Sửa đổi Cảnh quan Tây Nguyên

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 1: Dòng 1:
{{mới}}'''Tây Nguyên''' là một vùng kinh tế trọng điểm của [[Việt Nam]], một khu vực lãnh thổ có vị trí địa lý, vị thế địa chính trị, an ninh quốc phòng quan trọng, một địa bàn chiến lược trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối liền Việt Nam - [[Lào]] - [[Cămpuchia]] và [[Thái Lan]], nơi có tiềm năng phát triển nông - lâm - công nghiệp và du lịch - dịch vụ. Việc nghiên cứu cảnh quan - một hướng nghiên cứu mang tính tổng hợp cao về tiềm năng tự nhiên, tài nguyên lãnh thổ, thành lập bản đồ cảnh quan, phân tích đánh giá làm sáng tỏ đặc điểm đặc trưng của các đơn vị cảnh quan Tây Nguyên và trên cơ sở đó luận giải về đặc điểm phân hóa đa dạng, phức tạp nhưng có quy luật theo không gian và thời gian, xác định các chức năng cả tự nhiên và xã hội của từng đơn vị cảnh quan sẽ là cơ sở khoa học để tiến hành đánh giá nhằm xác định và khẳng định được những thế mạnh mang tính tiềm năng hết sức lớn của vùng cho phát triển kinh tế-xã hội nói chung cũng như cho phát triển một số ngành sản xuất, kinh tế rất đặc biệt, đặc thù và để đề xuất định hướng và các giải pháp sử dụng chúng một cách phù hợp, hiệu quả.
+
{{mới}}
 +
'''Tây Nguyên''' là một vùng kinh tế trọng điểm của [[Việt Nam]], một khu vực lãnh thổ có vị trí địa lý, vị thế địa chính trị, an ninh quốc phòng quan trọng, một địa bàn chiến lược trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối liền Việt Nam - [[Lào]] - [[Cămpuchia]] và [[Thái Lan]], nơi có tiềm năng phát triển nông - lâm - công nghiệp và du lịch - dịch vụ. Việc nghiên cứu cảnh quan - một hướng nghiên cứu mang tính tổng hợp cao về tiềm năng tự nhiên, tài nguyên lãnh thổ, thành lập bản đồ cảnh quan, phân tích đánh giá làm sáng tỏ đặc điểm đặc trưng của các đơn vị cảnh quan Tây Nguyên và trên cơ sở đó luận giải về đặc điểm phân hóa đa dạng, phức tạp nhưng có quy luật theo không gian và thời gian, xác định các chức năng cả tự nhiên và xã hội của từng đơn vị cảnh quan sẽ là cơ sở khoa học để tiến hành đánh giá nhằm xác định và khẳng định được những thế mạnh mang tính tiềm năng hết sức lớn của vùng cho phát triển kinh tế-xã hội nói chung cũng như cho phát triển một số ngành sản xuất, kinh tế rất đặc biệt, đặc thù và để đề xuất định hướng và các giải pháp sử dụng chúng một cách phù hợp, hiệu quả.
  
 
Áp dụng các nguyên tắc chung trong phân loại và xây dựng bản đồ cảnh quan từ các công trình kinh điển của các nhà cảnh quan trên Thế giới và ở Việt Nam, áp dụng liên hợp các phương pháp chuyên ngành và tổng hợp của địa lý học, cảnh quan học đã đưa ra được trên lãnh thổ vùng Tây Nguyên một hệ thống phân loại cảnh quan gồm 7 cấp: hệ - phục hệ - lớp - phụ lớp - kiểu - phụ kiểu và nhóm loại cảnh quan cũng như xây dựng được bản đồ cảnh quan vùng Tây Nguyên với 01 hệ, 01 phụ hệ, 04 lớp, 08 phụ lớp, 08 kiểu, 14 phụ kiểu và ...loại cảnh quan với các đặc điểm đặc trưng nổi bật là:
 
Áp dụng các nguyên tắc chung trong phân loại và xây dựng bản đồ cảnh quan từ các công trình kinh điển của các nhà cảnh quan trên Thế giới và ở Việt Nam, áp dụng liên hợp các phương pháp chuyên ngành và tổng hợp của địa lý học, cảnh quan học đã đưa ra được trên lãnh thổ vùng Tây Nguyên một hệ thống phân loại cảnh quan gồm 7 cấp: hệ - phục hệ - lớp - phụ lớp - kiểu - phụ kiểu và nhóm loại cảnh quan cũng như xây dựng được bản đồ cảnh quan vùng Tây Nguyên với 01 hệ, 01 phụ hệ, 04 lớp, 08 phụ lớp, 08 kiểu, 14 phụ kiểu và ...loại cảnh quan với các đặc điểm đặc trưng nổi bật là:
Dòng 18: Dòng 19:
  
 
==Thổ nhưỡng==
 
==Thổ nhưỡng==
[[Hình:Tp. Đà Lạt, Vietnam (Unsplash TaoOWo6wzbg).jpg|nhỏ|350px|Đất đỏ phổ biến ở Tây Nguyên]]
+
Cấu trúc lớp phủ thổ nhưỡng của vùng khá phong phú và đa dạng do chịu tác động tương hỗ giữa nhiều nhân tố tự nhiên khác cũng rất phức tạp, hình thành nên 9 nhóm đất chính gồm: Đất phù sa, đất lầy và than bùn, đất xám, đất đỏ và xám nâu vùng bán khô hạn, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ trên núi, đất thung lũng, đất xói mòn trơ xỏi đá. Trong các nhóm kể trên phổ biến nhất là đất đỏ vàng và đất mùn vàng đỏ trên núi. Đất đỏ vàng (đất feralit hay “đất đỏ”) là loại đất tiêu biểu của vùng có diện phân bố rộng (khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên toàn vùng), là sản phẩm phong hóa chủ yếu của bazan, thường phân bố ở độ cao dưới 1.000 m, tập trung ở các cao nguyên Pleiku, Buôn Ma Thuột, Di Linh, Đặk Nông, ngoài ra còn gặp lẻ tẻ ở Kon Hà Nừng, Kon Plong. Nhờ có độ phì nhiêu lớn, đất đỏ vàng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên, đây là địa bàn canh tác chủ yếu các loại cây công nghiệp (cà phê, cao su, chè...) và cây thực phẩm. Đất đỏ vàng phát triển trên các đá macma axit chiếm diện tích rất rộng (trên 38% diện tích tự nhiên của Tây Nguyên) nhưng do phân bố trên các vùng núi cao, địa hình dốc, bị xói mòn mạnh, độ phì nhiêu thấp nên loại đất này chỉ đóng vai trò thứ yếu trong nông nghiệp. Các loại đất khác chỉ phân bố trên từng vùng hẹp nên ít có ý nghĩa đối với nông nghiệp.
Cấu trúc lớp phủ thổ nhưỡng của vùng khá phong phú và đa dạng do chịu tác động tương hỗ giữa nhiều nhân tố tự nhiên khác cũng rất phức tạp, hình thành nên 9 nhóm đất chính gồm: Đất phù sa, đất lầy và than bùn, đất xám, đất đỏ và xám nâu vùng bán khô hạn, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ trên núi, đất thung lũng, đất xói mòn trơ xỏi đá. Trong các nhóm kể trên phổ biến nhất là đất đỏ vàng và đất mùn vàng đỏ trên núi. [[Đất đỏ vàng]] (đất feralit hay “đất đỏ”) là loại đất tiêu biểu của vùng có diện phân bố rộng (khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên toàn vùng), là sản phẩm phong hóa chủ yếu của bazan, thường phân bố ở độ cao dưới 1.000 m, tập trung ở các cao nguyên Pleiku, Buôn Ma Thuột, Di Linh, Đặk Nông, ngoài ra còn gặp lẻ tẻ ở Kon Hà Nừng, Kon Plong. Nhờ có độ phì nhiêu lớn, đất đỏ vàng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nông nghiệp ở Tây Nguyên, đây là địa bàn canh tác chủ yếu các loại cây công nghiệp (cà phê, cao su, chè...) và cây thực phẩm. Đất đỏ vàng phát triển trên các đá macma axit chiếm diện tích rất rộng (trên 38% diện tích tự nhiên của Tây Nguyên) nhưng do phân bố trên các vùng núi cao, địa hình dốc, bị xói mòn mạnh, độ phì nhiêu thấp nên loại đất này chỉ đóng vai trò thứ yếu trong nông nghiệp. Các loại đất khác chỉ phân bố trên từng vùng hẹp nên ít có ý nghĩa đối với nông nghiệp.
 
  
 
Đối với lớp phủ thực vật, cùng với điều kiện của các nhân tố thành tạo kể trên, với mỗi loại đất có thể có một hay một số kiểu thảm thực vật. Do tác động của quá trình nhân tác trong một thời gian dài, thảm thực vật nguyên sinh - kiểu rừng kín thường xanh vốn rất phong phú của vùng đã dần được thay thế bằng các thảm thực vật nhân tác, trảng cỏ và cây bụi thứ sinh.
 
Đối với lớp phủ thực vật, cùng với điều kiện của các nhân tố thành tạo kể trên, với mỗi loại đất có thể có một hay một số kiểu thảm thực vật. Do tác động của quá trình nhân tác trong một thời gian dài, thảm thực vật nguyên sinh - kiểu rừng kín thường xanh vốn rất phong phú của vùng đã dần được thay thế bằng các thảm thực vật nhân tác, trảng cỏ và cây bụi thứ sinh.
 
 
==Cấu trúc đứng và ngang==
 
==Cấu trúc đứng và ngang==
 
Từ đặc điểm mang tính đặc thù của các nhân tố thành tạo cảnh quan như đã nêu ở trên, có thể khẳng định tính phong phú, đa dạng trong cấu trúc đứng của cảnh quan vùng Tây Nguyên. Tuy vậy đặc điểm nổi bật thấy rõ là cấu trúc đứng mang tính điển hình, chiếm ưu thế của cảnh quan ở vùng là các cảnh quan cao nguyên. Đặc điểm nổi bật này cùng với những đặc điểm riêng trong cấu trúc ngang của cảnh quan sẽ là những ưu thế vượt trội, đặc biệt của vùng cho các mục tiêu ứng dụng thực tiễn.
 
Từ đặc điểm mang tính đặc thù của các nhân tố thành tạo cảnh quan như đã nêu ở trên, có thể khẳng định tính phong phú, đa dạng trong cấu trúc đứng của cảnh quan vùng Tây Nguyên. Tuy vậy đặc điểm nổi bật thấy rõ là cấu trúc đứng mang tính điển hình, chiếm ưu thế của cảnh quan ở vùng là các cảnh quan cao nguyên. Đặc điểm nổi bật này cùng với những đặc điểm riêng trong cấu trúc ngang của cảnh quan sẽ là những ưu thế vượt trội, đặc biệt của vùng cho các mục tiêu ứng dụng thực tiễn.
Dòng 41: Dòng 40:
 
==Loại cảnh quan==
 
==Loại cảnh quan==
 
Loại cảnh quan là đơn vị cơ sở của hệ thống phân vị cảnh quan của khu vực nghiên cứu. Sự hình thành của các dạng cảnh quan liên quan chặt chẽ với quy luật tự nhiên và quy luật mang tính địa phương. Nó được thể hiện qua mối tương tác giữa các đặc điểm hình thái địa hình, đặc điểm dòng chảy, các loại đất, các nhóm thảm thực vật.
 
Loại cảnh quan là đơn vị cơ sở của hệ thống phân vị cảnh quan của khu vực nghiên cứu. Sự hình thành của các dạng cảnh quan liên quan chặt chẽ với quy luật tự nhiên và quy luật mang tính địa phương. Nó được thể hiện qua mối tương tác giữa các đặc điểm hình thái địa hình, đặc điểm dòng chảy, các loại đất, các nhóm thảm thực vật.
*Lớp cảnh quan núi có 90 đơn vị cảnh quan. Trong đó, phụ lớp cảnh quan núi cao có 2 đơn vị cảnh quan, 31 đơn vị cảnh quan ở phụ lớp cảnh quan núi trung bình và 57 đơn vị ở phụ lớp cảnh quan núi thấp.
 
*Lớp cảnh quan cao nguyên có 157 đơn vị cảnh quan. Trong đó, phụ lớp cảnh quan cao nguyên cao có 63 đơn vị cảnh quan, phụ lớp cảnh quan cao nguyên thấp với 94 đơn vị cảnh quan.
 
*Lớp cảnh quan đồi và trũng giữa núi có 61 đơn vị cảnh quan : phụ lớp đồi cao 18 đơn vị, phụ lớp thung lũng giữa núi 25 đơn vị cảnh quan và phụ lớp bán bình nguyên 18 đơn vị cảnh quan.
 
  
 +
- Lớp cảnh quan núi có 90 đơn vị cảnh quan. Trong đó, phụ lớp cảnh quan núi cao có 2 đơn vị cảnh quan, 31 đơn vị cảnh quan ở phụ lớp cảnh quan núi trung bình và 57 đơn vị ở phụ lớp cảnh quan núi thấp.
 +
 +
- Lớp cảnh quan cao nguyên có 157 đơn vị cảnh quan. Trong đó, phụ lớp cảnh quan cao nguyên cao có 63 đơn vị cảnh quan, phụ lớp cảnh quan cao nguyên thấp với 94 đơn vị cảnh quan.
 +
 +
- Lớp cảnh quan đồi và trũng giữa núi có 61 đơn vị cảnh quan : phụ lớp đồi cao 18 đơn vị, phụ lớp thung lũng giữa núi 25 đơn vị cảnh quan và phụ lớp bán bình nguyên 18 đơn vị cảnh quan.
 
==Động lực==
 
==Động lực==
 
Về đặc điểm động lực cảnh quan Tây Nguyên, có thể thấy trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi, cảnh quan luôn chịu ảnh hưởng của nhiều các tác động động lực, đã tạo nên nhịp thở của môi trường và từ đó cũng tạo nên nhịp điệu sống của khối vật chất sống trong cảnh quan. Về bản chất, vùng Tây Nguyên nằm trên nền chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo của miền khí hậu phía Nam, có kiểu khí hậu đặc trưng là khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Hàng năm tổng bức xạ mặt trời ở Tây Nguyên đạt 235 - 240 kcal/cm2/năm, ít biến đổi trong năm. Chính nguồn năng lượng này là động lực chính cho các quá trình phát sinh và phát triển các cảnh quan của Tây Nguyên. Quá trình sử dụng và chuyển hóa các nguồn năng lượng trong các cảnh quan là quá trình có tính chất tổng hợp các chuyển hóa năng lượng đó ở các khối vật chất khác nhau cấu thành nên chúng. Năng lượng bức xạ Mặt trời cung cấp năng lượng cho quá trình phong hóa, đồng thời nó còn tham gia vào các quá trình hình thành đất, vào thành phần nước,… Mặt khác, năng lượng bức xạ Mặt trời còn tham gia vào phản ứng hóa học trong sự chuyển hóa các chất trong tự nhiên, là động lực thúc đẩy các quá trình ngoại lực di chuyển, vận chuyển các vật chất trong khối các vật chất sống. Đối với giới sinh vật, năng lượng bức xạ Mặt trời mang tính chất sống còn. Qua quá trình quang hợp, cây xanh hấp thụ và cải biến trực tiếp năng lượng này để tạo ra sinh khối xanh, đó là nguồn cung cấp năng lượng cho chuỗi dinh dưỡng sinh vật. Do hàng năm nhận được một lượng bức xạ không nhỏ, sinh vật có điều kiện sinh trưởng và phát triển, các quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng xảy ra với tốc độ và cường độ cao vào những tháng mùa mưa.
 
Về đặc điểm động lực cảnh quan Tây Nguyên, có thể thấy trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi, cảnh quan luôn chịu ảnh hưởng của nhiều các tác động động lực, đã tạo nên nhịp thở của môi trường và từ đó cũng tạo nên nhịp điệu sống của khối vật chất sống trong cảnh quan. Về bản chất, vùng Tây Nguyên nằm trên nền chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo của miền khí hậu phía Nam, có kiểu khí hậu đặc trưng là khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên. Hàng năm tổng bức xạ mặt trời ở Tây Nguyên đạt 235 - 240 kcal/cm2/năm, ít biến đổi trong năm. Chính nguồn năng lượng này là động lực chính cho các quá trình phát sinh và phát triển các cảnh quan của Tây Nguyên. Quá trình sử dụng và chuyển hóa các nguồn năng lượng trong các cảnh quan là quá trình có tính chất tổng hợp các chuyển hóa năng lượng đó ở các khối vật chất khác nhau cấu thành nên chúng. Năng lượng bức xạ Mặt trời cung cấp năng lượng cho quá trình phong hóa, đồng thời nó còn tham gia vào các quá trình hình thành đất, vào thành phần nước,… Mặt khác, năng lượng bức xạ Mặt trời còn tham gia vào phản ứng hóa học trong sự chuyển hóa các chất trong tự nhiên, là động lực thúc đẩy các quá trình ngoại lực di chuyển, vận chuyển các vật chất trong khối các vật chất sống. Đối với giới sinh vật, năng lượng bức xạ Mặt trời mang tính chất sống còn. Qua quá trình quang hợp, cây xanh hấp thụ và cải biến trực tiếp năng lượng này để tạo ra sinh khối xanh, đó là nguồn cung cấp năng lượng cho chuỗi dinh dưỡng sinh vật. Do hàng năm nhận được một lượng bức xạ không nhỏ, sinh vật có điều kiện sinh trưởng và phát triển, các quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng xảy ra với tốc độ và cường độ cao vào những tháng mùa mưa.
Dòng 56: Dòng 57:
 
Như vậy, có thể khẳng định, các đặc tính động lực và độ bền vững của các cảnh quan Tây Nguyên là nguyên nhân và hệ quả của mối tương quan chuyển hóa vật chất và năng lượng giữa các phần cấu trúc cảnh quan của vùng, là cơ sở và có ý nghĩa rất lớn trong đề xuất định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ phù hợp với tiềm năng của cảnh quan khu vực nghiên cứu.
 
Như vậy, có thể khẳng định, các đặc tính động lực và độ bền vững của các cảnh quan Tây Nguyên là nguyên nhân và hệ quả của mối tương quan chuyển hóa vật chất và năng lượng giữa các phần cấu trúc cảnh quan của vùng, là cơ sở và có ý nghĩa rất lớn trong đề xuất định hướng sử dụng hợp lý lãnh thổ phù hợp với tiềm năng của cảnh quan khu vực nghiên cứu.
 
==Đặc điểm chức năng==
 
==Đặc điểm chức năng==
Về đặc điểm chức năng cảnh quan vùng Tây Nguyên, được xác định là khá đặc biệt và cùng có tiềm năng rất lớn, bao gồm: Chức năng bảo tồn, phòng hộ và bảo vệ môi trường: Các cảnh quan cần duy trì chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường là các cảnh quan hình thành trên địa hình có độ dốc lớn, bao gồm các nhóm cảnh quan phân bố trên các vùng núi - cao nguyên - đồi và thung lũng giữa núi với hệ sinh thái rừng kín hỗn giao lá rộng lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng kín nửa rụng lá, rừng rụng lá thứ sinh. Các cảnh quan này hiện đang đảm nhiệm chức năng chính của mình là bảo tồn, phòng hộ và bảo vệ môi trường. Thành phần rất phong phú về chủng loại, giàu về khối lượng và một số cây bản địa thuộc loại quý như thông nước (Glyptostrobas), thông 5 lá (Pinus dalatensis), cây Quao xẻ tua, gạo lông đen...; Chức năng phát triển kinh tế sinh thái lâm nghiệp: Nhóm cảnh quan này phân bố trên các địa hình núi và cao nguyên với thành phần loài bao gồm thông, keo bạch, đàn và một số các loại cây khác; Chức năng phát triển kinh tế sinh thái nông nghiệp: duy trì chức năng sản xuất, phát triển kinh tế sinh thái nông nghiệp hình thành trên địa hình t¬ương đối bằng phẳng (cao nguyên và thung lũng giữa núi), bao gồm các loại cảnh quan cây công nghiệp (cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, chè,…), cây nông nghiệp (lúa, ngô lai, bông vải, rau, hoa) Và cuối cùng là chức năng nghỉ dưỡng và tham quan du lịch: Nhóm cảnh quan này phân bố chủ yếu trên các địa hình núi và cao nguyên. Ngoài chức năng nghỉ dưỡng và tham quan du lịch, các dạng cảnh quan núi và cao nguyên còn có chức năng cung cấp sản phẩm cho phát triển lâm nghiệp.
+
Về đặc điểm chức năng cảnh quan vùng Tây Nguyên, được xác định là khá đặc biệt và cùng có tiềm năng rất lớn, bao gồm: Chức năng bảo tồn, phòng hộ và bảo vệ môi trường: Các cảnh quan cần duy trì chức năng phòng hộ, bảo vệ môi trường là các cảnh quan hình thành trên địa hình có độ dốc lớn, bao gồm các nhóm cảnh quan phân bố trên các vùng núi - cao nguyên - đồi và thung lũng giữa núi với hệ sinh thái rừng kín hỗn giao lá rộng lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng kín nửa rụng lá, rừng rụng lá thứ sinh. Các cảnh quan này hiện đang đảm nhiệm chức năng chính của mình là bảo tồn, phòng hộ và bảo vệ môi trường. Thành phần rất phong phú về chủng loại, giàu về khối lượng và một số cây bản địa thuộc loại quý như thông nước (Glyptostrobas), thông 5 lá (Pinus dalatensis), cây Quao xẻ tua, gạo lông đen...; Chức năng phát triển kinh tế sinh thái lâm nghiệp: Nhóm cảnh quan này phân bố trên các địa hình núi và cao nguyên với thành phần loài bao gồm thông, keo bạch, đàn và một số các loại cây khác; Chức năng phát triển kinh tế sinh thái nông nghiệp: duy trì chức năng sản xuất, phát triển kinh tế sinh thái nông nghiệp hình thành trên địa hình t¬ương đối bằng phẳng (cao nguyên và thung lũng giữa núi), bao gồm các loại cảnh quan cây công nghiệp (cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, chè,…), cây nông nghiệp (lúa, ngô lai, bông vải, rau, hoa) Và cuối cùng là chức năng nghỉ dưỡng và tham quan du lịch: Nhóm cảnh quan này phân bố chủ yếu trên các địa hình núi và cao nguyên. Ngoài chức năng nghỉ dưỡng và tham quan du lịch, các dạng cảnh quan núi và cao nguyên còn có chức năng cung cấp sản phẩm cho phát triển lâm nghiệp.  
==Xem thêm==
 
*[[Cảnh quan sinh thái học]]
 
  
 
==Tài liệu tham khảo==
 
==Tài liệu tham khảo==

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: