n (Taitamtinh đã đổi Thất quốc triều đại thành Thất quốc triều đại/đang phát triển: Quá 30 ngày chưa bình duyệt nên chuyển sang không gian bài đang phát triển) |
|||
(Không hiển thị 31 phiên bản của 2 người dùng ở giữa) | |||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
− | '''Thất quốc triều đại''' ([[ | + | {{mới}} |
+ | '''Thất quốc triều đại''' ([[Cổ Anh văn]] : ''Seofonrīċe'', [[Anh văn]] : ''Heptarchy'', [[Latin|La văn]] : ''Heptarchia'', [[Hi văn]] : ''Ἑπταρχία'') là thuật ngữ do sử gia [[Henry xứ Huntingdon]]<ref>{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=O6U5BTD0-rYC&pg=PR61&dq=heptarchy+historiography#PPA17,M1 |title=Historia Anglorum (History of the English People) - Google Books |accessdate=2010-04-09|isbn=9780198222248|year=1996|last1=Huntingdon |first1=Henry of}}</ref> đề xuất ở thế kỉ XII nhằm khu biệt hóa giai đoạn từ thế kỉ V đến thế kỉ IX tại địa bàn nay là [[Anh quốc]]. | ||
==Lịch sử== | ==Lịch sử== | ||
− | Theo quy ước, thất quốc triều đại là giai đoạn vừa có tính hậu [[La Mã]] vừa thuộc sơ kì [[trung đại]]. Khi này, hầu hết địa bàn nay là [[Anh quốc]] và cực Nam [[Alba]] đều thần phục đức vua Ecgberht, nhưng thực tế phân liệt thành | + | [[Hình:Britain 802.jpg|nhỏ|phải|222px|Địa vực thất quốc triều đại năm 802.]] |
− | == | + | Theo quy ước, thất quốc triều đại là giai đoạn vừa có tính hậu [[La Mã]] vừa thuộc sơ kì [[trung đại]]. Khi này, hầu hết địa bàn nay là [[Anh quốc]] và cực Nam [[Alba]] đều thần phục đức vua Ecgberht, nhưng thực tế phân liệt thành nhiều tiểu quốc và thị tộc<ref>{{cite book |author1=John Hines |editor1-last=Ausenda |editor1-first=Giorgio |title=After Empire: Towards an Ethnology of Europe's Barbarians |date=2003 |publisher=Boydell & Brewer |isbn=9780851158532 |page=82 |chapter-url=https://books.google.com/books?id=wqvhYaHrryEC&pg=PA75&dq=%22Petty+kingdom%22+anglo-saxon#v=onepage |language=en |chapter=Cultural Change and Social Organisation in Early Anglo-Saxon England}}</ref>, mà phần đông là dân [[Anglo-Saxon]]. Vì thế giai đoạn rất dài này được coi là thời hoàng kim của văn hóa [[Anglo-Saxon]]. |
− | Tứ hùng : | + | |
− | + | Các thế lực [[quần đảo Anh]] thời này nhìn chung không chính thức tùy thuộc thế lực nào bên ngoài và nếu có chỉ để tìm lấy sự bảo hộ về quốc an, tuy nhiên phải thường xuyên vất vả chống đỡ những cuộc cướp phá của [[người Viking]]. | |
− | + | ||
− | + | Ở thế kỉ VI, [[Cantwara]] là chúa tể liệt quốc phía Nam. Sang thế kỉ VII, vị thế này bị [[Westseaxna]] tước mất, nhưng [[Westseaxna]] phải đương đầu đối thủ đáng gờm là [[Norþanhymbra]]. Trong thế kỉ VIII, tới lượt [[Miercna]] quật khởi từ vùng đệm [[Norþanhymbra]] và [[Westseaxna]] mà thống trị phương Nam. Trên danh nghĩa, liệt quốc vẫn tồn tại độc lập và ít có quan hệ thần phục hay tuế cống. | |
− | + | ||
