Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Dịch hạch”
Dòng 38: Dòng 38:
 
Đỉnh điểm của cơn bệnh rơi vào ngày 4 đến 6.{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=299}} Sốt duy trì 39–40 °C, mặt méo mó, tim đập nhanh, huyết áp thấp{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=299}} kéo theo là kích động, kiệt sức, lú lẫn, đôi khi co giật và mê sảng.{{sfnm|1a1=Gage|1a2=Beard|1y=2017|1p=1082|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=405|3a1=Mead|3y=2011|3p=280}} Số đếm bạch cầu thường vào khoảng 12.000–25.000/μL, có thể tới 50.000/μL hoặc hơn, đa phần là [[bạch cầu nhân đa hình]] non.{{sfn|Mead|2011|p=280}} Khi mà cơ thể không thể sàng lọc và tiêu diệt vi khuẩn trong hạch bạch huyết, chúng sẽ lan tỏa theo dòng máu và xâm nhập cơ quan ngoại biên.{{sfn|Rajerison et al.|2014|p=405}} Đến đây đã là sự xuất hiện của dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát có tỷ lệ tử vong rất cao.{{sfn|Rajerison et al.|2014|pp=405–406}} Cuối cùng, ''Y. pestis'' theo đường máu nhiễm vào phổi, gây nên dịch hạch thể phổi thứ phát.{{sfn|Rajerison et al.|2014|p=406}}
 
Đỉnh điểm của cơn bệnh rơi vào ngày 4 đến 6.{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=299}} Sốt duy trì 39–40 °C, mặt méo mó, tim đập nhanh, huyết áp thấp{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=299}} kéo theo là kích động, kiệt sức, lú lẫn, đôi khi co giật và mê sảng.{{sfnm|1a1=Gage|1a2=Beard|1y=2017|1p=1082|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=405|3a1=Mead|3y=2011|3p=280}} Số đếm bạch cầu thường vào khoảng 12.000–25.000/μL, có thể tới 50.000/μL hoặc hơn, đa phần là [[bạch cầu nhân đa hình]] non.{{sfn|Mead|2011|p=280}} Khi mà cơ thể không thể sàng lọc và tiêu diệt vi khuẩn trong hạch bạch huyết, chúng sẽ lan tỏa theo dòng máu và xâm nhập cơ quan ngoại biên.{{sfn|Rajerison et al.|2014|p=405}} Đến đây đã là sự xuất hiện của dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát có tỷ lệ tử vong rất cao.{{sfn|Rajerison et al.|2014|pp=405–406}} Cuối cùng, ''Y. pestis'' theo đường máu nhiễm vào phổi, gây nên dịch hạch thể phổi thứ phát.{{sfn|Rajerison et al.|2014|p=406}}
  
