 384402 km,[17] tương đương 1,28 giây ánh sáng, hay khoảng 30 lần đường kính Trái đất. Đường kính góc của Mặt trăng, trên bầu trời, tương đương với Mặt trời; do đó, trong nhật thực toàn phần, Mặt trăng che kín Mặt trời. Trong tương lai xa, khoảng cách từ Mặt trăng đến Trái đất sẽ tăng dần, và Mặt trăng sẽ xuất hiện nhỏ dần.

Vật thể nhân tạo đầu tiên được con người đưa lên Mặt trăng là tàu không người lái Luna 2 của Liên Xô, được cố ý cho đâm xuống bề mặt Mặt trăng vào tháng 9 năm 1959. Sau đó, vào năm 1966, tàu Luna 9 đã hạ cánh an toàn lên Mặt trăng. Chương trình Apollo của Hoa Kỳ những năm tiếp theo đã mang được con người lên Mặt trăng, với Apollo 8 năm 1968 lần đầu đưa người bay trên quỹ đạo quanh Mặt trăng, rồi Apollo 11 vào tháng 7 năm 1969 cùng 5 chuyến bay khác sau đó đã hạ cánh với con người và thiết bị lên thiên thể này. Các chuyến thám hiểm này đã mang về Trái đất đá Mặt trăng, được dùng để nghiên cứu và phát triển các hiểu biết về địa lý Mặt trăng, nguồn gốc hình thành Mặt trăngcấu trúc lõi Mặt trăng. Từ sau chuyến bay Apollo 17 năm 1972 đến hiện tại, chỉ có các tàu không người lái đến thám hiểm Mặt trăng.

Sự hiện diện của Mặt trăng trên bầu trời, theo chu kỳ pha Mặt trăng, đã để lại dấu ấn trong xã hội và văn hóa của loài người. Ảnh hưởng trong văn hóa xã hội thể hiện ở ngôn ngữ, hệ thống lịch Mặt trăng, nghệ thuật, và thần thoại.

Nguồn gốc hình thành

Mặt trăng hình thành vào 4,51 tỷ năm trước,[↓ 7] khoảng 60 triệu năm sau khi Hệ Mặt trời hình thành. Đã có nhiều giả thuyết về nguồn gốc hình thành Mặt trăng,[18] như giả thuyết về vật chất văng ra từ Trái đất bởi lực ly tâm sau đó tập hợp lại thành Mặt trăng[19] - giả thuyết này đòi hỏi Trái đất phải quay nhanh đến mức phi thực tế,[20] - hoặc giả thuyết rằng trường hấp dẫn của Trái đất đã thu hút thiên thể Mặt trăng đến từ nơi khác[21] - một giả thuyết đòi hỏi một khí quyển Trái đất quá lớn để hấp thụ động năng của Mặt trăng khi nó bay tới Trái đất[20] - và giả thuyết về sự hình thành cùng lúc của Trái đất và Mặt trăng từ đĩa bồi tụ khi Hệ Mặt trời đang hình thành - giả thuyết này không giải thích được tại sao Mặt trăng lại có ít kim loại hơn hẳn so với Trái đất.[20] Các giả thuyết trên cũng không giải thích được mômen động lượng khá lớn của hệ Trái đất - Mặt trăng.[22]

Giả thuyết được nhiều tác giả chấp nhận là hệ Trái đất - Mặt trăng được hình thành sau một vụ va chạm lớn giữa một thiên thể có kích thước vào cỡ Sao hỏa, tên là Theia, với thiên thể tiền Trái đất. Vụ va chạm đã làm văng nhiều vật liệu vào quỹ đạo của Trái đất và các vật liệu này bồi tụ lại dần dần, hình thành nên Mặt trăng.[23][24]

Nửa tối của Mặt trăng có vỏ dày hơn khoảng 50 km so với nửa sáng. Điều này được cho là do Mặt trăng được ghép lại từ hai phần khác nhau.[cần chú thích]

Giả thuyết này, tuy còn những điểm chưa hoàn hảo, có khả năng giải thích tốt nhất các bằng chứng thực nghiệm. 18 tháng trước khi diễn ra một hội nghị khoa học về nguồn gốc Mặt trăng tổ chức vào tháng 10 năm 1984, Bill Hartmann, Roger Phillips, và Jeff Taylor thách thức những người đồng nghiệp cùng nghiên cứu về Mặt trăng: "Các bạn có 18 tháng. Hãy xem lại dữ liệu thu được từ các chuyến thám hiểm của Apollo, dùng máy tính của các bạn, làm mọi thứ các bạn có thể làm, nhưng các bạn cần ra được kết quả. Đừng đến dự hội nghị nếu các bạn chưa có gì để nói về nguồn gốc Mặt trăng." Vào hội nghị năm 1984 ở Kona, Hawaii, giả thuyết vụ va chạm lớn bắt đầu được đa số tán thành là hợp lý nhất.

Trước hội nghị này, có các lực lượng ủng hộ ba giả thuyết "truyền thống", cộng với vài người bắt đầu nghiêm túc xem xét lý thuyết va chạm lớn, và rất nhiều người khác không có quan điểm rõ ràng và cho rằng cuộc tranh luận sẽ không bao giờ kết thúc. Sau hội nghị, cơ bản chỉ còn có hai nhóm: phe va chạm lớn và phe bất khả tri.[25]

Thông tin tham khảo

Chú thích

  1. Khoảng từ 18.29° đến 28.58° so với xích đạo Trái đất.[1]
  2. a b Có một số tiểu hành tinh gần Trái đất, bao gồm 3753 Cruithne, cùng quỹ đạo với Trái đất: quỹ đạo của chúng khiến chúng có những thời gian di chuyển vào gần Trái Đất rồi sau đó lại rời xa (Morais và Morbidelli 2002). Chúng là các giả vệ tinh – chúng không phải vệ tinh tự nhiên của Trái đất do không quay quanh Trái đất. Xem thêm các vệ tinh tự nhiên của Trái đất.
  3. Giá trị lớn nhất được tính cho khoảng cách gần nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 350 600 km, dựa trên số liệu gốc là −12.74 ứng với khoảng cách từ xích đạo đến tâm Mặt trăng là 378 000 km theo tài liệu tra cứu của NASA. Giá trị nhỏ nhất (ứng với khoảng cách đến Mặt trăng mới) được tính giống như trên cho khoảng cách xa nhất từ Trái đất đến Mặt trăng, 407 000 km (theo tài liệu tra cứu của NASA) cộng thêm độ sáng do ánh sáng từ Trái đất chiếu lên Mặt trăng. Độ sáng do ánh sáng Trái đất gây ra được tính bằng công thức [ suất phản chiếu của Trái đất × (bán kính Trái đất / bán kính quỹ đạo Mặt trăng)2 ] × độ sáng trực tiếp do Mặt trời chiếu vào Mặt trăng tròn. Ở đây, suất phản chiếu của Trái đất = 0.367; bán kính Trái đất = (bán kính cực × bán kính xích đạo)½ = 6 367 km.
  4. Dải giá trị kích thước góc: giá trị lớn nhất ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng nhỏ nhất là 350 600 km, và giá trị nhỏ nhất ứng với khoảng cách trên lớn nhất là 407 000 km. Các giá trị này được suy ra từ giá trị 1896 giây cung ứng với khoảng cách xích đạo Trái Đất đến tâm Mặt Trăng 378 000 km, theo tài liệu tra cứu của NASA.
  5. Lucey và các tác giả khác 2006 ghi giá trị 107 hạt cm−3 vào ban ngày và 105 hạt cm−3 vào ban đêm. Với nhiệt độ bề mặt ở xích đạo 390 K vào ban ngày và 100 K vào ban đêm, định luật khí lý tưởng cho ra áp suất được ghi ở hộp thông tin: 10−7 Pa vào ban ngày và 10−10 Pa vào ban đêm.
  6. Mặt trăng có đường kính bằng 27%, mật độ khối lượng bằng 60%, và khối lượng bằng 1,23% các giá trị tương ứng của Trái Đất. Charon có tỷ lệ kích thước so với Pluto lớn hơn, nhưng Pluto hiện nay không được xếp là hành tinh, mà được xếp loại là hành tinh lùn (Lowrie 2007, tr. 5).
  7. Tuổi của Mặt trăng từ đồng vị phóng xạ Zircon của Mặt trăng.