− | Tam bá : | + | Tới thế kỉ IX, yếu tố phân liệt hẹp dần nhờ sự bành trướng của các thế lực lớn trên địa bàn. Năm 865, các lĩnh địa Trung và Đông [[Anh]] nhập lại dưới thể chế [[Denalagu]] - hình thức liên minh chính trị với vương quốc [[Dani]] (nay thuộc [[Đan Mạch]], [[Thụy Điển]] và [[Na Uy]]), thực chất mưu cầu bảo hộ làm biện pháp kiềm chế những cuộc xâm lăng của rợ [[Viking]]. [[Denalagu]] được chia thành 15 huyện (shire), chịu sự trực trị của quốc vương [[Dani]]. |
− | + | ||
− | + | Tuy nhiên, các thuộc địa [[Denalagu]] liên tục vướng tranh chấp giữa hai triều đình [[Đan Mạch]] (cũ) và [[Na Uy]] (mới). Rốt cuộc, sau bao nỗ lực tìm giải pháp hòa hoãn cho [[quần đảo Anh]] mà bất thành, Ælfrēd đại vương<ref>[http://www.gutenberg.org/files/657/657.txt The Anglo-Saxon Chronicle] Freely licensed version at Gutenberg Project. Note: This electronic edition is a collation of material from nine diverse extant versions of the Chronicle. It contains primarily the translation of Rev. James Ingram, as published in the Everyman edition. | |
− | + | Asser's ''Life of King Alfred'', ch. 83, trans. Simon Keynes and Michael Lapidge, ''Alfred the Great: Asser's Life of King Alfred & Other Contemporary Sources'' (Penguin Classics) (1984), pp. 97–8.</ref> quyết định quật khởi để trục xuất hẳn thế lực [[Viking]] khỏi [[Denalagu]]. Năm 886, Ælfrēd tái chiếm [[Londinium]] (nay thuộc [[London]]), lập làm quốc đô. Sự kiện này được coi là khởi động quá trình thống nhất [[quần đảo Anh]]. | |
− | Chư hầu : | + | |
+ | Vào thế kỉ X, vua [[Na Uy]] [[Eiríkr Haraldsson]] bị tước ngôi chúa [[Norþanhymbra]]. Năm 927, vua [[Æðelstan]] trở thành quốc vương Toàn Anh tiên phong<ref>{{cite book |last1=Starkey |first1=David |title=The Monarchy of England: The beginnings |date=2004 |publisher=Chatto and Windus |isbn=9780701176785 |page=71 |url=https://books.google.com/books?id=qndnAAAAMAAJ |accessdate=24 August 2018 |language=en}}</ref>. Quốc gia thống nhất được định danh là ''[[Anh Cát Lợi|Englaland]]'' (đất [của dân] Ængle), mà sau giản ước thành [[Anh Cát Lợi|England]]. | ||
+ | ==Liệt biểu== | ||
+ | Thống kê chỉ có tính tương đối vì số lượng biến động mạnh theo nhu cầu bành trướng quyền lực của các quân chủ thất quốc triều đại. Chư quốc tập trung chủ yếu ở phương Nam [[quần đảo Anh]], trong khi xứ [[Norþanhymbra]] rất rộng án ngữ khu vực nay là Nam [[Alba]] và Bắc [[Anh]]. | ||
+ | ;;'''Tứ hùng :''' | ||
+ | <center><gallery>Hình:Royal Arms of Edward the Confessor.svg|[[Westseaxna]] (519 - 927) | ||
+ | Hình:Coat of arms of Mercie.svg|[[Miercna]] (527 - 918) | ||
+ | Hình:Coat of arms of East Anglia.svg|[[Ēastengla]] (571 - 918) | ||
+ | Hình:Blason Argoules.svg|[[Norþanhymbra]] (654 - 954)</gallery></center> | ||
+ | ;;'''Tam bá :''' | ||
+ | <center><gallery>Hình:Coat of arms of Kent.svg|[[Cantwara]] (455 - 871) | ||
+ | Hình:Arms of Sussex.svg|[[Sūþseaxna]] (477 - 860) | ||
+ | Hình:Coat of arms of Essex.svg|[[Ēastseaxna]] (527 - 825)</gallery></center> | ||
+ | ;;'''Chư hầu :''' | ||