Ở trẻ em, hạch hay thấy ở phần thân trên hơn so với người lớn.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=279|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=406}} Hạch phổ biến nhất ở vùng bẹn (trên 50%), nách (20%), và cổ (5%).{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=298}} Kiểm tra vùng da xung quanh hoặc gần hạch có thể phát hiện vết cắn của bọ chét biểu hiện sẩn, mủ, vảy, hay loét nhỏ.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=279|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082}} Dịch hạch thể hạch khác với những dạng [[viêm hạch bạch huyết]] khác ở chỗ không có [[viêm mô tế bào]], cực nhạy cảm đau, phù nề xung quanh, khởi phát nhanh và tình trạng bệnh nhân xấu đi nhanh.{{sfnm|1a1=Rajerison et al.|1y=2014|1p=405|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082}} Nếu điều trị bằng kháng sinh sớm và đúng cách, những biểu hiện toàn thân như sốt sẽ mau chóng cải thiện rồi biến mất trong vòng 2–5 ngày.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=280|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=406}} Mặc dù vậy hạch vẫn còn to và đau khi tiếp xúc trong một tuần hoặc hơn kể từ lúc bắt đầu điều trị.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=280|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082|3a1=Rajerison et al.|3y=2014|3p=406}}
+
Những vị trí hay nổi hạch nhất là vùng bẹn (trên 50%), nách (20%), và cổ (5%).{{sfn|Nikiforov et al.|2016|p=298}} Ở trẻ em, hạch hay thấy ở phần thân trên hơn so với người lớn.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=279|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=406}} Kiểm tra vùng da xung quanh hoặc gần hạch có thể phát hiện vết cắn của bọ chét biểu hiện sẩn, mủ, vảy, hay loét nhỏ.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=279|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082}} Dịch hạch thể hạch khác với những dạng [[viêm hạch bạch huyết]] khác ở chỗ không có [[viêm mô tế bào]], cực nhạy cảm đau, phù nề xung quanh, khởi phát nhanh và tình trạng bệnh nhân xấu đi nhanh.{{sfnm|1a1=Rajerison et al.|1y=2014|1p=405|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082}} Nếu điều trị bằng kháng sinh sớm và đúng cách, những biểu hiện toàn thân như sốt sẽ mau chóng cải thiện rồi biến mất trong vòng 2–5 ngày.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=280|2a1=Rajerison et al.|2y=2014|2p=406}} Mặc dù vậy hạch vẫn còn to và đau khi tiếp xúc trong một tuần hoặc hơn kể từ lúc bắt đầu điều trị.{{sfnm|1a1=Mead|1y=2011|1p=280|2a1=Gage|2a2=Beard|2y=2017|2p=1082|3a1=Rajerison et al.|3y=2014|3p=406}}
  
 
=== Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết ===
 
=== Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết ===

Phiên bản lúc 19:44, ngày 10 tháng 2 năm 2022

Dịch hạch
Yersinia pestis fluorescent.jpeg
Yersinia pestis phóng đại 200 lần, nhuộm huỳnh quang.
Chuyên khoaBệnh truyền nhiễm
Triệu chứngSốt, ớn lạnh, đau đầu, đau nhức người, suy nhược, buồn nôn, nôn mửa
Khởi phát1–7 ngày sau phơi nhiễm[1]
LoạiDịch hạch thể hạch, dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết, dịch hạch thể phổi
Nguyên nhânYersinia pestis
Chẩn đoánTìm vi khuẩn trong hạch bạch huyết, máu, đờm
Phòng ngừaVaccine dịch hạch
Điều trịKháng sinhchăm sóc hỗ trợ
ThuốcGentamicinfluoroquinolone
Tiên lượngNguy cơ tử vong ~10% (nếu điều trị)
Số người mắc~600 ca một năm

Dịch hạchbệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra.[↓ 1][3] Bệnh có ba thể lâm sàng chính là thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, và thể phổi.[4] Ở người, dịch hạch thể hạch là phổ biến nhất có nguyên nhân hầu hết từ vết cắn của bọ chét mang vi khuẩn.[5] Triệu chứng thường xuất hiện sau 2–6 ngày, hay gặp là sốt, đau đầu, đau cơ, đau khớp, ớn lạnh, suy nhược.[6] Thể nhiễm khuẩn huyết thường phát sinh từ thể hạch[7] với đặc điểm diễn tiến nhanh và nhiễm độc huyết nặng.[8] Thể phổi có thể là thứ phát từ thể hạch hoặc nhiễm khuẩn huyết, hoặc nguyên phát từ việc trực tiếp hít phải vi khuẩn.[9] Dạng này rất nhanh dẫn đến triệu chứng và tử vong.[10]

Dịch hạch đòi hỏi phải được chẩn đoán và điều trị kịp thời để tránh nguy cơ tử vong cao.[11] Chẩn đoán có thể dựa vào biểu hiện lâm sàng, lịch sử dịch tễ, hay khám thân thể, nhưng đáng tin cậy là xét nghiệm trong phòng thí nghiệm.[12] Chữa trị sớm bằng kháng sinh như streptomycin rất hiệu quả và là bắt buộc.[13] Liệu pháp hỗ trợ cũng cần thiết trong trường hợp triệu chứng nặng như sốc nhiễm khuẩn.[14] Nếu không điều trị, dịch hạch thể hạch có tỷ lệ tử vong từ 50 đến 90%[15] còn thể nhiễm khuẩn huyết và thể phổi là gần như 100%.[12]