Tham khảo

  1. a b c d e f g Wieczorek, Mark A.; et al. (2006), "The constitution and structure of the lunar interior", Reviews in Mineralogy and Geochemistry, 60 (1): 221–364, Bibcode:2006RvMG...60..221W, doi:10.2138/rmg.2006.60.3, S2CID 130734866, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  2. a b Lang, Kenneth R. (2011), The Cambridge Guide to the Solar System' (lxb. 2nd), Cambridge University Press, ISBN 9781139494175, lưu trữ từ nguyên tác ngày 1 tháng 1 năm 2016
  3. Morais và Morbidelli 2002
  4. a b c d e f g h i j Williams, Dr. David R. (ngày 2 tháng 2 năm 2006), Moon Fact Sheet, NASA/National Space Science Data Center, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008
  5. Smith, David E.; Zuber, Maria T.; Neumann, Gregory A.; Lemoine, Frank G. (ngày 1 tháng 1 năm 1997), "Topography of the Moon from the Clementine lidar", Journal of Geophysical Research, 102 (E1): 1601, Bibcode:1997JGR...102.1591S, doi:10.1029/96JE02940, hdl:2060/19980018849, S2CID 17475023, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  6. Terry 2013, tr. 226
  7. Williams, James G.; Newhall, XX; Dickey, Jean O. (1996), "Lunar moments, tides, orientation, and coordinate frames", Planetary and Space Science, 44 (10): 1077–1080, Bibcode:1996P&SS...44.1077W, doi:10.1016/0032-0633(95)00154-9
  8. Makemson, Maud W. (1971), "Determination of selenographic positions", The Moon, 2 (3): 293–308, Bibcode:1971Moon....2..293M, doi:10.1007/BF00561882, S2CID 119603394
  9. a b Archinal, Brent A.; A'Hearn, Michael F.; Bowell, Edward G.; Conrad, Albert R.; Consolmagno, Guy J.; Courtin, Régis; et al. (2010), "Report of the IAU Working Group on Cartographic Coordinates and Rotational Elements: 2009" (PDF), Celestial Mechanics and Dynamical Astronomy, 109 (2): 101–135, Bibcode:2011CeMDA.109..101A, doi:10.1007/s10569-010-9320-4, S2CID 189842666, lưu trữ từ nguyên tác (PDF) ngày 4 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2018 also available via usgs.gov (PDF), lưu trữ (PDF) từ tài liệu gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019, truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2018
  10. Matthews, Grant (2008), "Celestial body irradiance determination from an underfilled satellite radiometer: application to albedo and thermal emission measurements of the Moon using CERES", Applied Optics, 47 (27): 4981–4993, Bibcode:2008ApOpt..47.4981M, doi:10.1364/AO.47.004981, PMID 18806861
  11. A.R. Vasavada; D.A. Paige & S.E. Wood (1999), "Near-Surface Temperatures on Mercury and the Moon and the Stability of Polar Ice Deposits", Icarus, 141 (2): 179–193, Bibcode:1999Icar..141..179V, doi:10.1006/icar.1999.6175, S2CID 37706412, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  12. Lucey và các tác giả khác 2006
  13. Bùi Phương Nga 2011, tr. 118
  14. Lowrie 2007, tr. 8
  15. Maxwell M. Thiemens; Peter Sprung; Raúl O. C. Fonseca; Felipe P. Leitzke; Carsten Münker (2019), "Early Moon formation inferred from hafnium–tungsten systematics", Nature Geoscience, 12: 696–700, doi:10.1038/s41561-019-0398-3, truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2020
  16. Alan Cook; Adam Hilger (1988), The Motion of the Moon, ISBN 0852743483
  17. Scott, Elaine (2016), Our Moon: New discoveries about Earth's closest companion, Houghton Mifflin Harcourt, tr. 7, ISBN 978-0-544-75058-6
  18. Barboni, M.; Boehnke, P.; Keller, C.B.; Kohl, I.E.; Schoene, B.; Young, E.D.; McKeegan, K.D. (2017), "Early formation of the Moon 4.51 billion years ago", Science Advances, 3 (1): e1602365, Bibcode:2017SciA....3E2365B, doi:10.1126/sciadv.1602365, PMC 5226643, PMID 28097222
  19. Binder, A.B. (1974), "On the origin of the Moon by rotational fission", The Moon, 11 (2): 53–76, Bibcode:1974Moon...11...53B, doi:10.1007/BF01877794, S2CID 122622374
  20. a b c Stroud, Rick (2009), The Book of the Moon, Walken and Company, tr. 24–27, ISBN 978-0-8027-1734-4, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019
  21. Mitler, H.E. (1975), "Formation of an iron-poor moon by partial capture, or: Yet another exotic theory of lunar origin", Icarus, 24 (2): 256–268, Bibcode:1975Icar...24..256M, doi:10.1016/0019-1035(75)90102-5
  22. Stevenson, D.J. (1987), "Origin of the moon–The collision hypothesis", Annual Review of Earth and Planetary Sciences, 15 (1): 271–315, Bibcode:1987AREPS..15..271S, doi:10.1146/annurev.ea.15.050187.001415, S2CID 53516498, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 19 tháng 8 năm 2020, truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2019
  23. Taylor, G. Jeffrey (ngày 31 tháng 12 năm 1998), "Origin of the Earth and Moon", Planetary Science Research Discoveries, Hawai'i Institute of Geophysics and Planetology, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 10 tháng 6 năm 2010, truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2010
  24. Asteroids Bear Scars of Moon's Violent Formation, ngày 16 tháng 4 năm 2015, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 8 tháng 10 năm 2016
  25. Dana Mackenzie (21 tháng 7 2003), The Big Splat, or How Our Moon Came to Be, John Wiley & Sons, tr. 166–168, ISBN 978-0-471-48073-0, lưu trữ từ tài liệu gốc 17 tháng 6 2020, truy cập 11 tháng 6 2019

Nguồn tài liệu

Xem thêm

Liên kết ngoài