Mục từ này cần được bình duyệt
Khmer Đỏ
Phiên bản vào lúc 01:46, ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)
Quốc kỳ Kampuchea Dân chủ với biểu tượng Angkor Wat vàng trên nền đỏ.

Khmer Đỏ là tên gọi để chỉ những người cộng sản Campuchia và sau này là chế độ Kampuchea Dân chủ do Đảng Cộng sản Kampuchea lãnh đạo giai đoạn 1975 đến 1979.[1]

Ý thức hệ

Có bốn chủ đề tương quan chi phối ý thức hệ của Khmer Đỏ: độc lập và tự lực hoàn toàn, bảo tồn nền chuyên chính vô sản, cách mạng kinh tế toàn diện và lập tức, chuyển đổi hoàn toàn các giá trị xã hội Khmer.[2] Vào năm 1975 Khmer Đỏ phát biểu mục tiêu của mình là "dẫn dắt nhân dân đi đến thắng lợi trong cuộc cách mạng dân chủ dân tộc, tiêu diệt bọn đế quốc, phong kiến, tư bản và thành lập một nhà nước cách mạng dân tộc ở Campuchia. Mục tiêu xa hơn của đảng là dẫn dắt nhân dân gây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản ở Campuchia."[3]

Nguồn gốc ý thức hệ

Pol Pot, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Campuchia và Thủ tướng Campuchia Dân chủ

Các học giả nhìn chung nhấn mạnh nguồn gốc Marxist của Khmer Đỏ, nhiều biểu đạt và thực hành của Khmer Đỏ trực tiếp cộng hưởng với những phong trào Marxist-Leninist khác, nhất là chủ nghĩa Mao.[4] Tuy nhiên cụ thể nó là "kiểu" chủ nghĩa Marx gì lại là điều tranh luận: Marx, Marx-Lenin, Marx-Lenin-Mao, hay Mao cực đoan?[5] Những diễn giải hàn lâm về vị trí chính trị của nó thiếu sự nhất quán,[6] có khi cho rằng nó là phong trào Marxist-Leninist "thuần túy nhất" nhưng có khi mô tả nó như một cuộc "cách mạng nông dân" chống chủ nghĩa Marx.[7] Quan điểm sau là của nhà sử học Michael Vickery, người cho rằng Khmer Đỏ không phải một chế độ cộng sản Marxist và không giống bất kỳ cuộc cách mạng cộng sản nào đã từng xảy ra trước đó ở cả châu Á hay châu Âu.[8] Kiernan thì nhận định đây không phải cách mạng vô sản dành cho giai cấp công nhân và cũng chẳng phải cách mạng nông dân có lợi cho toàn bộ đối tượng này.[7]

Khmer Đỏ không sao chép bất kỳ chỉ một hình mẫu triết học nào mà chọn lọc lấy các yếu tố của từng loại, từ ý tưởng của Mao, Stalin, Frantz Fanon, và Samir Amin.[9] Vào năm 1978 Pol Pot phát biểu rằng Campuchia đang "xây dựng chủ nghĩa xã hội với không một mô hình", quá trình diễn ra xuyên suốt giai đoạn cầm quyền của Khmer Đỏ.[10] Ý thức hệ chủ nghĩa Mao tỏ ra ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều đặc điểm của chế độ như việc chú trọng tầng lớp nông dân nông thôn làm lực lượng bảo vệ cách mạng hơn là vô sản đô thị, những sáng kiến kiểu Đại nhảy vọt, khát khao xóa bỏ lợi ích cá nhân trong hành vi con người, thúc đẩy lối sống và ăn uống cộng đồng, xem trọng lẽ thường hơn là kiến thức kỹ thuật hay hàn lâm; tuy nhiên Khmer Đỏ thể hiện những đặc điểm này ở mức độ cực đoan hơn.[9] Các tác phẩm của Samir Amin, một nhà kinh tế học Marxist ủng hộ Khmer Đỏ, có ảnh hưởng đến Khieu Samphan từ thời còn là sinh viên ở Paris và chứa đựng những đề tài tương tự như thấy trong chính sách của Khmer Đỏ.[11] Một nhân vật có tư tưởng mang nhiều nét chung với Khmer Đỏ khác là Frantz Fanon, triết gia sùng bạo lực cách mạng.[12] Tác giả Karl Jackson còn tìm ra mối liên hệ giữa Khmer Đỏ và Stalin ở cái cách chuyển đổi hóa nông thôn, thêm nữa là một số lãnh đạo Khmer Đỏ từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hồi thập niên 1950, đảng cộng sản đậm chất Stalin chủ nghĩa nhất ở Tây Âu.[13]

Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là Sparta cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.[14] Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp Lycurgus là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."[15]

Chủ quyền và tự lực

Chủ nghĩa dân tộc vốn là nét nổi bật ở hầu như mọi phong trào cách mạng, thế nhưng Khmer Đỏ đã nâng vấn đề tự lực và chủ quyền dân tộc đến một tầm dị thường.[2] Chủ nghĩa dân tộc của Khmer Đỏ giống với chủ nghĩa dân tộc của Norodom Sihanouk trừ một điểm khác biệt lớn là Khmer Đỏ xác định những người Campuchia không bài Việt Nam là phản quốc, là người nước ngoài chứ không phải người Campuchia và đối xử tàn ác với nhóm này.[16] Giới lãnh đạo Khmer Đỏ lo sợ Việt Nam sẽ thực dân hóa Campuchia sau khi Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Dương và đó là lý do mà những tuyên ngôn tư tưởng hết sức nhấn mạnh đến chủ quyền và tự lực hoàn toàn.[17] Sự sợ hãi về những ý đồ của Việt Nam khiến họ thẳng thừng từ chối "mối quan hệ đặc biệt" mà Việt Nam đề nghị vì điều đó có thể bao gồm cả quyền Việt Nam được đóng quân trên đất Campuchia cùng ảnh hưởng đáng kể, ít nhất lên chính sách đối ngoại của Campuchia.[17]

Điểm kỳ lạ ở Khmer Đỏ là họ áp dụng những nguyên tắc trừu tượng một cách giáo điều, đem thẳng lý thuyết vào thực tế bất chấp những hậu quả tai hại như cô lập ngoại giao, tàn phá kinh tế, nhân dân đau khổ.[18] Xét mức độ và phạm vi áp dụng để hướng đến tự lực và chủ quyền hoàn toàn, Khmer Đỏ là gần như độc nhất vô nhị.[19] Ngay sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ lập tức buộc tất cả người dân rời khỏi các thành phố, phá hủy hàng tiêu dùng phương Tây, đốt sách và thư viện, chấm dứt hầu hết các mối quan hệ ngoại giao, bãi bỏ tiền tệ, thị trường, ngoại hối, cắt đứt gần như mọi giao dịch với thế giới bên ngoài.[19] Khmer Đỏ công khai từ chối viện trợ nước ngoài, không nhận bất kỳ đề nghị viện trợ nào từ các nước không cộng sản.[20] Thiếu vắng nguồn cung lương thực và thuốc men hiện đại, nhiều người dân Campuchia đã chết trong đói khổ và bệnh tật.[20] Ngân hàng trung ương, biểu tượng của sự kết nối giữa Campuchia với hệ thống kinh tế thế giới, bị đánh sập bằng chất nổ và giấy bạc được để tung bay trên những con phố không người của thủ đô.[21] Nhà thờ chính tòa Phnom Penh bị tháo dỡ từng viên đá một cho đến khi không còn bất kỳ dấu tích của dinh thự tôn giáo Tây phương nổi bật nhất ở quốc gia.[21]