Để phòng ngừa dịch hạch cần tránh xa những vùng có dịch ở động vật, tránh tiếp xúc với chuột, bọ chét, nhất là những con vật ốm hoặc chết.[16] Hiện chưa có vaccine được cấp phép nhưng công tác nghiên cứu và phát triển đang tiếp tục.[17] Trường hợp dịch ở động vật diễn biến nguy hiểm đe dọa con người thì một biện pháp ưu tiên là khống chế số lượng bọ chét bằng thuốc diệt côn trùng.[18] Nếu dịch hạch bùng phát trên người thì cần nhanh chóng khoanh vùng, phát hiện và điều trị ca bệnh, cách ly và theo dõi ca nghi ngờ, kiểm soát bọ chét và các loài gặm nhấm.[18]

Giai đoạn 2010–2015 thế giới ghi nhận 3.248 ca dịch hạch trong đó có 584 ca tử vong.[19] Gần đây dịch hạch phổ biến ở các quốc gia Cộng hòa Dân chủ Congo, MadagascarPeru.[20] Con người đã bị nhiễm bệnh từ thời đồ đồng cách đây khoảng 3.800 năm.[21] Lịch sử nhân loại từng trải qua ba đợt bùng phát dịch hạch lớn,[22] nổi tiếng nhất là Cái chết Đen hồi thế kỷ 14 đã cướp đi sinh mạng của hơn 25 triệu người hay một phần ba dân số châu Âu.[23] Vì là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, dịch hạch từ lâu đã được con người lợi dụng làm vũ khí sinh học, đáng kể như trong Chiến tranh thế giới thứ HaiChiến tranh Lạnh.[24] Tác nhân gây bệnh, vi khuẩn Yersinia pestis, được Alexandre Yersin phát hiện ở Hồng Kông vào năm 1894.[25]

Dấu hiệu và triệu chứng

Dịch hạch có triệu chứng tổng quan ban đầu giống cúm như sốt cao, ớn lạnh, khó chịu, đau đầu, đau người, suy nhược, buồn nôn, nôn mửa.[26] Triệu chứng thường xuất hiện sau 2–7 ngày nhưng có thể chỉ 1 ngày với dịch hạch thể phổi nguyên phát.[27]

Dịch hạch thể hạch

Sưng tuyến bạch huyết bẹn ở người mắc dịch hạch thể hạch.

Dịch hạch thể hạch là loại phổ biến nhất ở người,[28] chiếm trên 80% số ca như ở Hoa Kỳ[29] hay gần 86% như ở Madagasca giai đoạn 2006–2015.[30] Con người mắc dịch hạch loại này hầu hết là do bị bọ chét mang mầm bệnh cắn.[31] Triệu chứng xuất hiện sau thời kỳ ủ bệnh 2–6 ngày (đôi khi lâu hơn) gồm có sốt, ớn lạnh, đau đầu, đau cơ, đau khớp, suy nhược.[32] Cùng lúc hoặc không lâu sau, bệnh nhân thấy đau ở những hạch bạch huyết gần điểm vi khuẩn xâm nhập.[33] Các hạch này ngày một đau và sưng to,[33] đến khoảng ngày thứ 2 hay 3 có kích cỡ bằng hạt đậu và dễ dàng sờ thấy.[5] Mô xung quanh hạch thường phù nề và lớp da trên ấm, chuyển đỏ, căng, có thể bong tróc.[34] Tiếp xúc với chúng khiến bệnh nhân thấy rất khó chịu và đau đớn, kể cả với quần áo, do vậy họ thường hạn chế cử động và tránh đụng chạm.[35]

Đỉnh điểm của cơn bệnh rơi vào ngày 4 đến 6.[36] Sốt duy trì 39–40 °C, mặt méo mó, tim đập nhanh, huyết áp thấp[36] kéo theo là kích động, kiệt sức, lú lẫn, đôi khi co giật và mê sảng.[37] Số đếm bạch cầu thường vào khoảng 12.000–25.000/μL, có thể tới 50.000/μL hoặc hơn, đa phần là bạch cầu nhân đa hình non.[38] Khi mà cơ thể không thể sàng lọc và tiêu diệt vi khuẩn trong hạch bạch huyết, chúng sẽ lan tỏa theo dòng máu và xâm nhập cơ quan ngoại biên.[5] Đến đây đã là sự xuất hiện của dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát có tỷ lệ tử vong rất cao.[39] Cuối cùng, Y. pestis theo đường máu nhiễm vào phổi, gây nên dịch hạch thể phổi thứ phát.[7]

Những vị trí hay nổi hạch nhất là vùng bẹn (trên 50%), nách (20%), và cổ (5%).[40] Ở trẻ em, hạch hay thấy ở phần thân trên hơn so với người lớn.[41] Kiểm tra vùng da xung quanh hoặc gần hạch có thể phát hiện vết cắn của bọ chét biểu hiện sẩn, mủ, vảy, hay loét nhỏ.[42] Dịch hạch thể hạch khác với những dạng viêm hạch bạch huyết khác ở chỗ không có viêm mô tế bào, cực nhạy cảm đau, phù nề xung quanh, khởi phát nhanh và tình trạng bệnh nhân xấu đi nhanh.[43] Nếu điều trị bằng kháng sinh sớm và đúng cách, những biểu hiện toàn thân như sốt sẽ mau chóng cải thiện rồi biến mất trong vòng 2–5 ngày.[44] Mặc dù vậy hạch vẫn còn to và đau khi tiếp xúc trong một tuần hoặc hơn kể từ lúc bắt đầu điều trị.[45]

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết dẫn đến hoại tử

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thường phát sinh từ dịch hạch thể hạch nhưng cũng có thể khởi động biểu hiện lâm sàng.[10] Ở dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết nguyên phát không thấy viêm hạch bạch huyết vùng rõ rệt và dịch hạch thường không bị nghi ngờ cho đến khi có kết quả xét nghiệm máu cấy.[46] Thể dịch hạch này có đặc điểm diễn tiến nhanh, nhiễm nội độc tố huyết nặng, nhiễm khuẩn lan tỏa.[47] Bệnh nhân có thể bộc lộ những triệu chứng đường tiêu hóa như buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, khiến việc chẩn đoán thêm khó khăn.[47]

Dịch hạch thể phổi

Thể phổi của dịch hạch phát sinh từ nhiễm khuẩn phổi. Dịch hạch dạng này gây ho, hắt hơi, do đó tạo ra những giọt bắn chứa tế bào vi khuẩn và dễ làm lây nhiễm cho bất kỳ ai hít phải chúng. Thời kỳ ủ bệnh của dịch hạch thể phổi ngắn, thường hai đến bốn ngày nhưng đôi khi chỉ vài tiếng. Các dấu hiệu ban đầu là không thể phân biệt với những bệnh đường hô hấp khác, bao gồm đau đầu, mệt mỏi, và nhổ hoặc nôn ra máu. Bệnh tiến triển nhanh nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, thông thường chỉ trong vòng vài giờ và tử vong có thể xảy ra trong một đến sáu ngày. Tỷ lệ tử vong là gần 100% nếu không chữa trị.[48][49]

Tác nhân

Xenopsylla cheopsis (bọ chét chuột nhiệt đới) no máu sau khi ăn. Loài bọ chét này là véc-tơ chủ yếu làm lây truyền Yersinia pestis, thủ phạm gây bệnh dịch hạch. Cả bọ chét đực và cái đều hút máu và có thể truyền vi khuẩn.

Yersinia pestiscầu trực khuẩn gram âm, không động, hình que và không có bào tử.[50] Chúng là sinh vật yếm khí không bắt buộc và tác nhân gây bệnh dịch hạch ở người.[51] Y. pestis có thể lây nhiễm vào cá thể bình thường bằng một trong các cách sau:[52]

  • Tiếp xúc giọt – ho hoặc hắt hơi vào người khác
  • Tiếp xúc vật lý trực tiếp – chạm vào người nhiễm, gồm cả tiếp xúc tình dục
  • Tiếp xúc gián tiếp – chạm vào đất hay bề mặt chứa vi khuẩn
  • Lây qua không khí – nếu vi khuẩn có thể tồn tại trong không khí một thời gian dài
  • Lây đường phân-miệng – thường từ thực phẩm hoặc nguồn nước bẩn
  • Lây bởi vật truyền – côn trùng hoặc động vật khác mang bệnh

Yersinia pestis lưu hành ở động vật, đặc biệt ở động vật gặm nhấm, trong những ổ lây nhiễm tự nhiên trên mọi lục địa trừ Australia. Các ổ dịch hạch tự nhiên nằm trong một vành đai rộng ở miền nhiệt đới, cận nhiệt đới và phần ấm hơn của miền ôn đới khắp thế giới, giữa vĩ tuyến 55 độ Bắc và 40 độ Nam.[52] Trái với niềm tin phổ biến, chuột không trực tiếp khởi động lây lan dịch hạch thể hạch. Đây chủ yếu là bệnh ở bọ chét (Xenopsylla cheopis) gây hại cho chuột, khiến chuột trở thành nạn nhân đầu tiên. Con người và động vật gặm nhấm bị lây nhiễm khi bị bọ chét mang mầm bệnh cắn. Vi khuẩn sinh sôi bên trong bọ chét, tập hợp lại tạo thành một cái nút bít kín dạ dày và khiến bọ chét đói. Tiếp theo bọ chét cắn một vật chủ và tiếp tục ăn (hút máu), kể cả khi điều này không thể dập tắt cơn đói, hệ quả là bọ chét nôn máu nhiễm vi khuẩn trở lại chỗ vết cắn. Vi khuẩn dịch hạch sau đó nhiễm vào vật chủ mới còn bọ chét cuối cùng chết vì đói. Các đợt bùng phát dịch hạch nghiêm trọng thường bắt đầu bởi các đợt bùng phát khác ở động vật gặm nhấm, hoặc bởi sự gia tăng số lượng loài gặm nhấm.[53]

Vũ khí sinh học

Dịch hạch có lịch sử lâu đời được con người sử dụng làm vũ khí sinh học. Ghi chép lịch sử từ Trung Hoa cổ đại và châu Âu trung cổ thuật lại việc sử dụng xác động vật nhiễm bệnh như bò hoặc ngựa để làm bẩn nguồn nước của kẻ thù bởi người Hung Nô/Hung, Mông Cổ, Turk, và những tộc khác. Tướng nhà Hán Hoắc Khứ Bệnh được ghi nhận đã chết vì bị đầu độc như vậy khi đang tham gia cuộc chiến chống Hung Nô. Có thông tin các nạn nhân của dịch hạch được quăng vào những thành phố đang chịu sự vây hãm bằng máy bắn.[54]

Vào năm 1347 thuộc địa Caffa của Genoa, một địa bàn giao thương lớn trên bán đảo Krym, bị quân đội Kim Trướng Mông Cổ do Janibeg chỉ huy bao vây. Cuộc vây hãm trở nên kéo dài và trong thời gian đó có tin báo quân Mông Cổ bị tàn tạ bởi dịch bệnh. Họ quyết định sử dụng xác người bệnh chết làm vũ khí sinh học. Xác được cẩu qua tường thành, làm lây nhiễm cư dân bên trong. Sự kiện này có thể đã làm lan truyền dịch hạch (Cái chết Đen) khi những cư dân mang bệnh đi về phía nam châu Âu, một cách lý giải cho sự lây lan nhanh chóng.[55]

Trong Chiến tranh thế giới thứ Hai, quân đội Nhật Bản đã phát triển dịch hạch làm vũ khí bằng cách nhân giống và thả ra số lượng lớn bọ chét. Vào thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu, Đơn vị 731 đã cố tình truyền vi khuẩn dịch hạch vào người Trung Quốc, Hàn Quốc, người dân Mãn Châu và tù binh. Sau đó những đối tượng này bị mổ xác ra để nghiên cứu, số khác bị mổ khi vẫn còn ý thức. Các thành viên của đơn vị như Shirō Ishii được xá tội tại Tòa án Tokyo nhưng 12 người bị truy tố tại Tòa án Tội ác Chiến tranh Khabarovsk năm 1949 mà ở đó một số thừa nhận đã phát tán dịch hạch trong vòng bán kính 36 km (22 dặm) quanh thành phố Thường Đức.[56]

Sau thế chiến II, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phát triển những phương thức biến dịch hạch thể phổi thành vũ khí. Thí nghiệm bao gồm những phương pháp phát tán khác nhau, sấy chân không, chỉnh cỡ vi khuẩn, phát triển những chủng kháng kháng sinh, kết hợp vi khuẩn với bệnh khác (như bạch hầu), và kỹ thuật di truyền. Các nhà khoa học làm việc trong chương trình vũ khí sinh học của Liên Xô phát biểu rằng nỗ lực của Liên Xô là ghê gớm và những kho vi khuẩn dịch hạch vũ khí hóa lớn đã được tạo ra. Thông tin về nhiều dự án của Liên Xô và Hoa Kỳ hầu như không có. Dịch hạch thể phổi sol khí hóa vẫn là mối đe dọa đáng kể nhất.[57][58][59]

Dịch hạch có thể dễ dàng chữa được bằng kháng sinh. Một số quốc gia như Hoa Kỳ sở hữu nguồn cung lớn nên những trường hợp tấn công như vậy không đáng lo ngại.[60]

Chú thích

  1. Theo nguồn thì dịch hạch là bệnh zoonotic (zoonosis), tức là bệnh truyền nhiễm do mầm bệnh (ở đây là Y. pestis) lây từ động vật sang người. Tuy nhiên dịch hạch thể phổi có thể lây qua đường không khí từ nguồn khác động vật (ví dụ như từ người sang người).[2]

Tham khảo

Trích dẫn

  1. WHO 2017; Galy et al. 2018; Mead 2011, tr. 279.
  2. Kool 2005.
  3. Mead 2011, tr. 276; Drancourt 2020, tr. 623; Gage & Beard 2017, tr. 1078.
  4. Mead 2011, tr. 276; Gage & Beard 2017, tr. 1078.
  5. a b c Rajerison et al. 2014, tr. 405.
  6. Rajerison et al. 2014, tr. 405; Gage & Beard 2017, tr. 1081.
  7. a b Rajerison et al. 2014, tr. 406.
  8. Gage & Beard 2017, tr. 1082; Drancourt 2020, tr. 626.
  9. Mead 2011, tr. 280; Rajerison et al. 2014, tr. 407.
  10. a b Rajerison et al. 2014, tr. 406; Drancourt 2020, tr. 626.
  11. Mead 2011, tr. 281; Gage & Beard 2017, tr. 1083; Yang 2018; Stenseth et al. 2008.
  12. a b Mead 2011, tr. 281; Gage & Beard 2017, tr. 1083.
  13. Drancourt 2020, tr. 628; Rajerison et al. 2014, tr. 407–408; Sebbane & Lemaître 2021.
  14. Drancourt 2020, tr. 628; Yang 2018.
  15. Drancourt 2020, tr. 626.
  16. Mead 2011, tr. 282; Drancourt 2020, tr. 628.
  17. Sun & Singh 2019; Rosenzweig, Hendrix & Chopra 2021.
  18. a b Mead 2011, tr. 282.
  19. WHO 2017.
  20. WHO 2017; Glatter & Finkelman 2021.
  21. Spyrou et al. 2018.
  22. Zietz & Dunkelberg 2004.
  23. Glatter & Finkelman 2021.
  24. Ansari, Grier & Byers 2020; Dennis 2009, tr. 38–39.
  25. Butler 2014.
  26. WHO 2017; Galy et al. 2018; Yang 2018; Stenseth et al. 2008.
  27. Mead 2011, tr. 279; WHO 2017.
  28. WHO 2017; Rajerison et al. 2014; Stenseth et al. 2008.
  29. CDCPlagueMaps 2021.
  30. Rakotosamimanana et al. 2021.
  31. WHO 2017; Rajerison et al. 2014, tr. 405.
  32. Gage & Beard 2017, tr. 1081; Rajerison et al. 2014, tr. 405.
  33. a b Mead 2011, tr. 279; Gage & Beard 2017, tr. 1081.
  34. Mead 2011, tr. 279; Rajerison et al. 2014, tr. 405; Gage & Beard 2017, tr. 1082.
  35. Mead 2011, tr. 279; Rajerison et al. 2014, tr. 405; Gage & Beard 2017, tr. 1081–1082.
  36. a b Nikiforov et al. 2016, tr. 299.
  37. Gage & Beard 2017, tr. 1082; Rajerison et al. 2014, tr. 405; Mead 2011, tr. 280.
  38. Mead 2011, tr. 280.
  39. Rajerison et al. 2014, tr. 405–406.
  40. Nikiforov et al. 2016, tr. 298.
  41. Mead 2011, tr. 279; Rajerison et al. 2014, tr. 406.
  42. Mead 2011, tr. 279; Gage & Beard 2017, tr. 1082.
  43. Rajerison et al. 2014, tr. 405; Gage & Beard 2017, tr. 1082.
  44. Mead 2011, tr. 280; Rajerison et al. 2014, tr. 406.
  45. Mead 2011, tr. 280; Gage & Beard 2017, tr. 1082; Rajerison et al. 2014, tr. 406.
  46. Mead 2011, tr. 280; Gage & Beard 2017, tr. 1082.
  47. a b Mead 2011, tr. 280; Gage & Beard 2017, tr. 1082; Drancourt 2020, tr. 626.
  48. Ryan, K. J.; Ray, C. G., bt. (2004), Sherris Medical Microbiology: An Introduction to Infectious Diseases (lxb. 4th), New York: McGraw-Hill, ISBN 978-0-8385-8529-0
  49. Hoffman SL (1980), "Plague in the United States: the "Black Death" is still alive", Annals of Emergency Medicine, 9 (6): 319–22, doi:10.1016/S0196-0644(80)80068-0, PMID 7386958CS1 maint: ref=harv (link)
  50. Collins FM (1996), Baron S; et al. (bt.), Pasteurella, Yersinia, and Francisella. In: Baron's Medical Microbiology (lxb. 4th), Univ. of Texas Medical Branch, ISBN 978-0-9631172-1-2
  51. Ryan KJ, Ray CG, bt. (2004), Sherris Medical Microbiology (lxb. 4th), McGraw Hill, tr. 484–488, ISBN 978-0-8385-8529-0
  52. a b Plague Manual: Epidemiology, Distribution, Surveillance and Control, pp. 9, 11. WHO/CDS/CSR/EDC/99.2
  53. Yersin, Alexandre (1894), "La peste bubonique à Hong-Kong", Annales de l'Institut Pasteur, 8: 662–67
  54. Schama, S. (2000). A History of Britain: At the Edge of the World? 3000BC–AD1603, First Edition, BBC Worldwide, London, p226.
  55. Wheelis M. (2002), "Biological warfare at the 1346 siege of Caffa", Emerg Infect Dis, 8 (9): 971–75, doi:10.3201/eid0809.010536, PMC 2732530, PMID 12194776CS1 maint: ref=harv (link)
  56. Daniel Barenblatt, A plague upon Humanity, HarperCollns, 2004, pp. 220–21
  57. "Plague", Johns Hopkins Center for Public Health Preparedness, The Johns Hopkins University, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2020
  58. Fleisher, Lee (ngày 20 tháng 4 năm 2012), Anesthesia and Uncommon Diseases, tr. 394, ISBN 9781455737550
  59. Riedel, Stefan (ngày 18 tháng 4 năm 2005), "Plague: from natural disease to bioterrorism", Baylor University Medical Center Proceedings, 18 (2), PMID 16200159, truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2020
  60. Tamparo, Carol; Lewis, Marcia (2011), Diseases of the Human Body, Philadelphia, PA: F.A. Davis Company, tr. 70, ISBN 9780803625051

Tạp chí

  • Stenseth, Nils Chr; Atshabar, Bakyt B; Begon, Mike; Belmain, Steven R; Bertherat, Eric; Carniel, Elisabeth; Gage, Kenneth L; Leirs, Herwig; Rahalison, Lila (ngày 15 tháng 1 năm 2008), "Plague: Past, Present, and Future", PLoS Medicine, 5 (1): e3, doi:10.1371/journal.pmed.0050003, PMC 2194748, PMID 18198939, S2CID 8784194
  • Kool, Jacob L. (ngày 15 tháng 4 năm 2005), "Risk of Person‐to‐Person Transmission of Pneumonic Plague", Clinical Infectious Diseases, 40 (8): 1166–1172, doi:10.1086/428617, PMID 15791518, S2CID 22910852
  • Rosenzweig, Jason A.; Hendrix, Emily K.; Chopra, Ashok K. (tháng 6 năm 2021), "Plague vaccines: new developments in an ongoing search", Applied Microbiology and Biotechnology, 105 (12): 4931–4941, doi:10.1007/s00253-021-11389-6, PMC 8211537, PMID 34142207
  • Spyrou, Maria A.; Tukhbatova, Rezeda I.; Wang, Chuan-Chao; Valtueña, Aida Andrades; Lankapalli, Aditya K.; Kondrashin, Vitaly V.; Tsybin, Victor A.; Khokhlov, Aleksandr; Kühnert, Denise; Herbig, Alexander; Bos, Kirsten I.; Krause, Johannes (ngày 8 tháng 6 năm 2018), "Analysis of 3800-year-old Yersinia pestis genomes suggests Bronze Age origin for bubonic plague", Nature Communications, 9 (1), doi:10.1038/s41467-018-04550-9, PMC 5993720, PMID 29884871, S2CID 47001769
  • Butler, T. (tháng 3 năm 2014), "Plague history: Yersin's discovery of the causative bacterium in 1894 enabled, in the subsequent century, scientific progress in understanding the disease and the development of treatments and vaccines", Clinical Microbiology and Infection, 20 (3): 202–209, doi:10.1111/1469-0691.12540, PMID 24438235, S2CID 206903784
  • Rakotosamimanana, Sitraka; Kassie, Daouda; Taglioni, François; Ramamonjisoa, Josélyne; Rakotomanana, Fanjasoa; Rajerison, Minoarisoa (ngày 10 tháng 6 năm 2021), "A decade of plague in Madagascar: a description of two hotspot districts", BMC Public Health, 21 (1), doi:10.1186/s12889-021-11061-8, PMC 8194207, PMID 34112118

Web

  • "Plague", who.int, World Health Organization, ngày 31 tháng 10 năm 2017, truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2022
  • "Plague - Maps and Statistics", cdc.gov, Centers for Disease Control and Prevention, ngày 27 tháng 5 năm 2021, truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2022

Sách