Dịch hạch là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra.[1] Triệu chứng chung của bệnh bao gồm sốt, mệt mỏi, đau đầu và thường khởi phát từ một đến bảy ngày sau lây nhiễm.[1][2] Ngoài ra với mỗi thể bệnh còn có triệu chứng riêng như ở thể hạch là sưng hạch bạch huyết, thể nhiễm khuẩn huyết thì mô có thể chuyển sang màu đen và chết, còn thể phổi có thể xuất hiện khó thở, ho và đau ngực.[2]
Tổng quan dịch hạch thể hạch và nhiễm khuẩn huyết lây truyền bởi vết cắn của bọ chét hoặc trong quá trình xử lý động vật nhiễm bệnh.[2] Thể phổi nhìn chung lây giữa người và người qua không khí bởi giọt nhiễm.[2] Chẩn đoán thường thực hiện bằng cách tìm vi khuẩn trong dịch từ hạch bạch huyết, máu, hay đờm.[1]
Những người nguy cơ cao có thể sử dụng vắc-xin.[1] Người tiếp xúc với người mắc dịch hạch thể phổi có thể phải dùng thuốc phòng ngừa.[1] Khi bị nhiễm cách điều trị là dùng kháng sinh và chăm sóc hỗ trợ.[1] Thông thường kháng sinh bao gồm kết hợp gentamicin và fluoroquinolone.[3] Tỷ lệ tử vong nếu điều trị vào khoảng 10% còn không điều trị là 70%.[4]
Thế giới mỗi năm ghi nhận khoảng 600 ca dịch hạch.[1] Vào năm 2017 các quốc gia có nhiều ca mắc nhất là Cộng hòa Dân chủ Congo, Madagascar và Peru.[1] Tại Mỹ, bệnh truyền nhiễm thường xảy ra ở những vùng nông thôn, nơi vi khuẩn được cho lưu hành ở loài gặm nhấm.[5] Ở Việt Nam dịch hạch thường phát triển mạnh vào mùa khô và lan truyền từ loài gặm nhấm sang người.[6] Trong lịch sử con người từng chứng kiến những đợt bùng phát dịch hạch lớn, nổi tiếng nhất là Cái chết Đen ở thế kỷ 14 đã khiến hơn 50 triệu người thiệt mạng.[1]
Dấu hiệu và triệu chứng
Triệu chứng tổng quan của dịch hạch là sốt, ớn lạnh, đau đầu, và buồn nôn.[2] Nhiều bệnh nhân dịch hạch thể hạch bị sưng hạch bạch huyết.[2] Đối với người bị dịch hạch thể phổi, triệu chứng có thể là đau ngực, ho, và ho ra máu.[2]
Dịch hạch thể hạch
Khi bọ chét cắn người và ợ máu trở lại vết thương, vi khuẩn gây bệnh xâm nhập mô. Y. pestis có thể sinh sản bên trong tế bào nên kể cả sự thực bào có xảy ra thì chúng vẫn còn khả năng sống sót. Khi đã ở trong cơ thể, vi khuẩn có thể đi vào hệ bạch huyết. Chúng tiết ra một vài loại độc tố, một trong số đó được biết làm chặn beta-adrenalin.[7]
Y. pestis lan truyền qua mạch bạch huyết của người nhiễm cho đến khi đến hạch bạch huyết, tại đó chúng gây viêm hạch bạch huyết cấp tính.[8] Các hạch bạch huyết bị sưng tạo ra những u hạch đặc trưng liên đới với căn bệnh và công tác mổ xẻ những hạch này cho thấy chúng hầu như xuất huyết hoặc hoại tử.[9][10]
Nếu hạch bạch huyết trở nên quá tải, nhiễm trùng có thể lấn vào dòng máu gây nên dịch hạch nhiễm khuẩn huyết thứ phát hoặc phổi gây nên dịch hạch phổi thứ phát.[11]
Tác nhân
Y. pestis có thể lây nhiễm vào cá thể bình thường bằng một trong các cách sau:[12]
- Tiếp xúc giọt – ho hoặc hắt hơi vào người khác
- Tiếp xúc vật lý trực tiếp – chạm vào người nhiễm, gồm cả tiếp xúc tình dục
- Tiếp xúc gián tiếp – chạm vào đất hay bề mặt chứa vi khuẩn
- Lây qua không khí – nếu vi khuẩn có thể tồn tại trong không khí một thời gian dài
- Lây đường phân-miệng – thường từ thực phẩm hoặc nguồn nước bẩn
- Lây bởi vật truyền – côn trùng hoặc động vật khác mang bệnh
Yersinia pestis lưu hành ở động vật, đặc biệt ở động vật gặm nhấm, trong những ổ lây nhiễm tự nhiên trên mọi lục địa trừ Australia. Các ổ dịch hạch tự nhiên nằm trong một vành đai rộng ở miền nhiệt đới, cận nhiệt đới và phần ấm hơn của miền ôn đới khắp thế giới, giữa vĩ tuyến 55 độ Bắc và 40 độ Nam.[12] Trái với niềm tin phổ biến, chuột không trực tiếp khởi động lây lan dịch hạch thể hạch. Đây chủ yếu là bệnh ở bọ chét (Xenopsylla cheopis) gây hại cho chuột, khiến chuột trở thành nạn nhân đầu tiên. Con người và động vật gặm nhấm bị lây nhiễm khi bị bọ chét mang mầm bệnh cắn. Vi khuẩn sinh sôi bên trong bọ chét, tập hợp lại tạo thành một cái nút bít kín dạ dày và khiến bọ chét đói. Tiếp theo bọ chét cắn một vật chủ và tiếp tục ăn (hút máu), kể cả khi điều này không thể dập tắt cơn đói, hệ quả là bọ chét nôn máu nhiễm vi khuẩn trở lại chỗ vết cắn. Vi khuẩn dịch hạch sau đó nhiễm vào vật chủ mới còn bọ chét cuối cùng chết vì đói. Các đợt bùng phát dịch hạch nghiêm trọng thường bắt đầu bởi các đợt bùng phát khác ở động vật gặm nhấm, hoặc bởi sự gia tăng số lượng loài gặm nhấm.[13]
Vũ khí sinh học
Dịch hạch có lịch sử lâu đời được con người sử dụng làm vũ khí sinh học. Ghi chép lịch sử từ Trung Hoa cổ đại và châu Âu trung cổ thuật lại việc sử dụng xác động vật nhiễm bệnh như bò hoặc ngựa để làm bẩn nguồn nước của kẻ thù bởi người Hung Nô/Hung, Mông Cổ, Turk, và những tộc khác. Tướng nhà Hán Hoắc Khứ Bệnh được ghi nhận đã chết vì bị đầu độc như vậy khi đang tham gia cuộc chiến chống Hung Nô. Có thông tin các nạn nhân của dịch hạch được quăng vào những thành phố đang chịu sự vây hãm bằng máy bắn.[14]
Vào năm 1347 thuộc địa Caffa của Genoa, một địa bàn giao thương lớn trên bán đảo Krym, bị quân đội Kim Trướng Mông Cổ do Janibeg chỉ huy bao vây. Cuộc vây hãm trở nên kéo dài và trong thời gian đó có tin báo quân Mông Cổ bị tàn tạ bởi dịch bệnh. Họ quyết định sử dụng xác người bệnh chết làm vũ khí sinh học. Xác được cẩu qua tường thành, làm lây nhiễm cư dân bên trong. Sự kiện này có thể đã làm lan truyền dịch hạch (Cái chết Đen) khi những cư dân mang bệnh đi về phía nam châu Âu, một cách lý giải cho sự lây lan nhanh chóng.[15]
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản đã phát triển dịch hạch làm vũ khí bằng cách nhân giống và thả ra số lượng lớn bọ chét. Vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu, Đơn vị 731 đã cố tình truyền vi khuẩn dịch hạch vào người Trung Quốc, Hàn Quốc, người dân Mãn Châu và tù binh. Sau đó những đối tượng này bị mổ xác ra để nghiên cứu, số khác bị mổ khi vẫn còn ý thức. Các thành viên của đơn vị như Shirō Ishii được xá tội tại Tòa án Tokyo nhưng 12 người bị truy tố tại Tòa án Tội ác Chiến tranh Khabarovsk năm 1949 mà ở đó một số thừa nhận đã phát tán dịch hạch trong vòng bán kính 36 km (22 dặm) quanh thành phố Thường Đức.[16]
Sau thế chiến II, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phát triển những phương thức biến dịch hạch thể phổi thành vũ khí. Thí nghiệm bao gồm những phương pháp phát tán khác nhau, sấy chân không, chỉnh cỡ vi khuẩn, phát triển những chủng kháng kháng sinh, kết hợp vi khuẩn với bệnh khác (như bạch hầu), và kỹ thuật di truyền. Các nhà khoa học làm việc trong chương trình vũ khí sinh học của Liên Xô phát biểu rằng nỗ lực của Liên Xô là ghê gớm và những kho vi khuẩn dịch hạch vũ khí hóa lớn đã được tạo ra. Thông tin về nhiều dự án của Liên Xô và Hoa Kỳ hầu như không có. Dịch hạch thể phổi sol khí hóa vẫn là mối đe dọa đáng kể nhất.[17][18][19]
Dịch hạch có thể dễ dàng chữa được bằng kháng sinh. Một số quốc gia như Hoa Kỳ sở hữu nguồn cung lớn nên những trường hợp tấn công như vậy không đáng lo ngại.[20]
Tham khảo
- ↑ a b c d e f g h i "Plague", World Health Organization, tháng 10 năm 2017, truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017
- ↑ a b c d e f g "Symptoms Plague", CDC (trong English), tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017
- ↑ "Resources for Clinicians Plague", CDC (trong English), tháng 10 năm 2015, truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017
- ↑ "FAQ Plague", CDC (trong English), tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017
- ↑ "Transmission Plague", CDC (trong English), tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017
- ↑ "BỆNH DỊCH HẠCH", vncdc, tháng 6 năm 2016, truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2020
- ↑ Brown, SD; Montie, TC (1977), "Beta-adrenergic blocking activity of Yersinia pestis murine toxin", Infection and Immunity, 18 (1): 85–93, PMC 421197, PMID 198377
- ↑ Sebbane, F; Jarret, C.O.; Gardner, D; Long, D; Hinnebusch, B.J. (2006), "Role of Yersinia pestis plasminogen activator in the incidence of distinct septicemic and bubonic forms of flea-borne plague", Proc Natl Acad Sci U S A, 103 (14): 5526–5530, doi:10.1073/pnas.0509544103, PMC 1414629, PMID 16567636CS1 maint: ref=harv (link)
- ↑ "Symptoms | Plague", Centers for Disease Control and Prevention, ngày 14 tháng 9 năm 2015, truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2017
- ↑ Sebbane, F; Gardner, D; Long, D; Gowen, B.B.; Hinnebusch, B.J. (2005), "Kinetics of Disease Progression and Host Response in a Rat Model of Bubonic Plague", Am J Pathol, 166 (5): 1427–1439, doi:10.1016/S0002-9440(10)62360-7, PMC 1606397, PMID 15855643CS1 maint: ref=harv (link)
- ↑ Plague, Centers for Disease Control and Prevention, truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2014
- ↑ a b Plague Manual: Epidemiology, Distribution, Surveillance and Control, pp. 9, 11. WHO/CDS/CSR/EDC/99.2
- ↑ Yersin, Alexandre (1894), "La peste bubonique à Hong-Kong", Annales de l'Institut Pasteur, 8: 662–67
- ↑ Schama, S. (2000). A History of Britain: At the Edge of the World? 3000BC–AD1603, First Edition, BBC Worldwide, London, p226.
- ↑ Wheelis M. (2002), "Biological warfare at the 1346 siege of Caffa", Emerg Infect Dis, 8 (9): 971–75, doi:10.3201/eid0809.010536, PMC 2732530, PMID 12194776CS1 maint: ref=harv (link)
- ↑ Daniel Barenblatt, A plague upon Humanity, HarperCollns, 2004, pp. 220–21
- ↑ "Plague", Johns Hopkins Center for Public Health Preparedness, The Johns Hopkins University, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2020
- ↑ Fleisher, Lee (ngày 20 tháng 4 năm 2012), Anesthesia and Uncommon Diseases, tr. 394, ISBN 9781455737550 Ngày truy cập cần
|url=
(trợ giúp) - ↑ Riedel, Stefan (ngày 18 tháng 4 năm 2005), "Plague: from natural disease to bioterrorism", Baylor University Medical Center Proceedings, 18 (2), PMID 16200159, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2020
- ↑ Tamparo, Carol; Lewis, Marcia (2011), Diseases of the Human Body, Philadelphia, PA: F.A. Davis Company, tr. 70, ISBN 9780803625051