Sửa đổi Các trận sóng thần hủy diệt đầu thế kỷ 21 ở Châu Á

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 1: Dòng 1:
 
{{mới}}
 
{{mới}}
'''Các trận sóng thần hủy diệt đầu thế kỷ 21 ở Châu Á''' là những trận sóng thần có quy mô lan truyền và kích thước khổng lồ với năng lượng cực lớn, có sức tàn phá hủy diệt đối với hạ tầng cơ sở và môi trường nơi sóng thần tràn qua, gây tổn thất nặng nề về tính mạng con người và của cải, những hậu quả như vậy được gọi là thảm họa sóng thần.
+
, những trận sóng thần có quy mô lan truyền và kích thước khổng lồ với năng lượng cực lớn, có sức tàn phá hủy diệt đối với hạ tầng cơ sở và môi trường nơi sóng thần tràn qua, gây tổn thất nặng nề về tính mạng con người và của cải, những hậu quả như vậy được gọi là thảm họa sóng thần.
  
 
Năng lượng, kích thước, tốc độ và phạm vi lan truyền của sóng thần phụ thuộc vào độ lớn của chấn động phát sinh sóng thần còn được gọi là Magnitude, ký hiệu là M và đặc điểm môi trường sóng lan truyền. Mức độ thiệt hại của hạ tầng cơ sở và môi trường, đặc biệt là số người bị chết và thương vong do sóng thần được coi là những chỉ số chủ yếu phản ánh mức độ tàn phá và hủy diệt của sóng thần.
 
Năng lượng, kích thước, tốc độ và phạm vi lan truyền của sóng thần phụ thuộc vào độ lớn của chấn động phát sinh sóng thần còn được gọi là Magnitude, ký hiệu là M và đặc điểm môi trường sóng lan truyền. Mức độ thiệt hại của hạ tầng cơ sở và môi trường, đặc biệt là số người bị chết và thương vong do sóng thần được coi là những chỉ số chủ yếu phản ánh mức độ tàn phá và hủy diệt của sóng thần.
Dòng 10: Dòng 10:
 
Động đất xảy ra lúc 00h58’53’’GMT. Chấn tiêu nằm ở độ sâu 30 km trên đường đứt gãy sâu trải theo hướng gần bắc - nam dài 1200 km, tọa độ chấn tâm là 3,3160 N, 95,8540 E. Do chuyển động ngược chiều nhau của hai mảng thạch quyển tạo nên ứng suất cực lớn từ hai phía của đứt gãy đã dẫn đến sự chuyển động mạnh theo cơ chế chờm nghịch dọc theo đường đứt gãy gây ra động đất và làm biến dạng đột ngột địa hình đáy biển quy mô rất lớn. Theo hướng đông sóng thần ập đến sớm nhất và mạnh nhất, tàn phá hủy diệt phía tây đảo Sumatra (Indonesia), ven biển phía tây Thái Lan, Malaysia, tiếp đến là ven bờ Myanma ở phía bắc và ven biển Australia ở phía nam. Theo hướng tây sóng thần tấn công vùng ven biển phía đông Ấn Độ và Srilanka sau 2 giờ lan truyền từ chấn tâm. Sóng thần lan truyền đến tận vùng bờ phía đông châu Phi trên khoảng cách hơn 8.000 km từ chấn tâm và sau hơn 5 giờ, lần lượt tràn vào vùng bờ Somalia, Madagaska và cảng Struis Bar của Nam Phi cách chấn tâm 8500 km. Ở các vùng này sóng vẫn còn cao 1,5- 2m. Chu kỳ giữa hai đợt sóng nối tiếp nhau khoảng 30 phút và mạnh nhất là đợt sóng thứ ba ập đến sau đợt sóng đầu tiên sau khoảng 1 giờ. Tại các vùng ven biển của 14 nước nơi sóng thần tràn đến đều bị thiệt hại nặng nề. Các đường bờ biển bị san phẳng và địa hình bị biến dạng, nhiều đảo nhỏ bị nhấn chìm từng phần hoặc hoàn toàn. Thiệt hại nặng nề và nghiêm trọng nhất mà sóng thần Ấn Độ Dương gây ra là tính mạng con người. Số người thiệt mạng và mất tích, thương vong, số người mất nhà cửa ở một số nước thống kê được như sau: Indonesia (bao gồm cả Sumatra): 167.736 người chết, 36.063 người mất tích, 800.000 người mất nhà cửa; Srilanka: 15.322 người chết, 21.411 thương vong, 100.000 người mất nhà cửa; Ấn Độ: 18.045 người chết, 5.640 mất tích, hàng chục nghìn người mất nhà cửa; Thái Lan: 8.212 người chết, 8.457 người bị thương, 2.817 người mất tích; Somalia: 289 người chết. Malaysia: 75 người chết, 300 người bị thương.
 
Động đất xảy ra lúc 00h58’53’’GMT. Chấn tiêu nằm ở độ sâu 30 km trên đường đứt gãy sâu trải theo hướng gần bắc - nam dài 1200 km, tọa độ chấn tâm là 3,3160 N, 95,8540 E. Do chuyển động ngược chiều nhau của hai mảng thạch quyển tạo nên ứng suất cực lớn từ hai phía của đứt gãy đã dẫn đến sự chuyển động mạnh theo cơ chế chờm nghịch dọc theo đường đứt gãy gây ra động đất và làm biến dạng đột ngột địa hình đáy biển quy mô rất lớn. Theo hướng đông sóng thần ập đến sớm nhất và mạnh nhất, tàn phá hủy diệt phía tây đảo Sumatra (Indonesia), ven biển phía tây Thái Lan, Malaysia, tiếp đến là ven bờ Myanma ở phía bắc và ven biển Australia ở phía nam. Theo hướng tây sóng thần tấn công vùng ven biển phía đông Ấn Độ và Srilanka sau 2 giờ lan truyền từ chấn tâm. Sóng thần lan truyền đến tận vùng bờ phía đông châu Phi trên khoảng cách hơn 8.000 km từ chấn tâm và sau hơn 5 giờ, lần lượt tràn vào vùng bờ Somalia, Madagaska và cảng Struis Bar của Nam Phi cách chấn tâm 8500 km. Ở các vùng này sóng vẫn còn cao 1,5- 2m. Chu kỳ giữa hai đợt sóng nối tiếp nhau khoảng 30 phút và mạnh nhất là đợt sóng thứ ba ập đến sau đợt sóng đầu tiên sau khoảng 1 giờ. Tại các vùng ven biển của 14 nước nơi sóng thần tràn đến đều bị thiệt hại nặng nề. Các đường bờ biển bị san phẳng và địa hình bị biến dạng, nhiều đảo nhỏ bị nhấn chìm từng phần hoặc hoàn toàn. Thiệt hại nặng nề và nghiêm trọng nhất mà sóng thần Ấn Độ Dương gây ra là tính mạng con người. Số người thiệt mạng và mất tích, thương vong, số người mất nhà cửa ở một số nước thống kê được như sau: Indonesia (bao gồm cả Sumatra): 167.736 người chết, 36.063 người mất tích, 800.000 người mất nhà cửa; Srilanka: 15.322 người chết, 21.411 thương vong, 100.000 người mất nhà cửa; Ấn Độ: 18.045 người chết, 5.640 mất tích, hàng chục nghìn người mất nhà cửa; Thái Lan: 8.212 người chết, 8.457 người bị thương, 2.817 người mất tích; Somalia: 289 người chết. Malaysia: 75 người chết, 300 người bị thương.
  
Đánh giá về tổng thể, sóng thần Ấn Độ Dương là sóng thần mạnh nhất, phạm vi lan truyền và ảnh hưởng rộng nhất, gây thiệt hại lớn nhất, số người chết và thương vong cao nhất (gần 250.000 người) trong lịch sử nhân loại. Động đất - sóng thần Tôhoku, Nhật Bản ngày 11.3.2011
+
Đánh giá về tổng thể, sóng thần Ấn Độ Dương là sóng thần mạnh nhất, phạm vi lan truyền và ảnh hưởng rộng nhất, gây thiệt hại lớn nhất, số người chết và thương vong cao nhất (gần 250.000 người) trong lịch sử nhân loại. Động đất - sóng thần Tôhoku, Nhật Bản ngày 11.3.2011
  
 
Động đất có độ lớn M = 9.0 – 9.1 theo thang Mô men xảy ra vào lúc 5h 46’ UTC (14h 46’ giờ địa phương) ngày 11.3.2011 ở ngoài khơi Nhật Bản. Chấn tiêu ở độ sâu 29 km, chẩn tâm nằm ở đông bắc bán đảo Oshika cách thị trấn Tôhoku 70 km, cách thành phố Sendai trên bờ biển phía đông Nhật Bản 130 km, cách thủ đô Tokyo 373 km. Động đất đã gây ra các đợt sóng thần mạnh lan truyền dọc theo bờ biển phía bắc, đông bắc, đông và đông nam Nhật Bản, tràn sâu vào đất liền với những con sóng cao có nơi đến 40 m. Sóng thần lan truyền đến bờ phía tây và đông Thái Bình Dương thuộc địa phận 20 quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Canada, Mehico, Chile, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippin, Việt Nam. Đợt sóng thần đầu tiên có độ cao 40 m tràn vào bờ biển Nhật Bản ở vùng thành phố Sendai chỉ sau vài phút từ khi động đất chính xảy ra. Ở nhiều nơi sóng thần vào sâu bên trong đất liền tới 10 km.
 
Động đất có độ lớn M = 9.0 – 9.1 theo thang Mô men xảy ra vào lúc 5h 46’ UTC (14h 46’ giờ địa phương) ngày 11.3.2011 ở ngoài khơi Nhật Bản. Chấn tiêu ở độ sâu 29 km, chẩn tâm nằm ở đông bắc bán đảo Oshika cách thị trấn Tôhoku 70 km, cách thành phố Sendai trên bờ biển phía đông Nhật Bản 130 km, cách thủ đô Tokyo 373 km. Động đất đã gây ra các đợt sóng thần mạnh lan truyền dọc theo bờ biển phía bắc, đông bắc, đông và đông nam Nhật Bản, tràn sâu vào đất liền với những con sóng cao có nơi đến 40 m. Sóng thần lan truyền đến bờ phía tây và đông Thái Bình Dương thuộc địa phận 20 quốc gia và vùng lãnh thổ như Mỹ, Canada, Mehico, Chile, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Philippin, Việt Nam. Đợt sóng thần đầu tiên có độ cao 40 m tràn vào bờ biển Nhật Bản ở vùng thành phố Sendai chỉ sau vài phút từ khi động đất chính xảy ra. Ở nhiều nơi sóng thần vào sâu bên trong đất liền tới 10 km.
Dòng 22: Dòng 22:
 
Theo kết quả điều tra nghiên cứu về địa chấn kiến tạo, trên Biển Đông xác định được một số vùng nguồn động đất sóng thần chính. Trong số các vùng này, vùng nguồn đứt gãy hút chìm lớn nhất chạy dọc theo máng sâu Manila hướng kinh tuyến từ phía bắc đảo Luzon đến bắc đảo Palawan, Phillipine có nguy cơ phát sinh và tiềm ẩn các động đất mạnh với độ lớn cực đại Mmax đạt từ 8.0 đến 9.0. Một số lượng lớn các kịch bản sóng thần khi động đất phát sinh từ hệ đứt gãy này cũng như từ các vùng nguồn khác trên Biển  Đông với độ lớn cực đại Mmax từ 8.0 đến 9.0 đã được các nhà khoa học Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam và các nước trong khu vực tính toán, xây dựng và theo đó đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho toàn vùng và các khu vực liên quan. Kết quả cho thấy với những động đất như vậy sóng thần sẽ xảy ra, lan truyền khắp Biển Đông, tấn công vào các vùng ven biển Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Phillipine, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Đài Loan. Độ cao sóng thần ở từng nơi và trong mỗi trường hợp có thể đạt giá trị cực đại từ 2-3 m đến 10-15m và có thể gây ra những thiệt hại lớn.
 
Theo kết quả điều tra nghiên cứu về địa chấn kiến tạo, trên Biển Đông xác định được một số vùng nguồn động đất sóng thần chính. Trong số các vùng này, vùng nguồn đứt gãy hút chìm lớn nhất chạy dọc theo máng sâu Manila hướng kinh tuyến từ phía bắc đảo Luzon đến bắc đảo Palawan, Phillipine có nguy cơ phát sinh và tiềm ẩn các động đất mạnh với độ lớn cực đại Mmax đạt từ 8.0 đến 9.0. Một số lượng lớn các kịch bản sóng thần khi động đất phát sinh từ hệ đứt gãy này cũng như từ các vùng nguồn khác trên Biển  Đông với độ lớn cực đại Mmax từ 8.0 đến 9.0 đã được các nhà khoa học Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam và các nước trong khu vực tính toán, xây dựng và theo đó đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho toàn vùng và các khu vực liên quan. Kết quả cho thấy với những động đất như vậy sóng thần sẽ xảy ra, lan truyền khắp Biển Đông, tấn công vào các vùng ven biển Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Phillipine, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Đài Loan. Độ cao sóng thần ở từng nơi và trong mỗi trường hợp có thể đạt giá trị cực đại từ 2-3 m đến 10-15m và có thể gây ra những thiệt hại lớn.
  
==Tài liệu tham khảo==
+
Tài liệu tham khảo:
  
* Nguyễn Hồng Phương, Đánh giá độ nguy hiểm sóng thần trên Biển Đông phục vụ cảnh báo và giảm nhẹ thiệt hại. NXB KHTN và CN, Hà Nội, 308 tr., 2017.
+
1. Nguyễn Hồng Phương, Đánh giá độ nguy hiểm sóng thần trên Biển Đông phục vụ cảnh báo và giảm nhẹ thiệt hại. NXB KHTN và CN, Hà Nội, 308 tr., 2017.
  
* Bùi Công Quế (chủ biên) và nnk, Nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng ven biển Việt Nam, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 310 tr., 2010.
+
2. Bùi Công Quế (chủ biên) và nnk, Nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng ven biển Việt Nam, NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 310 tr., 2010.
  
* Cao Đình Triều, Tai biến động đấtvà sóng thần, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 156 tr., 2008.
+
3. Cao Đình Triều, Tai biến động đấtvà sóng thần, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 156 tr., 2008.

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)

Bản mẫu dùng trong trang này: