Mục từ này cần được bình duyệt
Khác biệt giữa các bản “Thánh Tông di thảo/đang phát triển”
n (Taitamtinh đã đổi Thánh Tông di thảo thành Thánh Tông di thảo/đang phát triển: Quá 30 ngày chưa bình duyệt nên chuyển sang không gian bài đang phát triển)
 
(Không hiển thị phiên bản của một người dùng khác ở giữa)
Dòng 75: Dòng 75:
 
[[Thể loại:Văn kiện Việt Nam]]
 
[[Thể loại:Văn kiện Việt Nam]]
 
[[Thể loại:Văn học trung đại]]
 
[[Thể loại:Văn học trung đại]]
 +
[[Thể loại:Tùng thoại]]
 
[[Thể loại:Chí quái]]
 
[[Thể loại:Chí quái]]

Bản hiện tại lúc 09:55, ngày 15 tháng 11 năm 2020

Thánh Tông di thảo
聖宗遺草
Du Jin - Wang Xianzhi (Wang Hsien-Chih) and Two Wives Among Willows and Rocks - Walters 355.jpg
Tác giảNặc danh thị
Dịch giảBùi Văn Nguyên
Nguyễn Ngọc San
Nguyễn Bích Ngô
Địa điểmPersonal Flag of Emperor Minh Mang.svg An Nam
Ngôn ngữHán văn
Thể loạiTùng thoại
Chủ đềChí quái
Nhà xuất bảnNhà xuất bản Văn Hóa
Viện Văn Học
Thời điểm
≈ Sau 1893
Số trang198

Thánh Tông di thảo (Hán văn : 聖宗遺草) là nhan đề một chí quái tùng thư Hán văn của tác giả nặc danh thị, ấn hành tại Việt Nam khoảng trung đại mạt kì[1].

Lịch sử[sửa]

Thánh Tông di thảo nguyên ủy là thủ cảo gồm 2 quyển, đóng thành 1 tập dày 198 trang, khổ 31x21cm, có 1 tựa, mỗi trang 9 dòng, mỗi dòng 19 từ. Tác phẩm do Viện Viễn Đông Bác Cổ sưu tầm đầu thế kỉ XX, sau này tàng trữ tại thư khố Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội) dưới kí hiệu A202. Mãi tới năm 1987, tác phẩm mới được công bố trên ấn bản hiện đại, có thêm phần dịch Việt văn và bổ chú.

Cứ theo nhan đề và bài tựa, soạn giả có thể là hoàng đế Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, nhiều địa danh trong tác phẩm chỉ xuất hiện sau vua vài trăm năm, hơn nữa, triều Lê Thánh Tông là thời Nho giáo bảo thủ, cương vị quốc chủ khiến Lê Thánh Tông khó lòng nào có một trứ tác toàn điều quỷ dị như thế. Cho nên, học giới nhìn chung chấp nhận đây là tác giả nặc danh thị, nhưng soạn không sớm hơn năm Quý Tị 1893.

Việc giả danh nhân vật chính trị có uy tín là khá phổ biến tại An Nam và các quốc gia Hán quyển, nhằm giúp cả tác giả và tác phẩm dễ vượt lưới kiểm soát để tới tay độc giả đại chúng.

Nội dung[sửa]

Nguyên bản gồm 19 thiên, dưới mỗi thiên đều có tiếm bình của Sơn Nam Thúc (山南叔). Tác giả phiếm xưng "dư" (予).

Quyển thượng
  • Mai Châu yêu nữ truyện (枚州妖女傳)
  • Thiềm thừ miêu duệ kí (蟾蜍苗裔記)
  • Lưỡng phật đấu thuyết kí (兩佛鬥說記)
  • Phú cái truyện (富丐傳)
  • Nhị thần nữ truyện (二神女傳)
  • Sơn quân phả (山君譜)
  • Giao thư lục (蚊書錄)
  • Hoa quốc kì duyên (花國奇緣)
  • Vũ môn tùng miếu (禹門叢笑)
  • Ngư gia chí dị (漁家誌異)
  • Lũng cổ phán từ (聾瞽判辭)
  • Ngọc nữ quy chân chúa (玉女歸真主)
  • Hiếu đễ nhị thần kí (孝弟二神記)
Quyển hạ
  • Dương phu truyện (羊夫傳)
  • Trần nhân cư thủy phủ (塵人居水府)
  • Lãng Bạc phùng tiên (浪泊逢仙)
  • Mộng kí (夢記)
  • Thử tinh truyện (鼠精傳)
  • Nhất thư thủ thần nữ (一書取神女)

Văn hóa[sửa]

Thánh Tông di thảo lần đầu được các học giả Bùi Văn Nguyên và Nguyễn Ngọc San sơ dịch 4 thiên in trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (thế kỉ X đến thế kỉ XVII) do Nhà xuất bản Văn Hóa và viện Văn Học ấn hành năm 1962. Năm 1963 thì hai cơ quan này phát hành bản dịch hoàn chỉnh của học giả Nguyễn Bích Ngô, có học giả Phạm Văn Thắm hiệu đính và làm phần giới thiệu. Tới thập niên 1980 lần lượt có ấn bản Trung Quốc, Đài LoanPháp.

thập niên 1960, học giả Nguyễn Đổng Chi đưa 19 thiên Thánh Tông di thảo vào bộ Kho tàng cổ tích Việt Nam nhưng sửa lại giọng điệu và một số tình tiết cho hợp lứa tuổi nhi đồng.

Đầu thế kỉ XXI, tác gia Hà Thủy Nguyên phỏng thi pháp Thánh Tông di thảo soạn Cầm thư quán (tiểu thuyết dã sử, NXB Đà Nẵng, 2005) và Thiên địa phong trần (tiểu thuyết ngôn tình, NXB Hội Nhà Văn, 2019).

Tham khảo[sửa]

Liên kết[sửa]

  1. Theo Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1637.

Tài liệu[sửa]

  • Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế Giới, 2004.
  • Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (Tập 1 & 2 in chung), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.
  • Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam (Tập 1), Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1997.

Tư liệu[sửa]