+ | {{div col|colwidth=12em}} | ||
* [[Derenrice]] | * [[Derenrice]] | ||
* [[Domnonea]] | * [[Domnonea]] | ||
* [[Hæstingas]] | * [[Hæstingas]] | ||
− | * [[ | + | * [[Hƿiċċe]] |
* [[Iclingas]] | * [[Iclingas]] | ||
* [[Lindesege]] | * [[Lindesege]] | ||
* [[Magonsæte]] | * [[Magonsæte]] | ||
* [[Magonsæte]] | * [[Magonsæte]] | ||
− | * [[ | + | * [[Middilengli]] |
− | * [[ | + | * [[Middelseaxe]] |
* [[Pecsæte]] | * [[Pecsæte]] | ||
− | * [[ | + | * [[Sūþrigēa]] |
* [[Tomsæte]] | * [[Tomsæte]] | ||
* [[Wreocensæte]] | * [[Wreocensæte]] | ||
* [[Wihtwara]] | * [[Wihtwara]] | ||
− | == | + | {{div col end}} |
+ | ==Văn hóa== | ||
+ | Thất quốc triều đại được coi là thời kì bắt đầu kiến tạo bản sắc Anh về mặt ngôn ngữ và các yếu tố phong hóa khác. Theo truyền thống, [[vương thất Anh]] hiện đại thừa kế thất quốc triều đại về tước hiệu và lĩnh thổ, hay nói cách khác, danh hiệu ''Quốc vương Toàn Anh'' (Rex Britannorum, King of the Britons, Brenin y Brythoniaid) là di sản cao quý nhất của thất quốc triều đại cho hậu thế. | ||
+ | |||
+ | Trong [[văn chương]], thất quốc triều đại được gọi [[thời đại Arthur]] bởi những hiểu biết về giai đoạn này chủ yếu thông qua huyền sử và khảo cổ. Nhân vật [[vua Arthur]] và các kị sĩ [[Đoàn Trác huynh đệ]] biểu thị một thời phân liệt nhưng đầy hấp dẫn về lí tưởng nhất thống. | ||
+ | ==Tham khảo== | ||
* [[Thời đại Arthur]] | * [[Thời đại Arthur]] | ||
− | == | + | ==Liên kết== |
{{reflist|4}} | {{reflist|4}} | ||
+ | ===Tài liệu=== | ||
+ | * ''[[Westermann Verlag]] Großer Atlas zur Weltgeschichte'' | ||
+ | * Campbell, J. et al. ''The Anglo-Saxons''. (Penguin, 1991) | ||
+ | * Sawyer, Peter Hayes. ''From Roman Britain to Norman England'' (Routledge, 2002). | ||
+ | * Stenton, F. M. ''Anglo-Saxon England'', (3rd edition. Oxford U. P. 1971). | ||
+ | * Nicholas J. Higham, Martin J. Ryan. ''The Anglo-Saxon World''. Yale University Press, New Haven 2013. | ||
+ | * David Peter Kirby. ''The Earliest English Kings''. Revised Edition. Routledge, London 2000. | ||
+ | * Harald Kleinschmidt. ''Die Angelsachsen''. C.H. Beck, München 2011, ISBN 978-3-406-62137-6. | ||
+ | * Jürgen Sarnowsky. ''England im Mittelalter''. Wissenschaftliche Buchgesellschaft, Darmstadt 2002. | ||
+ | ===Tư liệu=== | ||
+ | * [https://web.archive.org/web/20170915081950/http://britannia.com/history/h6f.html Monarchs of Britain], ''[[Encyclopædia Britannica]]'' | ||
+ | * [http://www.ogdoad.force9.co.uk/alfred/alfhidage.htm Ogdoad.force9.co.uk] : The [[Burghal Hidage]] - [[Wessex]]'s fortified burhs | ||
[[Thể loại:Thất quốc triều đại| ]] | [[Thể loại:Thất quốc triều đại| ]] |
Bản hiện tại lúc 09:55, ngày 15 tháng 11 năm 2020
Thất quốc triều đại (Cổ Anh văn : Seofonrīċe, Anh văn : Heptarchy, La văn : Heptarchia, Hi văn : Ἑπταρχία) là thuật ngữ do sử gia Henry xứ Huntingdon[1] đề xuất ở thế kỉ XII nhằm khu biệt hóa giai đoạn từ thế kỉ V đến thế kỉ IX tại địa bàn nay là Anh quốc.
