Dòng 10: | Dòng 10: | ||
Tuy nhiên, trong trường kì [[lịch sử]] cũng thường xuất hiện [[nghĩa tặc]], tức những nhân vật tìm cách trộm cướp để thỏa mãn hành vi nghĩa hiệp, hoặc giản đơn là chứng minh sự bế tắc hoặc bất cân đối của hiện thực xã hội. Lớp người này được lưu truyền thành giai thoại và có phẩm cách [[văn chương]] là chủ yếu. | Tuy nhiên, trong trường kì [[lịch sử]] cũng thường xuất hiện [[nghĩa tặc]], tức những nhân vật tìm cách trộm cướp để thỏa mãn hành vi nghĩa hiệp, hoặc giản đơn là chứng minh sự bế tắc hoặc bất cân đối của hiện thực xã hội. Lớp người này được lưu truyền thành giai thoại và có phẩm cách [[văn chương]] là chủ yếu. | ||
+ | {{cquote|''Tìm hiểu các luật hình sự thời quân chủ, có thể thấy triều đình Việt trước đây luôn có những điều luật xử nghiêm hành vi trộm cắp, dù là trộm cắp thông thường. Những trường hợp đặc biệt như trộm báu vật, ấn tín, đồ tế khí, lăng tẩm... liên quan đến triều đình đều nhất loạt xử tử, ở đây tôi không bàn tới.''<br>''Điều luật cụ thể xử tội trộm cắp vào thời Lý, hiện chưa có tư liệu trực tiếp đề cập. Chỉ biết, nhà Lý xử nặng đối với người trộm trâu, cụ thể là phạt đánh 100 trượng (1). Với người ăn trộm trâu và giết trâu thì cả hai vợ chồng đều bị phạt đánh 80 trượng, chồng chịu tội đồ phục dịch trong quân đội, vợ chịu tội đồ phục dịch trong nhà trồng dâu nuôi tằm, đồng thời phải đền trâu cho người bị trộm (2). Cần lưu ý, luật năm 1125 quy định tội giết người chỉ bị phạt 100 trượng, trổ 50 chữ vào mặt (3). Ngô Thì Sĩ sau này phê luật nhà Lý xử quá nhẹ, đồng thời cho đó là lỗi lớn của nhà Lý (4). Chính vì vậy có cơ sở để suy luận, tội trộm cắp của cải thông thường vào thời kỳ này cùng lắm chỉ bị đánh vài chục trượng mà thôi.''<br>''Nhà Trần lên thay nhà Lý vào năm 1226. Bốn năm sau ban hành bộ luật mới. Lê Tắc gián tiếp cho biết : “Với kẻ trộm cắp, lần đầu trộm phạt đánh 80 trượng, trổ hai chữ Phạm Đạo [phạm tội ăn trộm] vào mặt, phải đền 9/10 đồ ăn trộm, không thể đền thì bắt vợ con làm nô lệ. Tái phạm thì chặt chân tay. Phạm lần thứ ba thì giết” (5). Sứ thần nhà Nguyên, Trần Cương Trung, năm 1293 sang sứ cũng ghi nhận : “Hình pháp rất tàn khốc, kẻ ăn trộm và đào tẩu bị chặt ngón chân, ngón tay” (6).''<br>''Luật nhà Lê sơ đánh dấu bởi bộ "Quốc triều hình luật" (còn gọi là "Luật Hồng Đức") ban hành vào khoảng 1470 - 1497 thời Lê Thánh Tông. Bộ luật này quy định : Kẻ trộm mới phạm lần đầu thì phải đày đi viễn xứ. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải tội chém. Kẻ giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ (tương tự như phạt lao động công ích ngày nay), đã lấy được của thì phải bồi thường 1/3 tang vật... Đàn bà được giảm tội (7). Đối chiếu với ghi chép của "Toàn thư" và "Hình luật chí" của Phan Huy Chú, có thể thấy trộm cướp thời kỳ này ngoài chịu tội lưu (đày), tội đồ (phục dịch), còn bị chặt ngón tay. Phan Huy Chú cho biết, năm 1721, triều đình Lê - Trịnh Đàng Ngoài đã cho đổi tội “chặt tay và lưu đày” thành “đi đày và phục dịch ở chuồng voi” tùy theo nặng nhẹ để xác định thời hạn như tội xử “chặt hai bàn tay và đày đi viễn xứ” thì thành “đi phục dịch ở chuồng voi suốt đời”... Tuy nhiên, “những kẻ trộm cướp bị tội chặt tay và lưu đày thì không theo lệ này” (8). Luật của Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phước Nguyên (trị vì 1614 - 1635) quy định : “Tội nặng, tên trộm sẽ bị chém đầu ; nếu tội nhẹ như trộm gà, lần đầu hắn sẽ bị chặt một ngón tay, lần thứ hai chặt một ngón khác, lần thứ ba sẽ bị cắt tai, lần thứ tư sẽ bị chém đầu” (9).''<br>''Triều đình nhà Nguyễn sau khi thành lập đã cho tham khảo hình luật của các đời, đặc biệt châm chước luật Hồng Đức thời Lê và luật nhà Thanh Trung Quốc, biên soạn và ban hành bộ "Hoàng Việt luật lệ" (thường gọi là "Luật Gia Long") vào năm 1815. Bộ luật này xử tội trộm cắp dựa trên giá trị của tang vật bị trộm : “Phàm trộm cắp đã thực hiện song không lấy được tiền của, phạt 50 roi, miễn trổ chữ. Song lấy được tiền của thì phải trị tội... Phạm lần đầu thì trổ lên cẳng tay phải hai chữ Thiết Đạo [trộm cắp]. Tái phạm trổ lên cẳng tay trái. Phạm lần thứ ba thì xử giảo [thắt cổ]. Cụ thể : Trộm 1 lạng tới 10 lạng đánh 70 trượng, 20 lạng đánh 80 trượng, 30 lạng đánh 90 trượng, 40 lạng đánh 100 trượng, 50 lạng đánh 60 trượng - xử tội đồ 1 năm, 60 lạng đánh 70 trượng - xử tội đồ 2 năm... 100 lạng đánh 100 roi - lưu đày 2000 dặm... 120 lạng trở lên xử tội giảo” (10).''<br>''Xét ra thì luật Lý khoan hồng, luật Trần hà khắc, luật Lê nghiêm minh, luật Nguyễn xác thực. Luật thời nay có phạt hành chính, cải tạo, tù giam, tuy đã chạm tới văn minh, song chưa đủ nghiêm để dân nể, chưa đủ sáng để dân theo. Thành thử chục năm gần đây quan trộm dân cướp, phạm pháp thành bầy, không có cách nào ngăn được !''|||[[Trần Quang Đức|Vân-trai Trần-quang-Đức]], ''Khảo về luật xử tội trộm-cắp qua các thời-đại'', [[Hà Nội]], 2014}} | ||
==Xem thêm== | ==Xem thêm== | ||
* [[Lừa đảo]] | * [[Lừa đảo]] |
Phiên bản lúc 22:13, ngày 19 tháng 10 năm 2020
Trộm cướp là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác, nhưng tùy mức nghiêm trọng mà xử phạt.
Thuật ngữ
Trộm cướp là lối diễn giải hiện đại của hai hành vi trộm (cổ âm : tlộm, 濫) và cướp/cắp (cổ âm : kiếp, 搶), trước kia được gọi chung đạo tặc (盜賊).
Lịch sử
Mặc dù được coi là một tội, nhưng có nhiều nguyên nhân dẫn tới hành vi trộm cướp. Tuy vậy, nhìn chung có ba dạng phổ biến :
- Trộm cướp vì túng thiếu : Đây là hình thức căn bản, có thể xảy ra ở bất kì xã hội hay thời đại nào, thậm chí ngay trong những thành phần ưu tú nhất.
- Trộm cướp vì bị ai thúc ép : Một dạng phạm tội vì nguyên nhân khách quan, thường phát xuất ở những bối cảnh đặc thù ; thường được gọi tội phạm có tổ chức.
- Trộm cướp vì bệnh lý : Thường xảy ra ở những hình thái xã hội ít có sự cảm thông giữa các thành phần, cả xã hội phải biến chuyển theo những định kiến khắt khe ; dạng tội phạm này có thể không túng thiếu và càng không bị ai thúc ép, mà thực hiện hành vi vì muốn gây sự chú ý của người xung quanh.
Ở hậu kì hiện đại, các tội lừa đảo, đạo văn, rửa tiền, liên đới kĩ nghệ cao cũng được coi là trộm cướp hoặc xử như trộm cướp, dù phương thức thực hiện phức tạp hơn. Từ thập niên 2000, tội này bắt đầu được nhiều quốc gia xem xét xếp chung với khủng bố để tiến tới hợp nhất thành một khung phạt.
Tuy nhiên, trong trường kì lịch sử cũng thường xuất hiện nghĩa tặc, tức những nhân vật tìm cách trộm cướp để thỏa mãn hành vi nghĩa hiệp, hoặc giản đơn là chứng minh sự bế tắc hoặc bất cân đối của hiện thực xã hội. Lớp người này được lưu truyền thành giai thoại và có phẩm cách văn chương là chủ yếu.
Tìm hiểu các luật hình sự thời quân chủ, có thể thấy triều đình Việt trước đây luôn có những điều luật xử nghiêm hành vi trộm cắp, dù là trộm cắp thông thường. Những trường hợp đặc biệt như trộm báu vật, ấn tín, đồ tế khí, lăng tẩm... liên quan đến triều đình đều nhất loạt xử tử, ở đây tôi không bàn tới.
Điều luật cụ thể xử tội trộm cắp vào thời Lý, hiện chưa có tư liệu trực tiếp đề cập. Chỉ biết, nhà Lý xử nặng đối với người trộm trâu, cụ thể là phạt đánh 100 trượng (1). Với người ăn trộm trâu và giết trâu thì cả hai vợ chồng đều bị phạt đánh 80 trượng, chồng chịu tội đồ phục dịch trong quân đội, vợ chịu tội đồ phục dịch trong nhà trồng dâu nuôi tằm, đồng thời phải đền trâu cho người bị trộm (2). Cần lưu ý, luật năm 1125 quy định tội giết người chỉ bị phạt 100 trượng, trổ 50 chữ vào mặt (3). Ngô Thì Sĩ sau này phê luật nhà Lý xử quá nhẹ, đồng thời cho đó là lỗi lớn của nhà Lý (4). Chính vì vậy có cơ sở để suy luận, tội trộm cắp của cải thông thường vào thời kỳ này cùng lắm chỉ bị đánh vài chục trượng mà thôi.
Nhà Trần lên thay nhà Lý vào năm 1226. Bốn năm sau ban hành bộ luật mới. Lê Tắc gián tiếp cho biết : “Với kẻ trộm cắp, lần đầu trộm phạt đánh 80 trượng, trổ hai chữ Phạm Đạo [phạm tội ăn trộm] vào mặt, phải đền 9/10 đồ ăn trộm, không thể đền thì bắt vợ con làm nô lệ. Tái phạm thì chặt chân tay. Phạm lần thứ ba thì giết” (5). Sứ thần nhà Nguyên, Trần Cương Trung, năm 1293 sang sứ cũng ghi nhận : “Hình pháp rất tàn khốc, kẻ ăn trộm và đào tẩu bị chặt ngón chân, ngón tay” (6).
Luật nhà Lê sơ đánh dấu bởi bộ "Quốc triều hình luật" (còn gọi là "Luật Hồng Đức") ban hành vào khoảng 1470 - 1497 thời Lê Thánh Tông. Bộ luật này quy định : Kẻ trộm mới phạm lần đầu thì phải đày đi viễn xứ. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm tái phạm thì phải tội chém. Kẻ giữa ban ngày ăn cắp vặt cũng xử tội đồ (tương tự như phạt lao động công ích ngày nay), đã lấy được của thì phải bồi thường 1/3 tang vật... Đàn bà được giảm tội (7). Đối chiếu với ghi chép của "Toàn thư" và "Hình luật chí" của Phan Huy Chú, có thể thấy trộm cướp thời kỳ này ngoài chịu tội lưu (đày), tội đồ (phục dịch), còn bị chặt ngón tay. Phan Huy Chú cho biết, năm 1721, triều đình Lê - Trịnh Đàng Ngoài đã cho đổi tội “chặt tay và lưu đày” thành “đi đày và phục dịch ở chuồng voi” tùy theo nặng nhẹ để xác định thời hạn như tội xử “chặt hai bàn tay và đày đi viễn xứ” thì thành “đi phục dịch ở chuồng voi suốt đời”... Tuy nhiên, “những kẻ trộm cướp bị tội chặt tay và lưu đày thì không theo lệ này” (8). Luật của Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phước Nguyên (trị vì 1614 - 1635) quy định : “Tội nặng, tên trộm sẽ bị chém đầu ; nếu tội nhẹ như trộm gà, lần đầu hắn sẽ bị chặt một ngón tay, lần thứ hai chặt một ngón khác, lần thứ ba sẽ bị cắt tai, lần thứ tư sẽ bị chém đầu” (9).
Triều đình nhà Nguyễn sau khi thành lập đã cho tham khảo hình luật của các đời, đặc biệt châm chước luật Hồng Đức thời Lê và luật nhà Thanh Trung Quốc, biên soạn và ban hành bộ "Hoàng Việt luật lệ" (thường gọi là "Luật Gia Long") vào năm 1815. Bộ luật này xử tội trộm cắp dựa trên giá trị của tang vật bị trộm : “Phàm trộm cắp đã thực hiện song không lấy được tiền của, phạt 50 roi, miễn trổ chữ. Song lấy được tiền của thì phải trị tội... Phạm lần đầu thì trổ lên cẳng tay phải hai chữ Thiết Đạo [trộm cắp]. Tái phạm trổ lên cẳng tay trái. Phạm lần thứ ba thì xử giảo [thắt cổ]. Cụ thể : Trộm 1 lạng tới 10 lạng đánh 70 trượng, 20 lạng đánh 80 trượng, 30 lạng đánh 90 trượng, 40 lạng đánh 100 trượng, 50 lạng đánh 60 trượng - xử tội đồ 1 năm, 60 lạng đánh 70 trượng - xử tội đồ 2 năm... 100 lạng đánh 100 roi - lưu đày 2000 dặm... 120 lạng trở lên xử tội giảo” (10).
Xét ra thì luật Lý khoan hồng, luật Trần hà khắc, luật Lê nghiêm minh, luật Nguyễn xác thực. Luật thời nay có phạt hành chính, cải tạo, tù giam, tuy đã chạm tới văn minh, song chưa đủ nghiêm để dân nể, chưa đủ sáng để dân theo. Thành thử chục năm gần đây quan trộm dân cướp, phạm pháp thành bầy, không có cách nào ngăn được !— Vân-trai Trần-quang-Đức, Khảo về luật xử tội trộm-cắp qua các thời-đại, Hà Nội, 2014