Giai cấp xã hội

Khi Khmer Đỏ huy động lực lượng để lật đổ chính quyền Lon Nol họ chia xã hội Campuchia thành năm giai cấp phân biệt: công nhân, nông dân, tư sản, tư bản, và phong kiến.[22] Họ tập trung công kích "chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến" và tìm cách lôi kéo mọi thành phần xã hội khác.[22] Tuy nhiên sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ chỉ còn coi trọng công nhân, nông dân tập thể, quan chức chính quyền, và quân cách mạng.[22] Thay vì tạm thời sử dụng những con người hiện có để vận hành nhà nước, Khmer Đỏ lập tức loại bỏ toàn bộ và xây dựng một bộ máy phi tập trung, phi quan liêu, Mao chủ nghĩa cấp tiến do đảng và quân đội kiểm soát để phục vụ đối tượng có vị thế thấp kém nhất trong xã hội cũ là nông dân nghèo.[23] Khmer Đỏ cấp tốc săn lùng và trừ khử toàn bộ sĩ quan và nhiều quân nhân trong quân đội của Lon Nol, quan chức chế độ cũ, hoàng thân (trừ Sihanouk), địa chủ, doanh nhân, lao động có tay nghề, chuyên gia có học vấn, người Chăm, tu sĩ Phật giáo.[23]

Tổng quan, người dân Kampuchea Dân chủ được phân thành ba hạng: người có đủ quyền (penh sith), ứng viên đạt đủ quyền (triem), và người không có quyền (bannheu).[24] Gần như mọi penh sith đều tham gia cách mạng từ sớm và đến từ bộ phận dân quê nghèo cũng như ít học nhất, được phép nhận đủ lương thực và gia nhập mọi tổ chức như đảng hay quân đội.[25] Triem cũng chủ yếu đến từ nông thôn, được nhận khẩu phần ít hơn và nắm giữ chức sắc nhỏ.[25] Hạng thấp nhất, bannheu, không có quyền gì kể cả nhận lương thực; bao gồm cựu địa chủ, sĩ quan, quan chức, giáo viên, thương nhân, cư dân thành thị.[25] Hầu hết đối tượng mà Khmer đỏ nhắm đến tiêu diệt là thuộc nhóm này.[24] Nhóm được hưởng đầy đủ đặc quyền chỉ chiếm chưa đến 15% tổng dân số.[25]

Khmer Đỏ bêu riếu sự bất bình đẳng và đồi trụy của chốn đô thị thời chế độ cũ.[26] Với khát khao xóa bỏ vĩnh viễn sự bất bình đẳng, họ trừ khử những cá nhân trước kia có địa vị vừa và cao chiếu theo của cải, học vấn, nghề nghiệp, hay dòng dõi.[26] Đuổi hết cư dân khỏi các thành phố, sát hại bannheu, bãi bỏ tiền tệ và thị trường, triệt để với học thuyết đấu tranh giai cấp vĩnh viễn giữa penh sithbannheu là biện pháp mà giới lãnh đạo Khmer Đỏ cho rằng sẽ nhanh chóng mang lại một xã hội quân bình.[26]

Lịch sử

Kinh tế

Chính sách kinh tế của Khmer Đỏ là dẹp bỏ hệ thống tư bản, thực hành lao động cưỡng bức và chú trọng phát triển nhanh chóng nông nghiệp.[27] Chiến lược phát triển kinh tế là xây dựng một nền tảng nông nghiệp mạnh mẽ được hỗ trợ bởi những ngành thủ công và công nghiệp nhỏ địa phương.[28] Chính quyền tiến hành tập thể hóa nông nghiệp toàn diện và lập tức, quốc hữu hóa mọi bộ phận của nền kinh tế, và thông qua đường lối tự lực.[29] Tất cả tài sản là sở hữu nhà nước, sở hữu cá nhân bị cấm tuyệt đối, thị trường và tiền tệ bị bãi bỏ.[30] Campuchia thời Khmer Đỏ là quốc gia duy nhất từng xóa bỏ tiền tệ,[31] thứ bị cho là "công cụ độc hại nhất" vì "nó cám dỗ chúng ta quay về với tư hữu."[32] Chế độ cũng cấm mọi giao thương quốc tế, chỉ trừ giao thương rất hạn chế với một số nước cộng sản đồng minh.[33]

Vào năm 1976 Đảng Cộng sản Campuchia đề ra Kế hoạch Bốn Năm với mục tiêu nhanh chóng nâng cao mức sống của người dân và gia tăng tư bản từ nông nghiệp để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng.[34] Nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo, được chú trọng trên hết,[32] thể hiện qua câu khẩu hiệu phổ biến "nếu có gạo chúng ta có thể có tất cả."[35] Gạo thay thế tiền tệ trở thành thứ đại diện cho giá trị, sản xuất và xuất khẩu gạo sinh ra vốn thặng dư.[34] Chính quyền nỗ lực tăng gấp ba sản lượng gạo trong vòng bốn năm để đạt mục tiêu ba tấn gạo một hecta một năm.[36] Bên cạnh lúa thì các loại cây khác như bông, đay, cao su, dừa cũng được trồng để xuất khẩu.[37] Để hoàn thành những mục tiêu của kế hoạch, nhiều người đã phải làm việc 10 đến 12 tiếng một ngày và đa số những người không quen với lao động chân đều sớm bỏ mạng vì thiếu ăn và kiệt sức.[38]

Tham khảo

Trích dẫn

  1. Ross 1990, tr. 316.
  2. a b Jackson 1989, tr. 39.
  3. Slocomb 2006, tr. 385.
  4. Tyner 2017, tr. 1.
  5. Tyner 2017, tr. 2.
  6. Kiernan 2008, tr. 25.
  7. a b Kiernan 2008, tr. 26.
  8. O'kane 1993, tr. 735.
  9. a b Jackson 1989, tr. 244.
  10. Chandler 2008, tr. 256.
  11. Jackson 1989, tr. 245–246.
  12. Jackson 1989, tr. 246.
  13. Jackson 1989, tr. 249.
  14. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192, 195.
  15. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192.
  16. Kiernan 2001, tr. 192.
  17. a b Jackson 1989, tr. 41.
  18. Jackson 1989, tr. 44.
  19. a b Jackson 1989, tr. 45.
  20. a b Jackson 1989, tr. 48.
  21. a b Jackson 1989, tr. 49.
  22. a b c Jackson 1989, tr. 50.
  23. a b Jackson 1989, tr. 51.
  24. a b Jackson 1989, tr. 52; Duffy 1994, tr. 86.
  25. a b c d Jackson 1989, tr. 52.
  26. a b c Jackson 1989, tr. 55.
  27. Chhair & Ung 2013, tr. 5.
  28. Ross 1990, tr. 151.
  29. Chhair & Ung 2013, tr. 5; Ross 1990, tr. 151.
  30. Chhair & Ung 2013; Prasso 2001, tr. 1.
  31. Prasso 2001, tr. 1.
  32. a b Tyner 2020, tr. 149.
  33. Chhair & Ung 2013, tr. 6.
  34. a b Tyner 2017, tr. 110.
  35. Jackson 1989, tr. 48; Ross 1990, tr. 154.
  36. Tyner 2017, tr. 107; Chandler 2008, tr. 262.
  37. Chandler 2008, tr. 263.
  38. Chandler 2008, tr. 264.

Tạp chí

  • Slocomb, Margaret (ngày 30 tháng 8 năm 2006), "The Nature and Role of Ideology in the Modern Cambodian State", Journal of Southeast Asian Studies, 37 (3): 375–395, doi:10.1017/S0022463406000695, JSTOR 20071782, S2CID 144936898
  • Kiernan, Ben (tháng 6 năm 2001), "Myth, nationalism and genocide", Journal of Genocide Research, 3 (2): 187–206, doi:10.1080/14623520120062402, S2CID 9606008
  • O'kane, Rosemary H T (tháng 1 năm 1993), "Cambodia in the zero years: Rudimentary totalitarianism", Third World Quarterly, 14 (4): 735–748, doi:10.1080/01436599308420354, JSTOR 3992949, S2CID 154490829
  • Tyner, James A. (tháng 5 năm 2020), ""Currency is a Most Poisonous Tool": State Capitalism, Nonmarket Socialism, and the Elimination of Money during the Cambodian Genocide", Genocide Studies and Prevention, 14 (1): 143–158, doi:10.5038/1911-9933.14.1.1710, S2CID 218948256
  • Duffy, Terence (tháng 2 năm 1994), "Toward a Culture of Human Rights in Cambodia", Human Rights Quarterly, 16 (1): 82–104, doi:10.2307/762412, JSTOR 762412, S2CID 147500625

Sách

Web