n (Taitamtinh đã đổi Nam Hà thành Nam Hà/đang phát triển: Quá 30 ngày chưa bình duyệt nên chuyển sang không gian bài đang phát triển) |
|||
(Không hiển thị 3 phiên bản của một người dùng khác ở giữa) | |||
Dòng 7: | Dòng 7: | ||
Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới [[triều Tây Sơn]], sang đến [[triều Nguyễn]] thì hoàn toàn hợp nhất với [[Đàng Ngoài]]. Từ triều [[Nguyễn Thánh Tổ]] tới [[Nguyễn Dực Tôn|Dực Tôn]] dần chia đất Nam Hà thành [[Trung Bộ|Trực Kì]], [[Nam Trung Bộ|Tả Kì]], [[Nam Bộ|Nam Kì]] và [[Tây Nguyên|Nam Bàn]]. | Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới [[triều Tây Sơn]], sang đến [[triều Nguyễn]] thì hoàn toàn hợp nhất với [[Đàng Ngoài]]. Từ triều [[Nguyễn Thánh Tổ]] tới [[Nguyễn Dực Tôn|Dực Tôn]] dần chia đất Nam Hà thành [[Trung Bộ|Trực Kì]], [[Nam Trung Bộ|Tả Kì]], [[Nam Bộ|Nam Kì]] và [[Tây Nguyên|Nam Bàn]]. | ||
+ | [[Hình:Hoi An the ky 17 (2).jpg|nhỏ|giữa|999px|Họa phẩm ''Chu ấn thuyền Giao Chỉ độ hàng đồ quyển'' (朱印船交趾渡航図巻 / しゅいんせんこうちとこうずかん) kích thước 32,8 cm x 1.100,7 cm hiện trữ tại Bảo tàng Quốc lập Cửu Châu (九州国立博物館), thành phố Dazaifu, tỉnh Fukuoka ([[Nhật Bản]]). Được họa cuối thế kỉ XVII, mô tả chuyến hải hành của một chu ấn thuyền từ cảng Nagasaki tới thương cảng Hội An. Thương gia Araki Sōtarō dâng lễ vật lên thế tử kiêm tổng trấn Quảng Nam [[Nguyễn Phúc Nguyên]] xin thông thương, được ngài gả công nữ Ngọc Hoa cho.]] | ||
==Tham khảo== | ==Tham khảo== | ||
− | * [[ | + | * [[Bắc Hà]] |
==Liên kết== | ==Liên kết== | ||
{{cước chú|4}} | {{cước chú|4}} |
Bản hiện tại lúc 09:50, ngày 15 tháng 11 năm 2020
Nam Hà (Hán : 南河) hoặc Đàng Trong (Nôm : 唐冲[1]) là tục danh một cựu lĩnh thổ An Nam trung đại[2].
Lịch sử[sửa]
Địa danh Đàng Trong xuất hiện sớm nhất trong Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Tự điển An Nam - Bồ - Latin) đề cập dải duyên hải từ sông Gianh trở xuống Nam, thuộc quyền coi quản của các chúa Nguyễn[3]. Thực tế chúa Nguyễn chỉ dám xưng Trấn thủ tướng quân, vẫn tự coi thần tử triều Lê trung hưng và là phần kéo dài của An Nam quốc. Đương thời, ngoại nhân thường gọi Nam Hà xứ hoặc Quảng Nam quốc, trong khi thổ dân chỉ xưng Giao Chỉ nhân.
Kể từ đầu thế kỉ XVII, giữa hai bờ sông Gianh chỉ có giao thương, không ràng buộc về tuế cống nữa. Sang thế kỉ XVIII, Võ vương Nguyễn Phước Khoát bắt đầu cải biến phong hóa, dần khiến những đất cũ và đất mới bành trướng tạo nên xứ tự chủ ngang hàng với chúa Trịnh ở Bắc sông Gianh. Trong dân gian đổi gọi Đàng Trong là Tây quốc để đối lập Nam quốc là Đàng Ngoài.
Đàng Trong căn bản còn giữ tình trạng ấy tới triều Tây Sơn, sang đến triều Nguyễn thì hoàn toàn hợp nhất với Đàng Ngoài. Từ triều Nguyễn Thánh Tổ tới Dực Tôn dần chia đất Nam Hà thành Trực Kì, Tả Kì, Nam Kì và Nam Bàn.
Tham khảo[sửa]
Liên kết[sửa]
- Viện Sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 4, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
- Nguyễn Phan Quang (2006), Một số công trình sử học Việt Nam, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
- Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong 1558-1777. (Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1967)
- Li Tana, Xứ Đàng Trong : Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Nghị. (Nhà xuất bản Trẻ, 2013)
- John Barrow (1764–1848), A voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793