Lịch sử[sửa]
Theo quy ước, thất quốc triều đại là giai đoạn vừa có tính hậu La Mã vừa thuộc sơ kì trung đại. Khi này, hầu hết địa bàn nay là Anh quốc và cực Nam Alba đều thần phục đức vua Ecgberht, nhưng thực tế phân liệt thành nhiều tiểu quốc và thị tộc[2], mà phần đông là dân Anglo-Saxon. Vì thế giai đoạn rất dài này được coi là thời hoàng kim của văn hóa Anglo-Saxon.
Các thế lực quần đảo Anh thời này nhìn chung không chính thức tùy thuộc thế lực nào bên ngoài và nếu có chỉ để tìm lấy sự bảo hộ về quốc an, tuy nhiên phải thường xuyên vất vả chống đỡ những cuộc cướp phá của người Viking.
Ở thế kỉ VI, Cantwara là chúa tể liệt quốc phía Nam. Sang thế kỉ VII, vị thế này bị Westseaxna tước mất, nhưng Westseaxna phải đương đầu đối thủ đáng gờm là Norþanhymbra. Trong thế kỉ VIII, tới lượt Miercna quật khởi từ vùng đệm Norþanhymbra và Westseaxna mà thống trị phương Nam. Trên danh nghĩa, liệt quốc vẫn tồn tại độc lập và ít có quan hệ thần phục hay tuế cống.
Tới thế kỉ IX, yếu tố phân liệt hẹp dần nhờ sự bành trướng của các thế lực lớn trên địa bàn. Năm 865, các lĩnh địa Trung và Đông Anh nhập lại dưới thể chế Denalagu - hình thức liên minh chính trị với vương quốc Dani (nay thuộc Đan Mạch, Thụy Điển và Na Uy), thực chất mưu cầu bảo hộ làm biện pháp kiềm chế những cuộc xâm lăng của rợ Viking. Denalagu được chia thành 15 huyện (shire), chịu sự trực trị của quốc vương Dani.
Tuy nhiên, các thuộc địa Denalagu liên tục vướng tranh chấp giữa hai triều đình Đan Mạch (cũ) và Na Uy (mới). Rốt cuộc, sau bao nỗ lực tìm giải pháp hòa hoãn cho quần đảo Anh mà bất thành, Ælfrēd đại vương[3] quyết định quật khởi để trục xuất hẳn thế lực Viking khỏi Denalagu. Năm 886, Ælfrēd tái chiếm Londinium (nay thuộc London), lập làm quốc đô. Sự kiện này được coi là khởi động quá trình thống nhất quần đảo Anh.
Vào thế kỉ X, vua Na Uy Eiríkr Haraldsson bị tước ngôi chúa Norþanhymbra. Năm 927, vua Æðelstan trở thành quốc vương Toàn Anh tiên phong[4]. Quốc gia thống nhất được định danh là Englaland (đất [của dân] Ængle), mà sau giản ước thành England.
Liệt biểu[sửa]
Thống kê chỉ có tính tương đối vì số lượng biến động mạnh theo nhu cầu bành trướng quyền lực của các quân chủ thất quốc triều đại. Chư quốc tập trung chủ yếu ở phương Nam quần đảo Anh, trong khi xứ Norþanhymbra rất rộng án ngữ khu vực nay là Nam Alba và Bắc Anh.
- Tứ hùng :
Westseaxna (519 - 927)
Miercna (527 - 918)
Ēastengla (571 - 918)
Norþanhymbra (654 - 954)
- Tam bá :
Cantwara (455 - 871)
Sūþseaxna (477 - 860)
Ēastseaxna (527 - 825)
- Chư hầu :
Văn hóa[sửa]
Thất quốc triều đại được coi là thời kì bắt đầu kiến tạo bản sắc Anh về mặt ngôn ngữ và các yếu tố phong hóa khác. Theo truyền thống, vương thất Anh hiện đại thừa kế thất quốc triều đại về tước hiệu và lĩnh thổ, hay nói cách khác, danh hiệu Quốc vương Toàn Anh (Rex Britannorum, King of the Britons, Brenin y Brythoniaid) là di sản cao quý nhất của thất quốc triều đại cho hậu thế.
Trong văn chương, thất quốc triều đại được gọi thời đại Arthur bởi những hiểu biết về giai đoạn này chủ yếu thông qua huyền sử và khảo cổ. Nhân vật vua Arthur và các kị sĩ Đoàn Trác huynh đệ biểu thị một thời phân liệt nhưng đầy hấp dẫn về lí tưởng nhất thống.
Tham khảo[sửa]
Liên kết[sửa]
- ↑ Huntingdon, Henry of (1996), Historia Anglorum (History of the English People) - Google Books, ISBN 9780198222248, truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2010
- ↑ John Hines (2003), "Cultural Change and Social Organisation in Early Anglo-Saxon England", trong Ausenda, Giorgio (bt.), After Empire: Towards an Ethnology of Europe's Barbarians (trong English), Boydell & Brewer, tr. 82, ISBN 9780851158532
- ↑ The Anglo-Saxon Chronicle Freely licensed version at Gutenberg Project. Note: This electronic edition is a collation of material from nine diverse extant versions of the Chronicle. It contains primarily the translation of Rev. James Ingram, as published in the Everyman edition. Asser's Life of King Alfred, ch. 83, trans. Simon Keynes and Michael Lapidge, Alfred the Great: Asser's Life of King Alfred & Other Contemporary Sources (Penguin Classics) (1984), pp. 97–8.
- ↑ Starkey, David (2004), The Monarchy of England: The beginnings (trong English), Chatto and Windus, tr. 71, ISBN 9780701176785, truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2018
Tài liệu[sửa]
- Westermann Verlag Großer Atlas zur Weltgeschichte
- Campbell, J. et al. The Anglo-Saxons. (Penguin, 1991)
- Sawyer, Peter Hayes. From Roman Britain to Norman England (Routledge, 2002).
- Stenton, F. M. Anglo-Saxon England, (3rd edition. Oxford U. P. 1971).
- Nicholas J. Higham, Martin J. Ryan. The Anglo-Saxon World. Yale University Press, New Haven 2013.
- David Peter Kirby. The Earliest English Kings. Revised Edition. Routledge, London 2000.
- Harald Kleinschmidt. Die Angelsachsen. C.H. Beck, München 2011, ISBN 978-3-406-62137-6.
- Jürgen Sarnowsky. England im Mittelalter. Wissenschaftliche Buchgesellschaft, Darmstadt 2002.
Tư liệu[sửa]
- Monarchs of Britain, Encyclopædia Britannica
- Ogdoad.force9.co.uk : The Burghal Hidage - Wessex's fortified burhs