Khác biệt giữa các bản “An Nam/đang phát triển”
Dòng 12: Dòng 12:
  
 
Theo các văn bản [[Hán Nôm]] hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng ''Trung Hoa'', ''Trung Quốc'', ''Trung Châu'', ''Trung Hạ'', ''Hoa Hạ'', tự coi ''Hán nhân'', nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi [[Hán quyển]] ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị lược bỏ hoặc cải biên cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm.
 
Theo các văn bản [[Hán Nôm]] hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng ''Trung Hoa'', ''Trung Quốc'', ''Trung Châu'', ''Trung Hạ'', ''Hoa Hạ'', tự coi ''Hán nhân'', nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi [[Hán quyển]] ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị lược bỏ hoặc cải biên cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm.
 +
{{cquote|''Năm 1836, vua Minh Mạng cho sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Nam Campuchia vào đế quốc Đại Nam, đặt làm thành Trấn Tây. Sau đó xuống chỉ dụ cho các tướng tiến hành chính sách đồng hóa: Đất mọi từ lâu đã thuộc bản đồ của ta, dân mọi cũng là con đỏ của ta. Nên mở mang dẫn dắt, khiến chúng nhuốm gội phong tục Hán. Cho phép các ngươi vào những lúc nhàn hạ… chỉ bảo khai hóa dân ấy. Phàm hết thảy nhu yếu thông thường đều phải học tập dân Hán, chăm chỉ làm ăn. Đến như ngôn ngữ thì khiến chúng dần học tập tiếng Hán. Ăn uống, trang phục cũng khiến chúng dần theo tục Hán. Ngoài ra, vẫn có những thứ nên thay đổi sự hủ lậu mà giản tiện dễ làm, cũng tùy nghi chỉ bảo. Lượng tình chúng tuy man mọi, nhưng cũng có khả năng hiểu biết. Riêng việc dần đổi phong tục, phải nên từ từ dạy bảo… Tùy theo thứ tự trước sau mà làm, khiến chúng không hay không biết, thuận theo phép tắc đế vương, hun đúc nhuốm gội, dùng văn minh Hoa Hạ thay đổi thói tục Man Di, ấy cũng là một trong những đường lối sửa đổi phong tục. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 11)''<br>''Trong các sách vở thời Nguyễn, người Việt đều được gọi là Hán nhân (người Hán), Hán dân (dân Hán). Và như đã thấy trên, cái thứ ngôn ngữ bao gồm cả tiếng nói nôm na bình dân cho đến chữ viết quan phương bác học đều được gọi chung là tiếng Hán. Cũng chính vua Minh Mạng từng chuẩn y cho Bộ Công đặt tên chữ Hán cho các từ nôm na như gỗ lim được gọi thành thiết mộc, quả loòng boong được gọi thành quả nam trân, lỗ châu mai được đổi thành bác môn, than đá được gọi thành kiên thán… vì cho rằng cách nói nôm na thô thiển. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 29).''|||[[Trần Quang Đức]]}}
 
==Xem thêm==
 
==Xem thêm==
 
* [[Quốc danh Việt Nam]]
 
* [[Quốc danh Việt Nam]]

Phiên bản lúc 04:51, ngày 5 tháng 10 năm 2020

An Nam (Hán văn : 安南) là một quốc danh Việt Nam cũ.

Lịch sử

Theo cổ sử, danh xưng An Nam xuất hiện vào năm 679 với việc triều Đường Cao Tông đổi Giao Châu tổng quản phủ (từ 622) thành An Nam đô hộ phủ (安南都護府). Về mặt pháp lý, địa danh này tương ứng các cơ quan An Bắc (nay thuộc Bắc Bộ CHND Trung Hoa), An Đông (nay thuộc bán đảo Cao Ly), An Tây (nay thuộc Tây Bộ CHND Trung Hoa).

Kể từ đó đến cả sau khi giành tự chủ, An Nam là cách gọi chính thức trong giao thiệp giữa triều đình Việt Nam với triều đình Trung Hoa, trong khi người Cao Ly, Nhật Bản và muộn hơn là người Âu châu thường gọi Giao Chỉ. Trong các văn kiện từ đầu thế kỉ XX về trước, người Việt Nam thường xưng An Nam quốc (安南國) hoặc Nam quốc khi đề cập bản xứ. Ban đầu, triều đình Trung Hoa chấp thuận danh xưng An Nam quốc nhưng vẫn gọi phiếm Nam bang hoặc Giao Chỉ quốc, từ triều Mạc vì viện cớ Mạc Thái Tổ tiếm vị trái lễ nghĩa nên hạ xuống An Nam đô thống sứ ti (安南都統使司).

Trong khoảng một ngàn năm tự chủ, mặc dù đa số triều đại đều chọn Đại Việt làm quốc danh chính thức, nhưng lối gọi này không được phần đông hưởng ứng nên thường tồn tại trong các văn kiện pháp lý và có tính nội bộ. Mãi tới khi triều Thanh suy vi, hoàng đế Nguyễn Thánh Tổ mới ban đạo dụ nhất quán gọi Đại Nam quốc, tuy nhiên danh xưng An Nam vẫn không dứt.

