Sửa đổi Luận đề Church-Turing

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 17: Dòng 17:
 
Về mặt thuật ngữ, thủ tục hiệu quả chính là khái niệm thuật toán theo nghĩa trực giác.
 
Về mặt thuật ngữ, thủ tục hiệu quả chính là khái niệm thuật toán theo nghĩa trực giác.
  
==Luận đề Church==
+
Luận đề Church
  
 
Để giải bài toán của Hilbert, Church sáng tạo ra hệ thống ký hiệu gọi là phép tính lambda (λ-calculus). Các phép tính này sau đó được Stephen Kleene chứng minh là tương đương với khái niệm hàm đệ qui Herbrand-Gödel (hay ngắn gọn là hàm đệ quy). Với kết quả này Church tin tưởng rằng:
 
Để giải bài toán của Hilbert, Church sáng tạo ra hệ thống ký hiệu gọi là phép tính lambda (λ-calculus). Các phép tính này sau đó được Stephen Kleene chứng minh là tương đương với khái niệm hàm đệ qui Herbrand-Gödel (hay ngắn gọn là hàm đệ quy). Với kết quả này Church tin tưởng rằng:
Dòng 25: Dòng 25:
 
Chú ý rằng “luận đề” có ý nghĩa như một định nghĩa, một tiên đề, không cần phải chứng minh. Vấn đề là ta có tin rằng các hàm đệ qui nắm bắt được mấu chốt của khái niệm thuật toán hay không mà thôi.
 
Chú ý rằng “luận đề” có ý nghĩa như một định nghĩa, một tiên đề, không cần phải chứng minh. Vấn đề là ta có tin rằng các hàm đệ qui nắm bắt được mấu chốt của khái niệm thuật toán hay không mà thôi.
  
==Luận đề Turing==
+
Luận đề Turing
  
 
Turing sáng tạo ra mọt mô hình "máy" để hình thức hóa khái niệm thuật toán. Máy này, thường được gọi là máy Turing, đuợc thiết kế để bắt chuớc quá trình tính toán của con nguời. Turing đã phân tích rất chi tiết các hành vi tính toán của con người để thuyết phục rằng máy Turing nắm bắt được khái niệm thuật toán.
 
Turing sáng tạo ra mọt mô hình "máy" để hình thức hóa khái niệm thuật toán. Máy này, thường được gọi là máy Turing, đuợc thiết kế để bắt chuớc quá trình tính toán của con nguời. Turing đã phân tích rất chi tiết các hành vi tính toán của con người để thuyết phục rằng máy Turing nắm bắt được khái niệm thuật toán.
Dòng 33: Dòng 33:
 
Hơn nữa, Turing chứng minh rằng các hàm tính được bởi máy Turing và bởi phép tính lambda là trùng nhau. Do đó luận đề của Church và luận đề của Turing có ý nghĩa tương đương và thường được gọi chung đó là luận đề Church-Turing.
 
Hơn nữa, Turing chứng minh rằng các hàm tính được bởi máy Turing và bởi phép tính lambda là trùng nhau. Do đó luận đề của Church và luận đề của Turing có ý nghĩa tương đương và thường được gọi chung đó là luận đề Church-Turing.
  
==Máy Turing==
+
Máy Turing
  
 
Ngày nay, máy Turing được thừa nhận rộng rãi như một mô hình toán học của máy tính. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, tại thời điểm mà Turing giới thiệu máy của mình, máy tính chưa xuất hiện. Trên thực tế, Turing đã thiết kế máy nhằm mô phỏng hành vi tính toán của con người chứ không phải của máy tính.
 
Ngày nay, máy Turing được thừa nhận rộng rãi như một mô hình toán học của máy tính. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, tại thời điểm mà Turing giới thiệu máy của mình, máy tính chưa xuất hiện. Trên thực tế, Turing đã thiết kế máy nhằm mô phỏng hành vi tính toán của con người chứ không phải của máy tính.
Dòng 49: Dòng 49:
 
Dựa vào những phân tích ở trên, máy Turing được mô tả như sau. Máy có một đầu đọc-viết, có một số hữu hạn trạng thái bên trong, và có một băng tuyến tính được xem là vô hạn về bên phải để lưu thông tin. Băng này được chia thành các ô, mỗi ô chứa một ký hiệu thuộc một bảng chữ cái hữu hạn. Tại mỗi bước tính toán, máy quan sát ký hiệu tại vị trí hiện tại trên băng. Dựa trên ký hiệu này và trạng thái bên trong, máy thực hiện
 
Dựa vào những phân tích ở trên, máy Turing được mô tả như sau. Máy có một đầu đọc-viết, có một số hữu hạn trạng thái bên trong, và có một băng tuyến tính được xem là vô hạn về bên phải để lưu thông tin. Băng này được chia thành các ô, mỗi ô chứa một ký hiệu thuộc một bảng chữ cái hữu hạn. Tại mỗi bước tính toán, máy quan sát ký hiệu tại vị trí hiện tại trên băng. Dựa trên ký hiệu này và trạng thái bên trong, máy thực hiện
  
# Cập nhật ký hiệu tại vị trí hiện tại trên băng;
+
1. Cập nhật ký hiệu tại vị trí hiện tại trên băng;
# Cập nhật trạng thái bên trong; và
+
 
# Di chuyển một bước sang phải hoặc trái trên băng.
+
2. Cập nhật trạng thái bên trong; và
 +
 
 +
3. Di chuyển một bước sang phải hoặc trái trên băng.
  
 
Nếu ta ký hiệu <math>\Gamma</math> là bảng chữ cái của ký hiệu trên băng, và ký hiệu Q là tập trạng thái bên trong của máy, thì hành vi của máy có thể viết như một hàm chuyển,
 
Nếu ta ký hiệu <math>\Gamma</math> là bảng chữ cái của ký hiệu trên băng, và ký hiệu Q là tập trạng thái bên trong của máy, thì hành vi của máy có thể viết như một hàm chuyển,
Dòng 63: Dòng 65:
 
Trong quá trình tính toán, máy thực hiện tính toán theo các luật được mô tả bởi hàm chuyển. Máy sử dụng băng như không gian làm việc: đọc và viết các ký hiệu trên băng. Các ký hiệu trên băng biểu diễn kết quả trung gian của quá trình tính toán. Máy sẽ tính toán cho đến khi đạt đến một trạng thái đặc biệt gọi là trạng thái dừng. Khi đó, các ký hiệu còn lại trên băng chính là kết quả tính toán.
 
Trong quá trình tính toán, máy thực hiện tính toán theo các luật được mô tả bởi hàm chuyển. Máy sử dụng băng như không gian làm việc: đọc và viết các ký hiệu trên băng. Các ký hiệu trên băng biểu diễn kết quả trung gian của quá trình tính toán. Máy sẽ tính toán cho đến khi đạt đến một trạng thái đặc biệt gọi là trạng thái dừng. Khi đó, các ký hiệu còn lại trên băng chính là kết quả tính toán.
  
==Lịch sử vấn đề==
+
Lịch sử vấn đề
  
 
Các nhà toán học đã nghiên cứu về thuật toán từ rất sớm. Ví dụ thuật toán Euclid tìm ước chung lớn nhất của hai số nguyên dương đã xuất hiện từ 300 năm trước Công nguyên. Dù vậy, trước năm 1930, người ta không quan tâm đến việc hình thức hóa khái niệm thuật toán. Các nhà toán học đã xem việc tồn tại thuật toán là hiển nhiên. David Hilbert đã kêu gọi việc tìm lời giải thuật toán cho một số bài toán cụ thể, như bài toán thứ mười về tìm nghiệm nguyên của phương trình Diophantine, hay bài toán quyết định (Entscheidungsproblem) về việc kiểm tra một phát biểu toán học là đúng hay sai khi cho trước một tập các tiên đề và các luật suy luận.
 
Các nhà toán học đã nghiên cứu về thuật toán từ rất sớm. Ví dụ thuật toán Euclid tìm ước chung lớn nhất của hai số nguyên dương đã xuất hiện từ 300 năm trước Công nguyên. Dù vậy, trước năm 1930, người ta không quan tâm đến việc hình thức hóa khái niệm thuật toán. Các nhà toán học đã xem việc tồn tại thuật toán là hiển nhiên. David Hilbert đã kêu gọi việc tìm lời giải thuật toán cho một số bài toán cụ thể, như bài toán thứ mười về tìm nghiệm nguyên của phương trình Diophantine, hay bài toán quyết định (Entscheidungsproblem) về việc kiểm tra một phát biểu toán học là đúng hay sai khi cho trước một tập các tiên đề và các luật suy luận.
Dòng 81: Dòng 83:
 
Còn Gödel, dù trước đó không bị thuyết phục rằng các hàm tính được đều là hàm đệ quy, sau khi đọc các phân tích của Turing, đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng máy Turing chính là khái niệm thuật toán theo nghĩa trực giác.
 
Còn Gödel, dù trước đó không bị thuyết phục rằng các hàm tính được đều là hàm đệ quy, sau khi đọc các phân tích của Turing, đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng máy Turing chính là khái niệm thuật toán theo nghĩa trực giác.
  
==Thông tin bổ sung==
+
Thông tin bổ sung
  
Liệu có thể chứng minh Luận đề Church-Turing? Về lý thuyết, điều này là không thể vì thuật toán theo nghĩa trực giác không phải là một khái niệm toán học chính xác. Tuy nhiên, cho đến nay, thực tiễn luôn chứng minh rằng luận đề đó là đúng đắn; người ta chưa tìm ra được hàm nào tính được (bằng thuật toán) theo một nghĩa trực giác hợp lý nào đó mà không tính được bằng máy Turing. Hơn nữa, một số bằng chứng kinh nghiệm sau đây ủng hộ Luận đề Church-Turing:
+
Liệu có thể chứng minh LDCT? Về lý thuyết, điều này là không thể vì thuật toán theo nghĩa trực giác không phải là một khái niệm toán học chính xác. Tuy nhiên, cho đến nay, thực tiễn luôn chứng minh rằng luận đề đó là đúng đắn; người ta chưa tìm ra được hàm nào tính được (bằng thuật toán) theo một nghĩa trực giác hợp lý nào đó mà không tính được bằng máy Turing. Hơn nữa, một số bằng chứng kinh nghiệm sau đây ủng hộ LDCT:
  
 
#Đã có nhiều mô hình tính toán khác nhau được đề xuất để hình thức hoá khái niệm thuật toán như “phép tính lambda (λ-calculus) ” của Church, “hàm đệ quy” của Gödel, “máy Turing”, “hệ Post”, và “thuật toán chính quy” của Markov. Tuy nhiên, chúng đều tương đương với máy Turing.
 
#Đã có nhiều mô hình tính toán khác nhau được đề xuất để hình thức hoá khái niệm thuật toán như “phép tính lambda (λ-calculus) ” của Church, “hàm đệ quy” của Gödel, “máy Turing”, “hệ Post”, và “thuật toán chính quy” của Markov. Tuy nhiên, chúng đều tương đương với máy Turing.

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: