Mục từ này cần được bình duyệt
Khmer Đỏ
Phiên bản vào lúc 21:24, ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Marrella (Thảo luận | đóng góp)

Ý thức hệ

Có bốn chủ đề tương quan chi phối ý thức hệ của Khmer Đỏ: độc lập và tự lực hoàn toàn, bảo tồn nền chuyên chính vô sản, cách mạng kinh tế toàn diện và lập tức, chuyển đổi hoàn toàn các giá trị xã hội Khmer.[1] Vào năm 1975 Khmer Đỏ phát biểu mục tiêu của mình là "dẫn dắt nhân dân đi đến thắng lợi trong cuộc cách mạng dân chủ dân tộc, tiêu diệt bọn đế quốc, phong kiến, tư bản và thành lập một nhà nước cách mạng dân tộc ở Campuchia. Mục tiêu xa hơn của đảng là dẫn dắt nhân dân gây dựng cách mạng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản ở Campuchia."[2]

Nguồn gốc ý thức hệ

Pol Pot, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Campuchia và Thủ tướng Campuchia Dân chủ

Các học giả nhìn chung nhấn mạnh nguồn gốc Marxist của Khmer Đỏ, nhiều biểu đạt và thực hành của Khmer Đỏ trực tiếp cộng hưởng với những phong trào Marxist-Leninist khác, nhất là chủ nghĩa Mao.[3] Tuy nhiên cụ thể nó là "kiểu" chủ nghĩa Marx gì lại là điều tranh luận: Marx, Marx-Lenin, Marx-Lenin-Mao, hay Mao cực đoan?[4] Những diễn giải hàn lâm về vị trí chính trị của nó thiếu sự nhất quán,[5] có khi cho rằng nó là phong trào Marxist-Leninist "thuần túy nhất" nhưng có khi mô tả nó như một cuộc "cách mạng nông dân" chống chủ nghĩa Marx.[6] Quan điểm sau là của nhà sử học người Mỹ Michael Vickery, người cho rằng Khmer Đỏ không phải một chế độ cộng sản Marxist và không giống bất kỳ cuộc cách mạng cộng sản nào đã từng xảy ra trước đó ở cả châu Á hay châu Âu.[7] Kiernan thì nhận định đây không phải cách mạng vô sản dành cho giai cấp công nhân và cũng chẳng phải cách mạng nông dân có lợi cho toàn bộ đối tượng này.[6]

Khmer Đỏ không sao chép bất kỳ chỉ một hình mẫu triết học nào mà chọn lọc lấy các yếu tố của từng loại, từ ý tưởng của Mao, Stalin, Frantz Fanon, và Samir Amin.[8] Vào năm 1978 Pol Pot phát biểu rằng Campuchia đang "xây dựng chủ nghĩa xã hội với không một mô hình", quá trình diễn ra xuyên suốt giai đoạn cầm quyền của Khmer Đỏ.[9] Ý thức hệ chủ nghĩa Mao tỏ ra ảnh hưởng sâu đậm đến nhiều đặc điểm của chế độ như việc chú trọng tầng lớp nông dân nông thôn làm lực lượng bảo vệ cách mạng hơn là vô sản đô thị, những sáng kiến kiểu Đại nhảy vọt, khát khao xóa bỏ lợi ích cá nhân trong hành vi con người, thúc đẩy lối sống và ăn uống cộng đồng, hiểu biết lẽ thường hơn là kiến thức kỹ thuật hay hàn lâm; tuy nhiên Khmer Đỏ thể hiện những đặc điểm này ở mức độ cực đoan hơn.[8] Các tác phẩm của Samir Amin, một nhà kinh tế học Marxist ủng hộ Khmer Đỏ, có ảnh hưởng đến Khieu Samphan từ thời còn là sinh viên ở Paris và chứa đựng những đề tài tương tự như thấy trong chính sách của Khmer Đỏ.[10] Một nhân vật có tư tưởng mang nhiều nét chung với Khmer Đỏ khác là Frantz Fanon, triết gia sùng bạo lực cách mạng.[11] Tác giả Karl Jackson còn tìm ra mối liên hệ giữa Khmer Đỏ và Stalin ở cái cách chuyển đổi hóa nông thôn, thêm nữa là một số lãnh đạo Khmer Đỏ từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hồi thập niên 1950, đảng cộng sản đậm chất Stalin chủ nghĩa nhất ở Tây Âu.[12]

Kiernan nhìn lại lịch sử nhân loại để tìm một hình mẫu tương đồng nhất với Campuchia Dân chủ và đó có thể là Sparta cổ đại với những điểm chung như: bành trướng bạo lực, thù địch chủng tộc, chủ nghĩa công xã quân bình, hệ tư tưởng trọng nông.[13] Paul Cartledge, nhà sử học hàng đầu về Sparta, mô tả nhà lập pháp Lycurgus là "cái gì đó như một sự pha trộn giữa George Washington và Pol Pot."[14]

Chủ quyền và tự lực

Chủ nghĩa dân tộc vốn là nét nổi bật ở hầu như mọi phong trào cách mạng, thế nhưng Khmer Đỏ đã nâng vấn đề tự lực và chủ quyền dân tộc đến một tầm cỡ dị thường.[1] Chủ nghĩa dân tộc của Khmer Đỏ giống với chủ nghĩa dân tộc của Norodom Sihanouk trừ một điểm khác biệt lớn là Khmer Đỏ xác định những người Campuchia không bài Việt Nam là phản quốc, là người nước ngoài chứ không phải người Campuchia và đối xử tàn ác với nhóm này.[15] Giới lãnh đạo Khmer Đỏ lo sợ Campuchia sẽ bị Việt Nam thực dân hóa sau khi Hoa Kỳ bị trục xuất khỏi Đông Dương và đó là lý do mà những tuyên ngôn tư tưởng hết sức nhấn mạnh đến chủ quyền và tự lực hoàn toàn.[16]

Điểm kỳ lạ của Khmer Đỏ là họ áp dụng những nguyên tắc trừu tượng một cách giáo điều, đem thẳng lý thuyết vào thực tế bất chấp những hậu quả tai hại như cô lập ngoại giao, tàn phá kinh tế, nhân dân đau khổ.[17] Mức độ và phạm vi áp dụng trong công cuộc hướng đến tự lực và chủ quyền hoàn toàn biến Khmer Đỏ trở nên gần như độc nhất vô nhị.[18] Ngay sau khi giành chính quyền, Khmer Đỏ lập tức buộc tất cả người dân rời khỏi các thành phố, phá hủy hàng tiêu dùng phương Tây, đốt sách và thư viện, chấm dứt hầu hết các mối quan hệ ngoại giao, bãi bỏ tiền tệ, thị trường, ngoại hối, cắt đứt gần như mọi giao dịch với thế giới bên ngoài.[18] Khmer Đỏ công khai từ chối viện trợ nước ngoài, không nhận bất kỳ đề nghị viện trợ nào từ các nước không cộng sản.[19] Thiếu vắng nguồn cung lương thực và thuốc men hiện đại, nhiều người dân Campuchia đã chết trong đói khổ và bệnh tật.[19]

Tham khảo

Trích dẫn

  1. a b Jackson 1989, tr. 39.
  2. Slocomb 2006, tr. 385.
  3. Tyner 2017, tr. 1.
  4. Tyner 2017, tr. 2.
  5. Kiernan 2008, tr. 25.
  6. a b Kiernan 2008, tr. 26.
  7. O'kane 1993, tr. 735.
  8. a b Jackson 1989, tr. 244.
  9. Chandler 2008, tr. 256.
  10. Jackson 1989, tr. 245–246.
  11. Jackson 1989, tr. 246.
  12. Jackson 1989, tr. 249.
  13. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192, 195.
  14. Westad & Quinn-Judge 2006, tr. 192.
  15. Kiernan 2001, tr. 192.
  16. Jackson 1989, tr. 41.
  17. Jackson 1989, tr. 44.
  18. a b Jackson 1989, tr. 45.
  19. a b Jackson 1989, tr. 48.

Tạp chí

  • Slocomb, Margaret (ngày 30 tháng 8 năm 2006), "The Nature and Role of Ideology in the Modern Cambodian State", Journal of Southeast Asian Studies, 37 (3): 375–395, doi:10.1017/S0022463406000695, JSTOR 20071782, S2CID 144936898
  • Kiernan, Ben (tháng 6 năm 2001), "Myth, nationalism and genocide", Journal of Genocide Research, 3 (2): 187–206, doi:10.1080/14623520120062402, S2CID 9606008
  • O'kane, Rosemary H T (tháng 1 năm 1993), "Cambodia in the zero years: Rudimentary totalitarianism", Third World Quarterly, 14 (4): 735–748, doi:10.1080/01436599308420354, JSTOR 3992949, S2CID 154490829

Sách