Sửa đổi Kháng sinh
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 52: | Dòng 52: | ||
== Phân loại == | == Phân loại == | ||
− | Kháng sinh thường được phân loại dựa vào cơ chế hoạt động, kết cấu hóa học, hay phổ hoạt động. Đa số kháng sinh nhắm đến chức năng hoặc quá trình sinh trưởng của vi khuẩn.<ref name="CALDERIN2007"/> Các loại mà nhắm đến thành tế bào ([[penicillin]] và [[cephalosporin]]) hay màng tế bào vi khuẩn ([[polymyxin]]), hay cản trở enzyme vi khuẩn thiết yếu ([[rifamycin]], [[lipiarmycin]], [[quinolone]], và [[sulfonamide]]) có tính diệt khuẩn. [[Chất ức chế tổng hợp protein]] ([[macrolide]], [[lincosamide]], và [[tetracycline]]) thì thường có tính kìm khuẩn (ngoại trừ [[aminoglycoside]] là diệt khuẩn).<ref>{{cite journal |vauthors= Finberg RW, Moellering RC, Tally FP, Craig WA, Pankey GA, Dellinger EP, West MA, Joshi M, Linden PK, Rolston KV, Rotschafer JC, Rybak MJ |title= The importance of bactericidal drugs: future directions in infectious disease |journal= Clinical Infectious Diseases |volume= 39 |issue= 9 |pages= 1314–20 |date= November 2004 |pmid= 15494908 |doi= 10.1086/425009|doi-access= free }}</ref> Cách phân loại khác dựa vào đặc tính của mục tiêu. Kháng sinh "phổ hẹp" nhắm đến những loại vi khuẩn cụ thể như là [[gram âm]] hay [[gram dương]], trong khi [[kháng sinh phổ rộng]] tác động một phạm vi rộng hơn. Sau 40 năm con người không tìm ra nhóm hợp chất kháng khuẩn mới thì đến cuối thập niên 2000 đầu thập niên 2010 đã có thêm bốn nhóm được đưa vào sử dụng lâm sàng: [[lipopeptide]] mạch vòng (như là [[daptomycin]]), [[glycylcycline]] (như là [[tigecycline]]), [[oxazolidinone]] (như là [[linezolid]]), và [[lipiarmycin]] (như là [[fidaxomicin]]).<ref>{{cite book |vauthors= Cunha BA |title= Antibiotic Essentials |year= 2009 |publisher= Jones & Bartlett Learning |isbn= 978-0-7637-7219-2 |page= 180}}</ref><ref>{{cite journal |vauthors= Srivastava A, Talaue M, Liu S, Degen D, Ebright RY, Sineva E, Chakraborty A, Druzhinin SY, Chatterjee S, Mukhopadhyay J, Ebright YW, Zozula A, Shen J, Sengupta S, Niedfeldt RR, Xin C, Kaneko T, Irschik H, Jansen R, Donadio S, Connell N, Ebright RH |title= New target for inhibition of bacterial RNA polymerase: 'switch region' |journal= Current Opinion in Microbiology |volume= 14 |issue= 5 |pages= 532–43 |date= October 2011 |pmid= 21862392 |pmc= 3196380 |doi= 10.1016/j.mib.2011.07.030}}</ref> | + | Kháng sinh thường được phân loại dựa vào cơ chế hoạt động, kết cấu hóa học, hay phổ hoạt động. Đa số kháng sinh nhắm đến chức năng hoặc quá trình sinh trưởng của vi khuẩn.<ref name="CALDERIN2007"/> Các loại mà nhắm đến thành tế bào ([[penicillin]] và [[cephalosporin]]) hay màng tế bào vi khuẩn ([[polymyxin]]), hay cản trở enzyme vi khuẩn thiết yếu ([[rifamycin]], [[lipiarmycin]], [[quinolone]], và [[sulfonamide]]) có tính diệt khuẩn. [[Chất ức chế tổng hợp protein]] ([[macrolide]], [[lincosamide]], và [[tetracycline]]) thì thường có tính kìm khuẩn (ngoại trừ [[aminoglycoside]] là diệt khuẩn).<ref> {{cite journal |vauthors= Finberg RW, Moellering RC, Tally FP, Craig WA, Pankey GA, Dellinger EP, West MA, Joshi M, Linden PK, Rolston KV, Rotschafer JC, Rybak MJ |title= The importance of bactericidal drugs: future directions in infectious disease |journal= Clinical Infectious Diseases |volume= 39 |issue= 9 |pages= 1314–20 |date= November 2004 |pmid= 15494908 |doi= 10.1086/425009|doi-access= free }}</ref> Cách phân loại khác dựa vào đặc tính của mục tiêu. Kháng sinh "phổ hẹp" nhắm đến những loại vi khuẩn cụ thể như là [[gram âm]] hay [[gram dương]], trong khi [[kháng sinh phổ rộng]] tác động một phạm vi rộng hơn. Sau 40 năm con người không tìm ra nhóm hợp chất kháng khuẩn mới thì đến cuối thập niên 2000 đầu thập niên 2010 đã có thêm bốn nhóm được đưa vào sử dụng lâm sàng: [[lipopeptide]] mạch vòng (như là [[daptomycin]]), [[glycylcycline]] (như là [[tigecycline]]), [[oxazolidinone]] (như là [[linezolid]]), và [[lipiarmycin]] (như là [[fidaxomicin]]).<ref>{{cite book |vauthors= Cunha BA |title= Antibiotic Essentials |year= 2009 |publisher= Jones & Bartlett Learning |isbn= 978-0-7637-7219-2 |page= 180}}</ref><ref>{{cite journal |vauthors= Srivastava A, Talaue M, Liu S, Degen D, Ebright RY, Sineva E, Chakraborty A, Druzhinin SY, Chatterjee S, Mukhopadhyay J, Ebright YW, Zozula A, Shen J, Sengupta S, Niedfeldt RR, Xin C, Kaneko T, Irschik H, Jansen R, Donadio S, Connell N, Ebright RH |title= New target for inhibition of bacterial RNA polymerase: 'switch region' |journal= Current Opinion in Microbiology |volume= 14 |issue= 5 |pages= 532–43 |date= October 2011 |pmid= 21862392 |pmc= 3196380 |doi= 10.1016/j.mib.2011.07.030}}</ref> |
== Sự đề kháng == | == Sự đề kháng == | ||
− | [[File:Human neutrophil ingesting MRSA.jpg|thumb|left | + | [[File:Human neutrophil ingesting MRSA.jpg|thumb|left|Ảnh hiển vi điện tử quét cho thấy [[bạch cầu trung tính]] người đang ăn [[Staphylococcus aureus kháng methicillin|''Staphylococcus aureus'' kháng methicillin]]]] |
Vi khuẩn trở nên đề kháng lại kháng sinh là hiện tượng phổ biến. Hiện tượng này thường phản ánh quá trình tiến hóa diễn ra trong thời gian trị liệu bằng kháng sinh. Chữa trị bằng kháng sinh có thể [[chọn lọc tự nhiên|chọn lọc]] ra các chủng vi khuẩn có năng lực sinh lý hay di truyền ưu trội để sống sót qua những liều kháng sinh cao. Dưới những điều kiện nhất định, việc làm này có thể dẫn đến kết quả vi khuẩn đề kháng ưu tiên sinh trưởng, trong khi vi khuẩn nhạy cảm bị ức chế bởi thuốc.<ref name="Balancing the drug-resistance equation"/> Kháng sinh như penicillin và erythromycin từng có hiệu quả cao chống nhiều loài và chủng vi khuẩn nay đã trở nên kém hiệu quả hơn do sức đề kháng gia tăng của nhiều chủng vi khuẩn. | Vi khuẩn trở nên đề kháng lại kháng sinh là hiện tượng phổ biến. Hiện tượng này thường phản ánh quá trình tiến hóa diễn ra trong thời gian trị liệu bằng kháng sinh. Chữa trị bằng kháng sinh có thể [[chọn lọc tự nhiên|chọn lọc]] ra các chủng vi khuẩn có năng lực sinh lý hay di truyền ưu trội để sống sót qua những liều kháng sinh cao. Dưới những điều kiện nhất định, việc làm này có thể dẫn đến kết quả vi khuẩn đề kháng ưu tiên sinh trưởng, trong khi vi khuẩn nhạy cảm bị ức chế bởi thuốc.<ref name="Balancing the drug-resistance equation"/> Kháng sinh như penicillin và erythromycin từng có hiệu quả cao chống nhiều loài và chủng vi khuẩn nay đã trở nên kém hiệu quả hơn do sức đề kháng gia tăng của nhiều chủng vi khuẩn. | ||