Văn hóa

Ở hậu kì hiện đại, có chừng hai thập niên trong dư luận chung Việt Nam phản đối danh xưng này, coi là sự miệt thị nền độc lập tự chủ của nước Việt Nam[1]. Tuy nhiên, theo khảo cứu của tác giả Trần Quang Đức, An Nam không thuần túy là lối gọi mà còn có nội hàm văn hiến phức tạp, nhưng trước hết, có một thời gian dài người Việt Nam nói chung - đặc biệt hàng ngũ trí thức tinh anh - coi là niềm hãnh diện khi giao thiệp với ngoại nhân. Vì thế, hiện tượng số đông bài xích chữ An Nam cũng là biểu hiện đứt gãy về mặt ý thức hệ giữa tiền nhân (vốn trọng Nho học cũng như Hán học) và lớp người sau này (những người không còn điều kiện tiếp xúc văn hóa Hán tự).

Triều Đường phát triển rực rỡ trong 3 thế kỉ, gây ảnh hưởng tích cực đối với các khu vực lân cận. Cho nên, khi triều đại này đổ và vùng lõi Hán quyển bị các bộ lạc được coi kém văn minh thống trị, trong hàng ngũ Nho gia và cả chính giới có sự luyến tiếc. Không chỉ tại Việt Nam, mà bán đảo Cao LyNhật Bản vẫn trân trọng bảo lưu di sản triều Đường bằng mọi cách. Trong các văn kiện bang giao, triều đình Cao Ly thường xưng Đông quốc, đồng thời triều đình Việt cũng xưng Nam quốc hoặc An Nam quốc để tỏ rõ sự đủ chính thống thừa kế văn minh Trung Hoa so với các triều đình mới lập tại vùng lõi Hán quyển vốn xuất thân kém hơn.

Theo các văn bản Hán Nôm hiện tồn, đối với những quốc gia hoặc bộ lạc lân cận, quân chủ Việt lại thường xưng Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Châu, Trung Hạ, Hoa Hạ, tự coi Hán nhân, nhằm để ví vùng trực tiếp cai trị là lõi Hán quyển ở phương Nam. Tuy vậy, khi các văn bản này được phiên dịch hoặc ấn hành theo phương thức hiện đại, đa số bị lược bỏ hoặc cải biên cũng vì lí do kì thị xen lẫn mặc cảm.

Năm 1836, vua Minh Mạng cho sáp nhập phần lãnh thổ phía Đông Nam Campuchia vào đế quốc Đại Nam, đặt làm thành Trấn Tây. Sau đó xuống chỉ dụ cho các tướng tiến hành chính sách đồng hóa: Đất mọi từ lâu đã thuộc bản đồ của ta, dân mọi cũng là con đỏ của ta. Nên mở mang dẫn dắt, khiến chúng nhuốm gội phong tục Hán. Cho phép các ngươi vào những lúc nhàn hạ… chỉ bảo khai hóa dân ấy. Phàm hết thảy nhu yếu thông thường đều phải học tập dân Hán, chăm chỉ làm ăn. Đến như ngôn ngữ thì khiến chúng dần học tập tiếng Hán. Ăn uống, trang phục cũng khiến chúng dần theo tục Hán. Ngoài ra, vẫn có những thứ nên thay đổi sự hủ lậu mà giản tiện dễ làm, cũng tùy nghi chỉ bảo. Lượng tình chúng tuy man mọi, nhưng cũng có khả năng hiểu biết. Riêng việc dần đổi phong tục, phải nên từ từ dạy bảo… Tùy theo thứ tự trước sau mà làm, khiến chúng không hay không biết, thuận theo phép tắc đế vương, hun đúc nhuốm gội, dùng văn minh Hoa Hạ thay đổi thói tục Man Di, ấy cũng là một trong những đường lối sửa đổi phong tục. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 11)
Trong các sách vở thời Nguyễn, người Việt đều được gọi là Hán nhân (người Hán), Hán dân (dân Hán). Và như đã thấy trên, cái thứ ngôn ngữ bao gồm cả tiếng nói nôm na bình dân cho đến chữ viết quan phương bác học đều được gọi chung là tiếng Hán. Cũng chính vua Minh Mạng từng chuẩn y cho Bộ Công đặt tên chữ Hán cho các từ nôm na như gỗ lim được gọi thành thiết mộc, quả loòng boong được gọi thành quả nam trân, lỗ châu mai được đổi thành bác môn, than đá được gọi thành kiên thán… vì cho rằng cách nói nôm na thô thiển. (Nguyên văn chữ Hán ở sách Đại Nam Thực Lục – Đệ nhị kỷ – Quyển 163 – Tờ 29).

Xem thêm

Tham khảo

Tài liệu

Tư liệu