Khác biệt giữa các bản “Lục địa Nam Cực”
Dòng 32: Dòng 32:
 
Ở phía trên châu Nam Cực tồn tại "lỗ hổng ozone", một vùng mật độ [[ozone]] thấp rộng lớn bao trùm gần như cả lục địa và lớn nhất vào tháng 9 năm 2006, khi ấy nó duy trì đến cuối tháng 12, lâu nhất từng ghi nhận.<ref>{{cite web|title=Antarctic Ozone|author=British Antarctic Survey, Meteorology and Ozone Monitoring Unit |publisher=Natural Environment Research Council|url=http://www.antarctica.ac.uk/met/jds/ozone/index.html|accessdate=5 May 2009}}</ref> Lỗ hổng ozone được các nhà khoa học phát hiện vào năm 1985 và có xu hướng mở rộng trong những năm quan sát.<ref name="schiermeier2009">{{Cite journal|title=Atmospheric science: Fixing the sky|author=Schiermeier, Quirin|journal=Nature|doi=10.1038/460792a|date=12 August 2009|volume=460|pages=792–795|issue=7257|pmid=19675624|doi-access=free}}</ref> Hoạt động phát thải các chất [[chlorofluorocarbon]] hay CFC vào khí quyển được cho là nguyên nhân, chúng phân hủy ozone thành những loại khí khác.<ref>{{cite web|url=http://www.nas.nasa.gov/About/Education/Ozone/antarctic.html |title=The Antarctic Ozone hole |author=National Aeronautics and Space Administration, Advanced Supercomputing Division (NAS) |publisher=Government of the United States |date=26 June 2001 |accessdate=7 February 2009 |archiveurl=http://webarchive.loc.gov/all/20090403024238/http://www.nas.nasa.gov/About/Education/Ozone/antarctic.html |archivedate= 3 April 2009 |url-status=dead }}</ref>
 
Ở phía trên châu Nam Cực tồn tại "lỗ hổng ozone", một vùng mật độ [[ozone]] thấp rộng lớn bao trùm gần như cả lục địa và lớn nhất vào tháng 9 năm 2006, khi ấy nó duy trì đến cuối tháng 12, lâu nhất từng ghi nhận.<ref>{{cite web|title=Antarctic Ozone|author=British Antarctic Survey, Meteorology and Ozone Monitoring Unit |publisher=Natural Environment Research Council|url=http://www.antarctica.ac.uk/met/jds/ozone/index.html|accessdate=5 May 2009}}</ref> Lỗ hổng ozone được các nhà khoa học phát hiện vào năm 1985 và có xu hướng mở rộng trong những năm quan sát.<ref name="schiermeier2009">{{Cite journal|title=Atmospheric science: Fixing the sky|author=Schiermeier, Quirin|journal=Nature|doi=10.1038/460792a|date=12 August 2009|volume=460|pages=792–795|issue=7257|pmid=19675624|doi-access=free}}</ref> Hoạt động phát thải các chất [[chlorofluorocarbon]] hay CFC vào khí quyển được cho là nguyên nhân, chúng phân hủy ozone thành những loại khí khác.<ref>{{cite web|url=http://www.nas.nasa.gov/About/Education/Ozone/antarctic.html |title=The Antarctic Ozone hole |author=National Aeronautics and Space Administration, Advanced Supercomputing Division (NAS) |publisher=Government of the United States |date=26 June 2001 |accessdate=7 February 2009 |archiveurl=http://webarchive.loc.gov/all/20090403024238/http://www.nas.nasa.gov/About/Education/Ozone/antarctic.html |archivedate= 3 April 2009 |url-status=dead }}</ref>
  
Một số nghiên cứu khoa học đề xuất rằng sự suy giảm ozone có thế đóng vai trò chủ đạo trong việc khống chế [[biến đổi khí hậu]] ở châu Nam Cực (và một vùng Nam Bán cầu rộng hơn).<ref name="schiermeier2009"/> Ozone hấp thụ lượng lớn [[bức xạ tử ngoại]] ở [[tầng bình lưu]]. Sự sụt giảm ozone phía trên châu Nam Cực có thể làm tầng bình lưu nơi đây lạnh đi khoảng 6°C, điều này có tác động làm tăng cường độ gió tây thổi quanh lục địa (xoáy cực) và do đó ngăn khí lạnh gần cực nam thổi ra phía ngoài. Hệ quả là khối băng lục địa của Đông châu Nam Cực được giữ ở mức nhiệt thấp hơn và nhiệt độ ở những vùng ngoại vi của châu Nam Cực, đặc biệt là Bán đảo Nam Cực, cao hơn thúc đẩy băng tan nhanh.<ref name="schiermeier2009"/> Các mô hình cũng đề xuất rằng hiệu ứng suy giảm ozone/tăng cường xoáy cực còn là nguyên nhân khiến băng biển ngoài khơi gần lục địa tăng trong thời gian gần đây.<ref>{{Cite journal|author=Turner J.|author2=Comiso J.C.|author3=Marshall G.J.|author4=Lachlan-Cope T.A.|author5=Bracegirdle T.|author6=Maksym T.|author7=Meredith M.P., Wang Z.|author8= Orr A.|title=Non-annular atmospheric circulation change induced by stratospheric ozone depletion and its role in the recent increase of Antarctic sea ice extent|journal=[[Geophysical Research Letters]]|volume=36|pages=L08502|date=2009|doi=10.1029/2009GL037524|bibcode=2009GeoRL..36.8502T|issue=8|url=http://nora.nerc.ac.uk/id/eprint/8058/1/grl25793.pdf}}</ref>
+
Một số nghiên cứu khoa học đề xuất rằng sự suy giảm ozone có thế đóng vai trò chủ đạo trong việc khống chế [[biến đổi khí hậu]] ở châu Nam Cực (và một vùng Nam Bán cầu rộng hơn).<ref name="schiermeier2009"/> Ozone hấp thụ lượng lớn [[bức xạ tử ngoại]] ở [[tầng bình lưu]]. Sự sụt giảm ozone phía trên châu Nam Cực có thể làm tầng bình lưu nơi đây lạnh đi khoảng 6°C, điều này có tác động làm tăng cường độ gió tây thổi quanh lục địa ([[xoáy cực]]) và do đó ngăn khí lạnh gần cực nam thổi ra phía ngoài. Hệ quả là khối băng lục địa của Đông châu Nam Cực được giữ ở mức nhiệt thấp hơn và nhiệt độ ở những vùng ngoại vi của châu Nam Cực, đặc biệt là Bán đảo Nam Cực, cao hơn thúc đẩy băng tan nhanh.<ref name="schiermeier2009"/> Các mô hình cũng đề xuất rằng hiệu ứng suy giảm ozone/tăng cường xoáy cực còn là nguyên nhân làm tăng băng biển gần lục địa trong thời gian gần đây.<ref>{{Cite journal|author=Turner J.|author2=Comiso J.C.|author3=Marshall G.J.|author4=Lachlan-Cope T.A.|author5=Bracegirdle T.|author6=Maksym T.|author7=Meredith M.P., Wang Z.|author8= Orr A.|title=Non-annular atmospheric circulation change induced by stratospheric ozone depletion and its role in the recent increase of Antarctic sea ice extent|journal=[[Geophysical Research Letters]]|volume=36|pages=L08502|date=2009|doi=10.1029/2009GL037524|bibcode=2009GeoRL..36.8502T|issue=8|url=http://nora.nerc.ac.uk/id/eprint/8058/1/grl25793.pdf}}</ref>
  
 
== Tham khảo ==
 
== Tham khảo ==
 
{{Reflist}}
 
{{Reflist}}

Phiên bản lúc 23:07, ngày 28 tháng 11 năm 2020

UnderCon icon.svg Mục từ này chưa được bình duyệt và có thể cần sự giúp đỡ của bạn để hoàn thiện.
Châu Nam Cực
Antarctica (orthographic projection).svg
Diện tích14.200.000 km2
Dân số1.000 đến 5.000 (tùy thời điểm)
Mật độ dân số< 0,01 mỗi km2
Internet TLD.aq
Thành phố lớn nhấtCác trạm nghiên cứu
Mã UN M49010 – Châu Nam Cực
001Thế giới

Châu Nam Cựclục địa nằm xa về phía nam nhất của Trái Đất, chứa Cực Nam và nằm trong Vùng Nam Cực của Nam Bán cầu, gần như hoàn toàn ở phía nam Vòng Nam Cực và được Nam Đại Dương bao quanh. Châu Nam Cực có diện tích 14.000.000 km2, là lục địa lớn thứ năm trên Trái Đất, gần gấp đôi Úc. Khoảng 98% châu Nam Cực bị bao phủ bởi một lớp băng có bề dày trung bình 1,9 km. Băng trải rộng ra khắp mọi phía, xa nhất lên phía bắc tới Bán đảo Nam Cực.

Xét trung bình, Châu Nam Cực là lục địa lạnh nhất, khô nhất, nhiều gió nhất, và cao nhất trong số tất cả các lục địa. Châu Nam Cực chủ yếu là một hoang mạc địa cực với lượng giáng thủy hàng năm chỉ 200 mm ở dọc bờ biển và ít hơn nhiều trong nội lục. Nơi đây từng ghi nhận mức nhiệt −89,2 °C (−128,6 °F), trong khi nhiệt độ trung bình quý ba (giai đoạn lạnh nhất trong năm) là −63 °C (−81 °F). Hàng năm có khoảng 1.000 đến 5.000 người cư trú tại các trạm nghiên cứu nằm rải rác trên khắp lục địa. Sinh vật bản địa nơi đây bao gồm nhiều loại tảo, vi khuẩn, nấm, thực vật, nguyên sinh vật, một số loài mạt, giun tròn, cánh cụt, chân vây, và gấu nước. Thảm thực vật hiện diện là đài nguyên.

Châu Nam Cực là vùng đất cuối cùng trên Trái Đất được con người khai phá và định cư. Mãi tới năm 1820 lục địa này mới được quan sát lần đầu bởi đoàn thám hiểm người Nga của Fabian Gottlieb von BellingshausenMikhail Lazarev trên hai con tàu VostokMirny, những người đã trông thấy thềm băng Fimbul. Mặc dù vậy, do môi trường khắc nghiệt, thiếu nguồn tài nguyên dễ tiếp cận và tính biệt lập, châu Nam Cực vẫn bị bỏ mặc trong phần còn lại của thế kỷ 19. Cuộc đổ bộ được xác nhận đầu tiên do một nhóm người Na Uy thực hiện vào năm 1895.

Châu Nam Cực trên thực tế là một nơi công quản do các bên tham gia Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực có vị thế cố vấn quản lý. Hiệp ước châu Nam Cực được 12 nước ký kết vào năm 1959, tính đến nay đã có thêm 42 nước thành viên. Hiệp ước ngăn cấm các hoạt động quân sự, khai thác khoáng sản, thử hạt nhân và thải bỏ chất thải hạt nhân; ủng hộ nghiên cứu khoa học và bảo vệ khu sinh thái của lục địa. Các thí nghiệm đang được thực hiện bởi hơn 4.000 nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia.

Suy giảm ozone

Hình ảnh lỗ hổng ozone phía trên châu Nam Cực lớn nhất từng ghi nhận do sự tích tụ các chất CFC (tháng 9 năm 2006)

Ở phía trên châu Nam Cực tồn tại "lỗ hổng ozone", một vùng mật độ ozone thấp rộng lớn bao trùm gần như cả lục địa và lớn nhất vào tháng 9 năm 2006, khi ấy nó duy trì đến cuối tháng 12, lâu nhất từng ghi nhận.[1] Lỗ hổng ozone được các nhà khoa học phát hiện vào năm 1985 và có xu hướng mở rộng trong những năm quan sát.[2] Hoạt động phát thải các chất chlorofluorocarbon hay CFC vào khí quyển được cho là nguyên nhân, chúng phân hủy ozone thành những loại khí khác.[3]

Một số nghiên cứu khoa học đề xuất rằng sự suy giảm ozone có thế đóng vai trò chủ đạo trong việc khống chế biến đổi khí hậu ở châu Nam Cực (và một vùng Nam Bán cầu rộng hơn).[2] Ozone hấp thụ lượng lớn bức xạ tử ngoạitầng bình lưu. Sự sụt giảm ozone phía trên châu Nam Cực có thể làm tầng bình lưu nơi đây lạnh đi khoảng 6°C, điều này có tác động làm tăng cường độ gió tây thổi quanh lục địa (xoáy cực) và do đó ngăn khí lạnh gần cực nam thổi ra phía ngoài. Hệ quả là khối băng lục địa của Đông châu Nam Cực được giữ ở mức nhiệt thấp hơn và nhiệt độ ở những vùng ngoại vi của châu Nam Cực, đặc biệt là Bán đảo Nam Cực, cao hơn thúc đẩy băng tan nhanh.[2] Các mô hình cũng đề xuất rằng hiệu ứng suy giảm ozone/tăng cường xoáy cực còn là nguyên nhân làm tăng băng biển gần lục địa trong thời gian gần đây.[4]

Tham khảo

  1. British Antarctic Survey, Meteorology and Ozone Monitoring Unit, Antarctic Ozone, Natural Environment Research Council, truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2009
  2. a b c Schiermeier, Quirin (ngày 12 tháng 8 năm 2009), "Atmospheric science: Fixing the sky", Nature, 460 (7257): 792–795, doi:10.1038/460792a, PMID 19675624
  3. National Aeronautics and Space Administration, Advanced Supercomputing Division (NAS) (ngày 26 tháng 6 năm 2001), The Antarctic Ozone hole, Government of the United States, lưu trữ từ nguyên tác ngày 3 tháng 4 năm 2009, truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2009
  4. Turner J.; Comiso J.C.; Marshall G.J.; Lachlan-Cope T.A.; Bracegirdle T.; Maksym T.; Meredith M.P., Wang Z.; Orr A. (2009), "Non-annular atmospheric circulation change induced by stratospheric ozone depletion and its role in the recent increase of Antarctic sea ice extent" (PDF), Geophysical Research Letters, 36 (8): L08502, Bibcode:2009GeoRL..36.8502T, doi:10.1029/2009GL037524