Sửa đổi Lý thuyết chức năng

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 6: Dòng 6:
 
[[Bronislaw Malinowski]] sinh năm 1884 ở Cracow, [[Ba Lan]], tốt nghiệp đại học với bằng danh dự các ngành toán, vật lý và triết học ở Cracow vào năm 1908 và sau đó học Nhân học tại Trường Kinh tế London (London School of Economics). Năm 1914, Malinowski đi nghiên cứu điền dã ở quần đảo Trobriand thuộc New Guinea, và một cách tình cờ, ông buộc phải dừng lại ở đó vì Chiến tranh Thế giới lần thứ I bùng nổ. Từ 1914 đến 1918, được chính phủ Australia cho phép và cấp kinh phí,  Malinowski đã ba lần từ Australia đi New Guinea điền dã 30 tháng ở quần đảo này. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ I, ông dạy học ở một số trường đại học, rồi trở về Trường Nghiên cứu Kinh tế London giảng dạy từ 1922 đến 1938. Những năm giảng dạy ở Trường Nghiên cứu Kinh tế London là khoảng thời gian Malinowski có ảnh hưởng mạnh nhất đến ngành Nhân học xã hội ở Anh quốc. Năm 1938, khi Chiến tranh Thế giới lần thứ II chuẩn bị nổ ra, Malinowski đang ở Mỹ và ông quyết định ở lại Mỹ, sau đó mất vào năm 1942 khi ông mới nhận làm việc tại Đại học Yale. Ngoài nghiên cứu điền dã dân tộc học ở New Guinea, Malinowski còn điền dã dân tộc học ở châu Phi và Mexico.
 
[[Bronislaw Malinowski]] sinh năm 1884 ở Cracow, [[Ba Lan]], tốt nghiệp đại học với bằng danh dự các ngành toán, vật lý và triết học ở Cracow vào năm 1908 và sau đó học Nhân học tại Trường Kinh tế London (London School of Economics). Năm 1914, Malinowski đi nghiên cứu điền dã ở quần đảo Trobriand thuộc New Guinea, và một cách tình cờ, ông buộc phải dừng lại ở đó vì Chiến tranh Thế giới lần thứ I bùng nổ. Từ 1914 đến 1918, được chính phủ Australia cho phép và cấp kinh phí,  Malinowski đã ba lần từ Australia đi New Guinea điền dã 30 tháng ở quần đảo này. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ I, ông dạy học ở một số trường đại học, rồi trở về Trường Nghiên cứu Kinh tế London giảng dạy từ 1922 đến 1938. Những năm giảng dạy ở Trường Nghiên cứu Kinh tế London là khoảng thời gian Malinowski có ảnh hưởng mạnh nhất đến ngành Nhân học xã hội ở Anh quốc. Năm 1938, khi Chiến tranh Thế giới lần thứ II chuẩn bị nổ ra, Malinowski đang ở Mỹ và ông quyết định ở lại Mỹ, sau đó mất vào năm 1942 khi ông mới nhận làm việc tại Đại học Yale. Ngoài nghiên cứu điền dã dân tộc học ở New Guinea, Malinowski còn điền dã dân tộc học ở châu Phi và Mexico.
  
Với thành công và đóng góp đặc biệt của ông trong nghiên cứu điền dã dân tộc học, xây dựng lý thuyết, và đào tạo, Malinowski trở thành một trong những người sáng lập Nhân học xã hội, và là người có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Nhân học thế giới. Những đóng góp quan trọng nhất của Malinowski nằm ở hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau trong nghiên cứu nhân học từ thời Malinowski, đó là phương pháp điền dã dân tộc học và lý thuyết chức năng. Malinowski phản đối mạnh mẽ các nhà tiến hóa luận nghiên cứu nhân học kiểu ghế bành của thế kỷ XIX, và ông đã kiến tạo truyền thống nghiên cứu nhân học dựa vào điền dã dân tộc học trong một thời gian dài gắn với phương pháp quan sát tham gia và sử dụng ngôn ngữ của đối tượng nghiên cứu. Dù đã xuất hiện từ trước, Malinowski được công nhận là cha đẻ của phương pháp quan sát tham gia, một phương pháp nghiên cứu dân tộc học độc đáo giúp nhà nhân học quan sát từ bên trong một cách chủ quan và phân tích từ bên ngoài một cách khách quan. Đến nay, quan sát tham gia được coi là phương pháp định danh điền dã dân tộc học và cách điền dã dân tộc học của Malinowski vẫn là chuẩn mực cho sinh viên ngành Nhân học và những ai muốn thực hành điền dã dân tộc học.
+
Với thành công và đóng góp đặc biệt của ông trong nghiên cứu điền dã dân tộc học, xây dựng lý thuyết, và đào tạo, Malinowski trở thành một trong những người sáng lập Nhân học xã hội, và là người có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Nhân học thế giới. Những đóng góp quan trọng nhất của Malinowski nằm ở hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau trong nghiên cứu nhân học từ thời Malinowski, đó là phương pháp điền dã dân tộc học và LTCN. Malinowski phản đối mạnh mẽ các nhà tiến hóa luận nghiên cứu nhân học kiểu ghế bành của thế kỷ XIX, và ông đã kiến tạo truyền thống nghiên cứu nhân học dựa vào điền dã dân tộc học trong một thời gian dài gắn với phương pháp quan sát tham gia và sử dụng ngôn ngữ của đối tượng nghiên cứu. Dù đã xuất hiện từ trước, Malinowski được công nhận là cha đẻ của phương pháp quan sát tham gia, một phương pháp nghiên cứu dân tộc học độc đáo giúp nhà nhân học quan sát từ bên trong một cách chủ quan và phân tích từ bên ngoài một cách khách quan. Đến nay, quan sát tham gia được coi là phương pháp định danh điền dã dân tộc học và cách điền dã dân tộc học của Malinowski vẫn là chuẩn mực cho sinh viên ngành Nhân học và những ai muốn thực hành điền dã dân tộc học.
  
 
Quan điểm lý luận của Malinowski được gọi là chức năng luận. Về nguồn gốc, cả chức năng luận của Malinowski và chức năng luận-cấu trúc của Radfliffe-Brown ở Anh quốc đều có ảnh hưởng từ “phép loại suy hữu cơ” của nhà lý thuyết xã hội người Pháp thế kỷ XIX là Emile Durkheim (1858-1917). Phép loại suy cho rằng, xã hội tồn tại như một cơ thể con người, có cấu trúc xã hội, chức năng xã hội, và nghiên cứu khoa học xã hội cần gắn với tiến hóa xã hội. Tuy nhiên, các nhà nhân học xã hội Anh đương thời không quan tâm đến khía cạnh tiến hóa xã hội mà chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội và chức năng của các thiết chế xã hội.
 
Quan điểm lý luận của Malinowski được gọi là chức năng luận. Về nguồn gốc, cả chức năng luận của Malinowski và chức năng luận-cấu trúc của Radfliffe-Brown ở Anh quốc đều có ảnh hưởng từ “phép loại suy hữu cơ” của nhà lý thuyết xã hội người Pháp thế kỷ XIX là Emile Durkheim (1858-1917). Phép loại suy cho rằng, xã hội tồn tại như một cơ thể con người, có cấu trúc xã hội, chức năng xã hội, và nghiên cứu khoa học xã hội cần gắn với tiến hóa xã hội. Tuy nhiên, các nhà nhân học xã hội Anh đương thời không quan tâm đến khía cạnh tiến hóa xã hội mà chỉ tập trung vào cấu trúc xã hội và chức năng của các thiết chế xã hội.
Dòng 12: Dòng 12:
 
Theo đó, chức năng luận nhấn mạnh đến cá thể, xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Chức năng luận quan tâm đến cá thể, nhu cầu của cá thể và nhấn mạnh đến chức năng của các thiết chế xã hội trong việc thỏa mãn nhu cầu của cá thể chứ không phải vì tổng thể xã hội hay nhóm. Chức năng luận cho rằng xã hội có các thiết chế xã hội có chức năng phục vụ cho mục đích cơ bản của cá thể con người. Malinowski cho rằng cá thể con người có bảy nhóm nhu cầu, cả về sinh học lẫn tâm lý, và các nhu cầu này được thỏa mãn thông qua các đáp ứng mang tính văn hóa.
 
Theo đó, chức năng luận nhấn mạnh đến cá thể, xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng. Chức năng luận quan tâm đến cá thể, nhu cầu của cá thể và nhấn mạnh đến chức năng của các thiết chế xã hội trong việc thỏa mãn nhu cầu của cá thể chứ không phải vì tổng thể xã hội hay nhóm. Chức năng luận cho rằng xã hội có các thiết chế xã hội có chức năng phục vụ cho mục đích cơ bản của cá thể con người. Malinowski cho rằng cá thể con người có bảy nhóm nhu cầu, cả về sinh học lẫn tâm lý, và các nhu cầu này được thỏa mãn thông qua các đáp ứng mang tính văn hóa.
  
Quan điểm lý thuyết chức năng của Malinowski được thể hiện rõ trong các nghiên cứu của ông, trong đó một ví dụ hay và được nhiều người đọc là Argonauts of the Western Pacific, xuất bản năm 1922. Một điểm quan trọng trong cuốn sách này là Malinowski đã phát hiện ra vòng kula ở quần đảo Trobriand. Malinowski tìm hiểu vòng kula và các quy định trao đổi kula, đó là sự trao đổi vòng cổ theo chiều kim đồng hồ và sự trao đổi vòng cổ tay theo vòng ngược kim đồng hồ giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau. Dù sự trao đổi vòng cổ và vòng cổ tay này mang tính nghi lễ, nhưng vòng kula lại tăng cường sự cố kết và quan hệ liên minh giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau trong quần đảo này. Công trình nghiên cứu dân tộc học này của Malinowski không chỉ cho thấy sự bao dung của ông đối với các phong tục xa lạ mà còn làm cho người đọc thấu hiểu được chức năng của các phong tục rất khác biệt với các phong tục của chính xã hội nhà nghiên cứu.
+
Quan điểm LTCN của Malinowski được thể hiện rõ trong các nghiên cứu của ông, trong đó một ví dụ hay và được nhiều người đọc là Argonauts of the Western Pacific, xuất bản năm 1922. Một điểm quan trọng trong cuốn sách này là Malinowski đã phát hiện ra vòng kula ở quần đảo Trobriand. Malinowski tìm hiểu vòng kula và các quy định trao đổi kula, đó là sự trao đổi vòng cổ theo chiều kim đồng hồ và sự trao đổi vòng cổ tay theo vòng ngược kim đồng hồ giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau. Dù sự trao đổi vòng cổ và vòng cổ tay này mang tính nghi lễ, nhưng vòng kula lại tăng cường sự cố kết và quan hệ liên minh giữa các nhóm cư dân ở các đảo khác nhau trong quần đảo này. Công trình nghiên cứu dân tộc học này của Malinowski không chỉ cho thấy sự bao dung của ông đối với các phong tục xa lạ mà còn làm cho người đọc thấu hiểu được chức năng của các phong tục rất khác biệt với các phong tục của chính xã hội nhà nghiên cứu.
  
 
==Chức năng luận-cấu trúc==
 
==Chức năng luận-cấu trúc==
Dòng 34: Dòng 34:
 
Chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc là các trường phái lý thuyết đã có ảnh hưởng quan trọng trong Nhân học. Bằng việc tập trung vào các chức năng cụ thể của các thiết chế trong các xã hội do các nhà nhân học nghiên cứu, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc đã thúc đẩy nghiên cứu điền dã dân tộc học và thu thập tài liệu dân tộc học nguyên gốc, chi tiết và có giá trị. Vì thế, giống với Franz Boas trong Nhân học ở Mỹ, Malinowski và Radcliffe-Brown trong Nhân học xã hội ở Anh đã có công lớn trong việc xây dựng truyền thống Nhân học xã hội và chuyển kiểu nghiên cứu ghế bành trong Nhân học xã hội Anh sang nghiên cứu điền dã dân tộc học trong một thời gian dài với quan điểm tương đối luận văn hóa và đào tạo được nhiều nhà nhân học nghiên cứu điền dã dân tộc học ở nhiều nơi trên thế giới.
 
Chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc là các trường phái lý thuyết đã có ảnh hưởng quan trọng trong Nhân học. Bằng việc tập trung vào các chức năng cụ thể của các thiết chế trong các xã hội do các nhà nhân học nghiên cứu, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc đã thúc đẩy nghiên cứu điền dã dân tộc học và thu thập tài liệu dân tộc học nguyên gốc, chi tiết và có giá trị. Vì thế, giống với Franz Boas trong Nhân học ở Mỹ, Malinowski và Radcliffe-Brown trong Nhân học xã hội ở Anh đã có công lớn trong việc xây dựng truyền thống Nhân học xã hội và chuyển kiểu nghiên cứu ghế bành trong Nhân học xã hội Anh sang nghiên cứu điền dã dân tộc học trong một thời gian dài với quan điểm tương đối luận văn hóa và đào tạo được nhiều nhà nhân học nghiên cứu điền dã dân tộc học ở nhiều nơi trên thế giới.
  
Tuy nhiên, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc như là các trường phái lý thuyết chức năng có điểm yếu. Thứ nhất, các lý thuyết chức năng không thể giải thích được vì sao các xã hội giống nhau và khác nhau. Tại sao một số xã hội có các thiết chế khác nhau trong khi các thiết chế giống nhau lại không thể đảm đương các chức năng giống nhau? Điểm yếu này xuất phát từ chỗ các nhà chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc có xu hướng lãng quên các quá trình lịch sử. Họ không quan tâm đến nguồn gốc và sự tiến hóa của các thiết chế xã hội mà chỉ tập trung nghiên cứu xem các thiết chế này đã phục vụ nhu cầu của xã hội và cá thể như thế nào. Vì thế, họ không thể giải thích được ví dụ như tại sao xã hội Anh lại trải qua quá  trình chuyển đổi công nghệ nhanh như thế trong khi các xã hội khác lại không dù cả hai đều có những nhu cầu như nhau. Thứ hai, các nhà lý thuyết chức năng đã bỏ qua xung đột và không thể lý giải thỏa đáng biến đổi xã hội khi họ nhìn nhận xã hội là một thực thể tĩnh, hài hòa, không biến đổi, không mâu thuẫn. Họ không thể giải thích được vì sao nếu tất cả các thiết chế đều thực hiện một chức năng cụ thể, thì các thiết chế này lại không biến đổi.
+
Tuy nhiên, chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc như là các trường phái LTCN có điểm yếu. Thứ nhất, các LTCN không thể giải thích được vì sao các xã hội giống nhau và khác nhau. Tại sao một số xã hội có các thiết chế khác nhau trong khi các thiết chế giống nhau lại không thể đảm đương các chức năng giống nhau? Điểm yếu này xuất phát từ chỗ các nhà chức năng luận và chức năng luận-cấu trúc có xu hướng lãng quên các quá trình lịch sử. Họ không quan tâm đến nguồn gốc và sự tiến hóa của các thiết chế xã hội mà chỉ tập trung nghiên cứu xem các thiết chế này đã phục vụ nhu cầu của xã hội và cá thể như thế nào. Vì thế, họ không thể giải thích được ví dụ như tại sao xã hội Anh lại trải qua quá  trình chuyển đổi công nghệ nhanh như thế trong khi các xã hội khác lại không dù cả hai đều có những nhu cầu như nhau. Thứ hai, các nhà LTCN đã bỏ qua xung đột và không thể lý giải thỏa đáng biến đổi xã hội khi họ nhìn nhận xã hội là một thực thể tĩnh, hài hòa, không biến đổi, không mâu thuẫn. Họ không thể giải thích được vì sao nếu tất cả các thiết chế đều thực hiện một chức năng cụ thể, thì các thiết chế này lại không biến đổi.
  
 
==Tài liệu tham khảo==
 
==Tài liệu tham khảo==

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: