n (Taitamtinh đã đổi Dĩ Hoa vi Trung thành Dĩ Hoa vi Trung/đang phát triển: Quá 30 ngày chưa bình duyệt nên chuyển sang không gian bài đang phát triển) |
|
(Không có sự khác biệt)
|
Bản hiện tại lúc 09:48, ngày 15 tháng 11 năm 2020
Dĩ Hoa vi Trung (chính văn : 以華為中) là một ý thức hệ được cho khởi phát từ thời Chiến Quốc và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong các thành viên Hán tự văn hóa quyển. Ở hậu kì hiện đại, thế giới quan này thường bị nhầm là tư tưởng bá quyền Trung Hoa, bất chấp nội hàm văn hiến phức tạp của nó[1].
Thuật ngữ[sửa]
Dĩ Hoa vi Trung hoặc dĩ hoa vi trung đều đúng, được diễn Nôm là "lấy văn-minh làm căn-bản". Hoa (華) trong khái niệm nguyên thủy là sự sáng hoặc vùng đã khai hóa, không nội hàm yếu tố quốc gia như mãi về sau. Sự sáng đối lập sự tối, từ đấy suy rộng ra, Man Di (蠻夷) là các vùng u tối hoặc bán khai và vây lấy vùng văn minh. Vì thế, học giới hiện đại thường gọi tư tưởng Hoa Di.
Cứ liệu cổ nhất đề cập ý thức hệ này là Chiến Quốc sách do Lưu Hướng (77 - 06 TCN) chủ biên, nhưng thực chất bổ khuyết những tư liệu đời trước. Kế tục Chiến Quốc sách, ý thức hệ dần hoàn thiện với các lối gọi vùng văn minh hoặc sự văn hiến là trung hoa, trung hạ, trung quốc, trung thổ, trung châu, hoa hạ - đều hàm nghĩa khu vực trung tâm thế giới. Các chính thể coi quản đất ấy được gọi thiên triều hoặc thượng quốc, nghĩa là có sứ mạng thế thiên hành đạo, hay giáo hóa ; người cư trú ở đất như vậy đôi khi được gọi hoa nhân, hạ nhân hoặc hán nhân[2]. Đồng thời, quan niệm này cũng chia Man Di thành tứ di hoặc tứ hải, gồm : Đông di, Nam man, Tây nhung, Bắc địch[3]. Cũng lưu ý rằng, đây là cách gọi phiếm, không chỉ đích danh được quốc gia hay bộ lạc nào trong thực tế ; bởi ở ngữ cảnh cổ đại, sự am hiểu về thế giới thường mang tính khẩu truyền.
Lịch sử[sửa]
Trong khoảng một ngàn năm từ thời Hán, tư tưởng Hoa Di hầu như tồn tại ở vùng lõi Hán quyển, tương ứng một phần lĩnh thổ CHND Trung Hoa ngày nay, nhưng cũng chưa thực sự có sức ảnh hưởng trong giới tinh anh. Bắt đầu từ thời Đường, khi Trung Hoa đủ tiềm lực bành trướng bằng cả quyền lực và văn hóa, ý thức hệ này dần lan ra cả khu vực mà nay là Á Đông. Kể tự bấy, các triều đình và cả hàng ngũ tinh anh Hán quyển đều lấy làm phương thức ứng xử với bên ngoài, đồng thời làm tiêu chuẩn kiến tạo bản sắc. Lưu ý rằng, các triều đình Tân La, Triều Tiên, Nhật Bản, Lưu Cầu và An Nam cũng xưng Hoa, gọi xung quanh là Di Địch cả. Tuy vậy, nhìn chung các chính thể này vẫn lấy triều đình vùng lõi Hán quyển (Trung Hoa ngày nay) làm nguyên mẫu kiến tạo phong tục tập quán và lễ nghi[4][5][6][7], dùng Hán tự làm phương tiện giao tiếp (dụng Hạ biến Di)[8][9][10].
Từ triều Tống bắt đầu liệt hạng các quốc gia và bộ lạc theo ý thức hệ này làm phương thức ứng xử, tức là phân biệt cao thấp. Ở thời Minh, theo di chiếu của Thái Tổ hoàng đế, có 4 quốc gia Đại Minh cho là trung thần và tuyệt đối không dùng võ lực (việc dụng binh chỉ ở tình thế bất khả kháng và phần nào có hưởng ứng tại các phiên bang), thứ tự ban đầu là : Triều Tiên (Đông quốc), An Nam (Nam quốc), Nhật Bản, Lưu Cầu. Sau này, khi Oa khấu quấy nhiễu duyên hải Lưu Cầu, lại gây chiến với Triều Tiên, thì Lưu Cầu được xếp sau Triều Tiên. Nhìn chung, từ thời Minh sang đến thời Thanh, quy tắc này giữ ổn định nội bộ Hán tự văn hóa quyển, chỉ thực sự suy giảm khi trào lưu thực dân Tây dương tràn tới ở thế kỉ XIX. Cuối thế kỉ XIX, sau khi thất bại trong chiến tranh Hoa-Nhật, Đại Thanh triều chấp nhận hệ thống Westfalen làm phương thức ngoại giao (tức là coi mọi quốc gia đều bình đẳng), sự kiện này được coi là kết thúc về căn bản tư tưởng Hoa Di, đưa lịch sử Á Đông bước sang hiện đại hóa.
Tại An Nam, năm 1811 hoàng đế Nguyễn Thế Tổ ban đạo dụ Hán Di hữu hạn, công bố danh sách 13 phiên thuộc có nghĩa vụ tuế cống[11][12][13]. Tuy nhiên, chính sách này không tồn tại bao lâu kèm theo sự suy nhược của Đại Nam đế quốc trước trào lưu Âu hóa.
Văn hóa[sửa]
Theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, chủ động xây dựng quốc gia theo mô hình Trung Hoa, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của các triều đại Trung Quốc, vẫn luôn tạo nên những nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt.
Bắt nguồn từ ý thức tự chủ, chống chọi đến cùng trước những chính sách cai trị bạo tàn, người Việt vùng đồng bằng sông Hồng có thể coi là một trong những cộng đồng dân cư “làm loạn” nhiều nhất trong thời còn nội thuộc ách thống trị của Trung Quốc. Bất kể quan niệm của người phương Bắc cho rằng, trời chỉ có một thiên tử, thiên hạ chỉ có một hoàng đế, song không ít thủ lĩnh nước Việt mỗi khi giành được độc lập, giành quyền làm chủ cõi đất phương Nam đều xưng đế, dù khi chạm trán thiên triều vẫn nhún mình xưng là bề tôi : Lý Bí xưng đế năm 544, Mai Thúc Loan xưng đế năm 713, và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tự xưng Đại Thắng Minh hoàng đế… Phan Huy Chú sở dĩ coi nước Việt "từ thời Đinh Lê mở nước đối chọi với Trung Hoa", bởi tính từ thời điểm này trở đi, vị thế của một đế quốc phong kiến độc lập đã được khẳng định, tư tưởng bá chủ trời Nam đã hết sức sáng rõ như chính lời chúc của Nam Việt Vương Đinh Liễn nhắn gửi trên cột kinh tràng : “Chúc Đại Thắng Minh hoàng đế mãi làm bá chủ trời Nam, giữ yên ngôi báu…”, “mãi trấn vững trời Nam, thứ là khuông phù cơ nghiệp đế vương”. Việc ấy cũng như lời nhận xét của quan Trung Quốc thời Minh là Lý Văn Phượng : “Nhật Tôn tự làm đế nước ấy… lấy quốc hiệu Đại Việt. Từ ấy về sau, con cháu họ Lý cho tới họ Trần, Lê, Mạc đều giẫm theo vết cũ, tiếm xưng đế hiệu”.
Việc vua nước Việt xưng đế, đồng nghĩa với việc ông vua Việt được hưởng mọi đặc quyền, nghi lễ dành cho thiên tử, không kém vua Trung Hoa. Thái độ của triều đình phương Bắc đối với việc lấn vượt, “không kiêng dè” của triều đình Đại Việt là nhiều khi đành phải khuất mắt trông coi như ghi nhận của quan nhà Tống, Trịnh Tủng : “Họ Lý từ sau Công Uẩn truyền đến thời Hạo Sảm ngày nay, thảy tám đời. Tên các đời là Nhật, là Càn, là Dương, là Thiên, là Long đều có ý lấn vượt bề trên. Triều đình coi nước ấy xa nơi góc bể, không thèm lần lữa so đo” ; cũng có khi lại quyết liệt với mưu đồ san bằng nước Việt, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược của nhà Minh trong những năm đầu thế kỷ XV. Việc “không tuân theo chính sóc của triều đình (lịch nhà Minh), tiếm vượt đổi quốc hiệu thành Đại Ngu, xưng láo tôn hiệu, đổi niên hiệu Nguyên Thánh”, một trong hai mươi tội ác nhà Minh gán cho cha con họ Hồ, trên thực tế cũng chính là quán lệ của triều đình Đại Việt. Nhưng sau bao công sức đổ vào công cuộc giáo hóa hòng răn dạy An Nam phải ngoan ngoãn nghe lời, ý đồ của nhà Minh vẫn hoàn toàn sụp đổ, bởi với chiến thắng của Lê Lợi hai mươi năm sau, “đất cát lại là đất cát An Nam, nhân dân lại là nhân dân An Nam, phong tục áo mũ lại được đúng như xưa, nền nếp mối giềng lại được sáng như cũ”, đặc biệt, theo Lý Văn Phượng, Lê Lợi đã “không nghĩ đến việc thành thật hối lỗi, bề ngoài thần phục, nhưng bên trong lại rắp tâm lấn vượt, tiếm hiệu, cải nguyên để đối chọi ngang hàng với Trung Quốc”.
Chính vì vậy, cũng dễ hiểu khi vua chúa Việt Nam luôn muốn mình ngang hàng, thậm chí vượt trội so với các vị vua tài đức của Trung Hoa, mà không phải vua chúa của một quốc gia nào khác. Sự so sánh này khi là sự so bì về tài năng như Lý Chiêu Hoàng khen chồng, Trần Cảnh : “Văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được”, hay sử thần Vũ Quỳnh khen vua Lê Thánh Tông : “Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng, có thể sánh vai với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy” ; khi là sự so sánh về đức độ như vua Trần Dụ Tông khen vua Trần Thái Tông : “Sáng nghiệp Việt - Đường, hai Thái Tông / Kia xưng Trinh Quán, ta Nguyên Phong / Kiến Thành bị giết An Sinh sống / Miếu hiệu như nhau, đức chẳng đồng” ; cũng có khi chỉ đơn giản là sự so sánh về dáng vẻ của đôi tai, con mắt như trường hợp Thượng thư Nguyễn Công Bật ca ngợi vua Lý Nhân Tông : “Mắt trong mà đen trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi Thuấn đế ; tai đẹp mà vành tai dài rộng, chê cái tai ba lỗ Hạ vương”… Việc so bì tài năng đức độ với vua chúa Trung Hoa trên thực tế đã không còn là việc “lưu hành nội bộ” trong triều đình Đại Việt. Triều Tiên vương triều thực lục cho biết, vào ngày mồng 1 tháng 5 năm Triều Tiên Thái Tông thứ 7 (tức 1407), quan Nội sứ nhà Minh là Trịnh Thăng, hành nhân Phùng Cẩn, mang tờ chiếu bình định An Nam đến Triều Tiên. Tại cung Kyeongbok (Cảnh Phúc), sứ thần tuyên chiếu, sai Jeong Gu (Trịnh Củ) dùng tiếng địa phương, Jo Jeong (Tào Chính) dùng tiếng Hán đọc chiếu. Tờ chiếu có đoạn viết : “Tự cho là thánh triết hơn Tam hoàng, đức cao hơn Ngũ đế ; coi Văn vương, Võ vương không đủ làm phép tắc, khinh Chu công, Khổng tử không đủ làm bậc thầy ; hủy báng Mạnh Tử là đạo nho (nhà nho ăn trộm), Trình Chu thạo cóp nhặt. Dối thánh dối trời, không ngôi không thứ. Tiếm quốc hiệu gọi là Đại Ngu, trộm kỷ nguyên gọi là Thiệu Thánh. Xưng là Lưỡng cung hoàng đế, dám dùng nghi lễ triều đình. Chẳng phải chỉ ngang tàng ở cõi xa, mà kỳ thực muốn chống chọi ngang hàng cùng Trung Quốc”.
Về mặt lễ nghi trang phục, bởi vậy, cũng không thể thua kém. Do có sự nhận đồng về điển chương, văn hiến của Trung Quốc, trong suốt một thời gian dài, cũng giống như Triều Tiên, triều đình phong kiến Việt Nam đã coi thể chế, văn hiến Trung Hoa là nguồn tham khảo chính thống. Chế độ trang phục cung đình Việt Nam đã mô phỏng chế độ của Trung Quốc để có được sự uy nghiêm, chuẩn mực tương tự. Tuy nhiên, theo quy luật sáng tạo văn hóa, lại trên tinh thần tự chủ, chủ động xây dựng đất nước theo mô hình Trung Hoa, triều đình Việt Nam trong hơn một ngàn năm phong kiến quân chủ dù nhiều lần mô phỏng chế độ áo mũ, lễ nhạc, khoa cử của các triều đại Trung Quốc, vẫn luôn tạo nên những nét biến dị độc đáo, làm tôn thêm vẻ uy nghi, sang trọng của vua quan nước Việt.— Vân Trai Trần Quang Đức, «Tư-tưởng đế-vương»
Trước thế kỷ XIX, khi chưa trở thành danh từ riêng đặc chỉ một chủng tộc hay một quốc gia cụ thể, các khái niệm “Hoa”, “Hạ”, “Trung quốc”, “Trung Hạ”, “Trung Châu”... xuất hiện trong kinh điển thời Xuân Thu (770 tr.CN - 476 tr.CN) được dùng để chỉ vùng đất, cũng có khi chỉ những người văn minh ở trung tâm, có lễ giáo, khu biệt với các sắc dân Man, Di, Nhung, Địch ở bốn phía xung quanh. "Chiến Quốc sách" (戰國策) giải thích : “Trung quốc là nơi bậc trí tuệ thông minh cư trú, nơi vạn vật tài nguyên hội tụ, nơi thánh hiền triển khai giáo hóa, nơi nhân nghĩa được ban bố thi hành, nơi thi thư, lễ nhạc được sử dụng, nơi tài nghệ kỳ tuyệt được triển thi, nơi phương xa đến quan ngưỡng, nơi man di phỏng noi theo”.
Từ quan niệm “trung tâm văn minh”, Á thánh của đạo Nho, Mạnh Tử chủ trương “dụng Hạ biến di”, đem văn minh tiên tiến của trung nguyên truyền bá ra xung quanh như công cuộc khai hóa. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận một phần văn hóa Hán, hấp thu tư tưởng Xuân Thu, vua tôi các nước Việt, Triều, Nhật đều tự nhận mình là Trung Quốc, Trung Hạ, tức chủ thể của một nền văn minh có đầy đủ lễ giáo, văn hiến không thua kém các triều đại Hán Đường. Asami Keisai, học giả Nhật Bản thời trung đại từng bàn luận về khái niệm "Trung quốc" cho biết : “Nước tôi [Nhật Bản] biết đạo Xuân Thu thì nước tôi là chủ thể. Nếu coi nước tôi là chủ thể, thì thiên hạ đại nhất thống là đứng ở góc độ nước tôi nhìn sang các nước khác, đó cũng chính là tôn chỉ của Khổng Tử. Không nắm được điều này mà đọc sách Đường thì thành ra những kẻ sùng bái đọc sách Đường [phiếm chỉ sách vở Trung quốc], đứng từ góc độ nhà Đường trông sang để soi chiếu Nhật Bản, thì luôn xiểm nịnh nhà Đường và riêng dùng khái niệm di rợ để lý giải Nhật Bản, hoàn toàn đi ngược lại tôn chỉ Xuân Thu của Khổng Tử. Khổng Tử mà sinh ra ở Nhật Bản thì sẽ từ Nhật Bản lập ra tôn chỉ Xuân Thu. Hiểu như vậy mới là người giỏi học sách Xuân Thu. Nay đọc Xuân Thu mà gọi Nhật Bản là di rợ, thì không phải do sách Xuân Thu hại đến đạo Nho, mà do kẻ không giỏi đọc Xuân Thu hại sách Xuân Thu vậy”. Như vậy, Keisai quan niệm những người đã học theo kinh điển của Trung Quốc thì không thể bị coi là “man di”, và bản thân những quốc gia có lễ giáo tương tự các triều Hán Đường cũng đều có thể được coi là Hoa Hạ, là Trung Quốc. Hay có thể hiểu một cách đơn giản hơn như học giả người Mỹ, Alexander Barton Woodside về chính khái niệm “Trung quốc” được xử dụng tại Việt Nam vào thời Nguyễn : “Năm 1805, vua Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay Trung quốc. Thuật ngữ tiếng Hán thông thường được dùng để chỉ Trung Hoa, nhưng trong tay người Việt, nó lại trở thành một khái niệm trừu tượng không có sự tham khảo địa lý nào. Nó biến đổi thành một cụm từ có khả năng được dùng để chỉ bất kỳ vương quốc nào được lập nên trên cơ sở những nguyên tắc kinh điển Trung Hoa, khi nhận thấy xung quanh mình bị bao bọc bởi những kẻ man di không được giáo hóa”.
Lý giải quan niệm của vua tôi người Việt tự nhận đất Việt là quốc gia văn minh ở trung tâm mới có thể lý giải được việc vua tôi Việt Nam không ít lần sử dụng khái niệm Trung quốc, Trung Hạ, Khu Hạ, Hoa Hạ để chỉ nước mình. Tỉ như :
"Toàn thư" (大越史記全書) viết : “Trước đây, Lý Giác trốn sang Chiêm Thành, nói tình hình hư thực của Trung quốc [1104]” ; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng [nhà Minh] phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc [1417]”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết : “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên”...
"Thiền Tông khóa hư ngữ lục" (禪宗課虛語錄) của Trần Thái Tông khi bàn về sự quý báu của thân người có đoạn viết : “Người nay chẳng biết, lại quý vật mà rẻ thân, chẳng hay thân mình có ba điều khó gặp… Một là, trong lục đạo chỉ có người là quý… có kẻ bị đọa xuống đạo Địa ngục, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sinh, không được làm người… Hai là, đã được sinh ra làm người nhưng lại có kẻ sinh ra ở nơi man di, tắm thì chung sông, nằm thì rọ chân, sang hèn ở lẫn, trai gái sống chung, chẳng đượm gió nhân, chẳng nhuần giáo hóa… Ba là, đã được sinh ra ở Trung quốc, nhưng sáu căn không đủ, bốn thể chẳng toàn, mù điếc ngọng câm… tuy ở trong Hoa Hạ cũng hệt như ở ngoài hoang dã. Nay đã làm người, được sinh ra ở Trung quốc, lại có đủ sáu căn, há chẳng quý lắm sao ?”.
"Đại Việt Lam Sơn Dụ lăng bi" (大越藍山裕陵碑) soạn năm 1504, đặt tại lăng vua Lê Hiến Tông (di tích Lam Kinh) có đoạn viết : “Trung quốc vững mạnh, ngoại di khiếp hãi“.
Tờ sớ Mạc Đăng Dung tâu lên vua Lê vào tháng 12 năm 1517 xin giết Lê Quảng Độ, đại ý nói : “Tam cương ngũ thường là rường cột chống đỡ trời đất, là trụ đá đặt yên sinh dân. Nước mà không có cương thường thì tuy là Trung Hạ cũng có khác nào di địch. Người mà không có cương thường thì tuy mặc xiêm áo, cũng có khác nào cầm thú” 21.
Bức thư chúa Trịnh Tráng gửi cho Toàn quyền Đông Ấn Hà Lan tại Batavia (nay là Jakarta) năm 1637, có đoạn viết : “Nay ta có ý mong quý quan tiết chế của quý quốc Ô Lan [Hà Lan] kết giao với ta. Trên danh nghĩa chân chính, hai nước đùm bọc thương yêu, mãi đến muôn đời. Vậy cắt cử hoặc hai ba tàu, hoặc hai trăm lính thiện xạ đến Trung quốc ta, lấy đó làm tin”.
Phải công tâm nhìn nhận rằng, vua tôi nước Việt trong giai đoạn phong kiến tự chủ đã xây dựng đế chế theo mô thức Trung Hoa, lấy trật tự Hoa Di làm nền tảng. Mô thức này coi cõi đất hoàng đế ngự trị là trung tâm thiên hạ, tức Trung quốc, Trung Hạ, Hoa Hạ. Hoàng đế thi hành ơn đức, đồng thời bảo ban, dạy dỗ bốn cõi xung quanh, gọi là vương hóa, hoàng hóa. Các vùng biên viễn, man di ngưỡng mộ ơn đức của thiên triều phải thần phục và đến triều cống ; những kẻ chống đối, ương ngạnh phải bị thảo phạt. Việt Nam vừa nằm trong hệ thống những nước triều cống của triều đình Trung Hoa, vừa thiết lập riêng một hệ thống tông chủ - phiên thuộc đối với các vùng đất và quốc gia phương Nam. Tư tưởng này được thể hiện hết sức rõ rệt qua các tờ chiếu, hịch, văn khắc ghi công của vua tôi nước Việt trước hoặc sau khi thảo phạt các tộc người thiểu số và các nước phương Nam, như :
Bài hịch đánh động Ma Sa của vua Lý Nhân Tông có đoạn viết : “Trẫm coi triệu họ trong bốn bể đều như con đỏ. Đến cõi xa cũng mến lòng nhân mà quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Nay tên tù trưởng hèn nhà ngươi ngu xuẩn, phụ ước ông cha, quên việc tuế cống”.
Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói : “Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần… Nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình ; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hoàng hóa”.
"Ma Nhai kỷ công bi văn" (摩崖紀功碑文) của Nguyễn Trung Ngạn trên sườn núi Trầm Hương (Nghệ An) năm 1335 có đoạn viết : “Vào thời hoàng đế thứ sáu triều Trần nước Hoàng Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết được trời ban mệnh, giữ đất Trung Hạ, khắp trong bốn bể, đâu cũng thần phục, Ai Lao cỏn con, dám chống vương hóa. Năm Ất Hợi, mùa thu, đế thân chinh soái lĩnh sáu quân, đi tuần miền Tây, thế tử nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Xiêm La cùng tù trưởng man di Đạo Thần, Quỳ Cầm… đều dâng phương vật, tranh nhau nghênh đón. Mùa đông, đế đóng quân ở cánh đồng Cự Đồn Mật châu, lệnh cho các tướng và quân lính man di tiến vào nước ấy”.
Văn khắc trên vách đá vùng Tây Bắc "Thân chinh Phục Lễ châu Đèo Cát Hãn" (親征復泐州佶扞完) do vua Lê Thái Tổ ngự chế cũng có đoạn với đại ý tương tự : “Bọn di địch là mối họa ở vùng biên cương, từ xưa đã có. Bọn Hung Nô thời Hán, bọn Đột Quyết thời Đường, bọn man mọi Mường Lễ ở phía Tây nước Việt ta cũng vậy. Vừa rồi chính trị Trần Hồ suy vi, bọn phiên thần ngang nhiên cát cứ, Cát Hãn giữ nguyên thói cũ, ỷ địa thế hiểm trở không chịu hối cải. Nay ta đem quân tiến đánh, hai quân thủy bộ cùng tiến, cất một trận là dẹp yên. Nhân viết một bài thơ Đường luật, khắc lên trên đá, để răn những tên tù trưởng man di chống lại vương hóa đời sau”.
Tờ chiếu đi đánh Ai Lao của vua Lê Thánh Tông tháng 7 năm 1479 cũng viết : “Bậc đế vương đời xưa chế ngự di địch, phục tùng thì cưu mang bằng đức, phản lại thì sấm sét ra oai… Trẫm nay nối công tổ tông, giữ cơ nghiệp lớn, ở đất Trung Hạ, vỗ yên ngoại di… Huống chi, đám dân chốn man rợ này, từ lâu nhiễm mùi hôi tanh của loài chó Lão Qua, muốn khôi phục cương thường cho tục mọi…”. Trong tờ chiếu đánh Bồn Man, ông còn viết : “Nước nhà ta tóm thâu bờ cõi, thống ngự Hoa Di”.
Tư tưởng Hoa Di được đẩy lên cao độ tại Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản sau khi triều đình phong kiến Trung Hoa do người Hán trị vì bị thay thế bởi “người Hồ” phương Bắc, đặc biệt sau khi người Mãn làm chủ Trung Quốc, lập nên nhà Thanh. Lúc này, ba nước đều tự nhận là quốc gia trung tâm, chủ thể lưu giữ nền văn minh cổ phác và miệt thị gốc gác du mục vốn không có lễ giáo của tộc người Mãn Mông. Đó cũng chính là tư tưởng ẩn chứa trong câu phản vấn của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trong "Dụ chư tì tướng hịch văn" (諭諸裨將檄文), sau khi ông kể cho tướng lĩnh những câu chuyện đầy nghĩa khí thời Xuân Thu : “Các ngươi là tướng của trung quốc, phụng sự tù trưởng di rợ mà không thấy căm phẫn ?” (為邦國之將侍立夷宿而無忿心). Về phía Triều Tiên, Tư gián Triệu Quýnh (Cho Kyeong) bày tỏ : “Nước ta xưa nay nổi danh thiên hạ bởi có lễ nghĩa, được gọi với tên Tiểu Trung Hoa, kế thừa liệt thánh, thờ nước lớn một lòng, cung kính cẩn thận, nay phụng sự giặc Hồ, trộm yên tạm bợ, kéo dài chốc lát, làm như vậy đối với tổ tiên thế nào, đối với thiên hạ thế nào, đối với hậu thế thế nào ?”. Còn Tùng Cung Quan Sơn (Matsumiya Kanzan), binh pháp gia Nhật Bản thì nói : “Trộm nghĩ, nước ta từ xưa văn hiến đã đủ đầy, tự xưng là Trung Châu, gọi nước kia [chỉ Trung Quốc] là Tây phiên. Sự phân biệt trong ngoài, thể chế rất là nghiêm ngặt” 31. Diễn biến đến thời Nguyễn, "Đại Nam thực lục" (大南實錄) cũng như không ít sách vở triều Nguyễn dứt khoát gọi người Việt là “Hán nhân”, “Hán dân”, gọi người Trung Quốc là “Thanh nhân”, mà “Thanh” như vua Minh Mệnh từng nói : “Tổ tiên là người Mãn... Mãn là di rợ”. Thậm chí, những người phương Tây như người Pháp, người Anh… cũng đều từng bị vua quan nhà Nguyễn gọi thẳng thừng là “Dương di”.
Tư tưởng phân biệt Hoa Di, đúc kết lại có thể thấy rõ nhất qua sự việc Lang trung Lý Văn Phức sang Thanh, thấy người Thanh viết bốn chữ lớn “Việt di hội quán” lên vách tường, ông đã rất tức giận, trách mắng quan Quán Bạn, nét mặt và giọng nói đều rất dữ, không chịu vào quán, sau đó lệnh hành nhân xé nát chữ "di" đi rồi mới vào, đoạn viết "Biện di luận" (辯夷論) để trần bày. Đại lược nói : “An Nam vốn hậu duệ của Thánh đế Thần Nông, là Hoa, chẳng phải di vậy, đạo học noi theo Khổng Mạnh Trình Chu, pháp độ tuân theo Chu Hán Đường Tống, không vấn tết tóc, để vạt trái như người Di. Đến như vua Thuấn sinh ra ở Chư Phùng, Văn vương sinh ra ở Kỳ Châu, người đời còn chẳng dám coi vua Thuấn, Văn Vương là di, huống hồ dám coi ta là di ư ?”.
Phát xuất từ tư tưởng Hoa Di, quy chế trang phục trong cung đình Việt Nam phần lớn được tham khảo từ điển chương, chế độ của triều đình Trung Quốc, một trong những thước đo văn minh đặt trong bối cảnh xã hội phong kiến bấy giờ.
Kể từ năm 939, Ngô Quyền sau khi xưng vương đã lần đầu tiên cho mô phỏng quy chế áo mão của nhà Đường thể hiện qua việc lấy màu sắc trang phục làm tiêu chí phân biệt phẩm trật của bá quan. Tiếp đến, thời Tiền Lê tới thời Lý đều lần lượt mô phỏng quy chế áo mão của nhà Tống, đánh dấu bởi các sự kiện áp dụng chế độ Triều phục năm 1006 và chế độ Công phục năm 1059. Riêng với triều đình nhà Hồ, từ sau cải cách thời Trần Thuận Tông năm 1396 mà thực chất do Hồ Quý Ly thao túng, triều phục của văn võ bá quan lại quay về mô phỏng theo chế độ trang phục của nhà Hán. Các triều Lê, Nguyễn về sau chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ trang phục của nhà Minh, bắt nguồn từ cải cách trang phục thời vua Lê Thái Tông năm 1437, được đẩy mạnh vào khoảng những năm 1471 thời vua Lê Thánh Tông, và hoàn bị vào năm 1500 thời vua Lê Hiến Tông. Tuy nhiên, đối với với trang phục của các triều đại Nguyên, Thanh, vua chúa nước Việt thường tỏ ra bài bác, khinh thị. Như với trang phục của nhà Nguyên, vua Trần Minh Tông từng nói rõ : “Ngôn ngữ [chỉ ngôn ngữ Hán quan phương] không khác nhau nhiều, nhưng áo mũ không thể giống nhau được”. Nguyễn Trãi nhận xét và khuyến cáo : “Người Ngô lâu ngày nhiễm thói tục của người Nguyên, tóc xõa, răng trắng, áo ngắn mà tay áo dài, mũ xiêm lòe loẹt, lớp lớp như lá vậy... không nên noi theo để làm loạn quốc tục”. Còn trang phục của triều đình Mãn Thanh, năm 1696, sử thần nhà Lê cho biết : “Người Thanh làm chủ Trung Quốc, róc tóc, mặc áo ngắn, noi theo thói cũ Mãn Châu. Áo mũ lễ tục Tống Minh vì vậy mất sạch”. Bùi Văn Dị nhận định : “Triều Thanh hưởng thái bình lâu ngày [...] riêng chế độ áo mũ không đổi. Tục Mãn suy cho cùng thiếu trang nhã [...] Từ khi triều Thanh làm chủ Trung Quốc, bốn phương phải cạo tóc, đổi y phục. Hai trăm năm trở lại đây, tai mắt người ta đã quen cả [...] không còn nhận ra kiểu dáng Hoa Hạ ngày xưa nữa. Sứ nước ta tới Yên Kinh, đội mặc phẩm phục, có kẻ nhận ra trộm ngưỡng mộ Hoa phong. Nhưng bọn không có trí tuệ, phần nhiều túm tụm cười đùa, thấy mũ Phốc đầu, Võng cân, đai áo bèn chỉ trỏ cho là kiểu cách tuồng chèo. Tục rợ Hồ thay đổi con người ta đến mức phải ta thán như vậy đấy”. Tác giả của "Nam sử tư ký" (南史資記) đầu thời Nguyễn cũng chép : “Thanh Thế Tổ lên ngôi, đặt niên hiệu Thuận Trị, thống nhất thiên hạ, thay đổi y phục Trung Quốc... Nước Nam ta y phục vẫn như xưa. Sau này sứ nước ta đến Yên Kinh, phụ lão Trung Quốc thấy y phục của sứ ta đều rơi nước mắt”. Năm 1830, chính vua Minh Mệnh nói rõ : “Trẫm xem sách Hội điển của nước Thanh... áo mũ triều phục đều theo thói tục man di, không phải chế độ phục sức của cổ nhân, như thế lại càng sai trái, không thể làm khuôn phép”.
Đối với trang phục dân gian, trong mắt sĩ phu người Việt, trang phục của người dân các nước phương Nam và các sắc dân thiểu số đều bị coi là quê kệch, thô lậu. Như Dương Văn An nhận xét vùng Tư Vinh (Huế) : “Có người nói tiếng Huế, mặc váy Chàm, thói ấy rất quê và thô bỉ”, trong khi dân vùng Ô châu [Quảng Trị] có cách ăn vận như Trung Hoa thì được coi là không có gì lạ thường. Ngô Thì Nhậm từng có lời thơ thể hiện niềm tự hào là bậc kỳ lão đất Việt, vận áo mão chỉnh tề, thắt dây thao, đeo ngọc bội, rất văn minh, rất “Hoa”. Ông viết : "Mở mang có trước sau, Đâu riêng Trung Quốc có... May sinh ở nước Nam, Đường hoàng thân áo mão, Chớ bảo ta chẳng Hoa, Việt Thường có kỳ lão".
Đặc biệt, khác với các triều đại Lý - Trần coi tam giáo đồng tôn mà trong đó đạo Phật có vị thế áp đảo, các triều đại Lê - Nguyễn về sau với các chính sách độc tôn Nho thuật đã có những cái nhìn khắt khe, khinh thị đối với phong tục của các sắc dân phương Nam. Tư tưởng Hoa Di lúc này trở nên tiêu cực, và là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy triều đình Lê, Nguyễn thực thi các chính sách đồng hóa văn hóa, “dụng Hạ biến di”. Kể từ việc vua Lê Thánh Tông thảo phạt Bồn Man, Chiêm Thành được mô tả : “Bồn Man bướng nghe giáo hóa thì hạ lệnh cày xới gốc rễ của chúng, Sơn Man quấy rối vùng biên thì cất quân quét sạch sào huyệt của chúng… bắt dân chúng mặc áo xiêm của ta, khiến đất chúng thành quận huyện của ta” ; đến những sắc lệnh cải đổi thói tục của dân man theo thuần phong của người Việt diễn ra liên tiếp dưới thời vua Minh Mệnh, mà một trong những nội dung quan trọng chính là việc hướng người man đổi mặc quần áo của người Việt. Như năm 1829, vua Minh Mệnh xuống dụ ban tên họ cho các thủ lĩnh người man có đoạn viết : “Từ trước đến nay tục mọi noi nhau, chỉ theo thế thứ, chẳng biết ở họ nào mà ra. Ôi sửa đổi phong tục ắt phải dần dần, mà đấng vương giả dạy bảo nào có phân biệt. Lần này bọn thổ ty ấy đã theo về phong hóa, mặc xiêm áo của ta, nhưng nếu cứ để cho có tên mà không có họ, há phải là ý của trẫm coi mọi người như nhau ? Nay gia ơn chuẩn cho Thổ tri châu châu Mường Vang tên Kiềm, cho họ là Lâm ; thổ tri châu châu Na Bôn tên Xế cho họ là Thạch… rồi ghi theo họ mới ban cho, viết đổi lại sắc mệnh mỗi người một đạo, phát giao cho bọn ấy nhận lấy, đời đời tuân phụng, để phân rõ họ hàng, theo luân thường, đều đi đến đạo lớn, khiến ngày càng nhuốm gội Hoa phong”. Năm 1834 người Thủy Xá sai sứ đến cống, vua Minh Mệnh có lời dụ rằng : “Thánh nhân dùng Hạ biến di, nên lấy lễ nghĩa dạy bảo, khiến dần dần đổi thành thói Hoa Hạ. Bèn thưởng cho sứ thần ấy cả bộ áo mũ trước kỳ hạn. Hôm trẫm ngự ở điện, đã chuẩn cho sứ thần ấy vào triều cống, tận mắt thấy bọn họ áo mũ chỉnh tề, quỳ lạy thung dung, đều hợp lễ tiết, trẫm rất lấy làm khen ngợi… Lại thưởng cho chánh sứ lấy họ là Lĩnh, vẫn dùng tên cũ là Duyên, phó sứ họ là Kiệu vẫn dùng tên cũ là Tài, ngõ hầu biết được họ tên, ngày một nhuốm gội Hoa phong...”. Ông đồng thời còn nói : “Thánh nhân dùng Hạ biến di, có thể đem lễ nghĩa ra dạy bảo thì loài có mai vảy cũng có thể thay đổi mà biết mặc xiêm áo”. Tháng 12 năm 1835, ông lại tiếp tục có lời dụ : “Đất man đã lệ thuộc bản đồ của ta từ lâu, dân man cũng là con đỏ của ta, phải nên bảo ban dìu dắt, để ngày một nhiễm theo Hán phong… Phàm những thứ cần dùng đều phải học tập Hán dân, chăm việc làm lụng. Đến như ngôn ngữ thì bảo họ dần dần tập nói Hán âm. Ăn uống và áo quần cũng dạy cho dần dần theo Hán tục. Ngoài ra, hễ có điều gì phải đổi bỏ thói hủ lậu mà làm cho giản tiện dễ dàng thì cũng tùy cơ chỉ bảo. Thông cảm họ dẫu là man mọi, nhưng cũng có lương tri và lương năng… Hun đúc thấm nhuần, dùng Hạ biến di, đấy cũng là một đường lối thay đổi phong tục”.
Như vậy có thể thấy, tư tưởng Đế Vương và quan niệm Hoa Di đã có những ảnh hưởng mang tính quyết định đến việc lựa chọn trang phục cũng như đến văn hóa cung đình Việt Nam. Sau khi văn hiến, phong tục Trung Hoa đã thâm nhập và hòa quyện với các yếu tố bản địa trở thành một phần của văn hóa bản địa, thì từ việc sử dụng ngôn ngữ Hán trong quan phương đến việc áp dụng lề lối, lễ nghi cổ điển của Trung Quốc vào cuộc sống cung đình, triều đình Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản đều không còn khái niệm “vay mượn” hay “bắt chước”. Đối với các quốc gia này, văn minh Trung Hoa đã sớm trở thành một sản phẩm chung, một kho dữ liệu mà họ có quyền sử dụng, và có quyền từ đó tạo cho mình một nền văn hiến, điển chương "không thua kém Trung Quốc".— Vân Trai Trần Quang Đức, «Những tư-tưởng ảnh-hưởng đến văn-hóa trang-phục cung-đình Việt-nam»
Tham khảo[sửa]
Liên kết[sửa]
- ↑ "Beneath the Facade of China", School of Contemporary Chinese Studies, NG8 1BB, ngày 30 tháng 5 năm 2007
- ↑ Norman G. Owen (2005), The Emergence Of Modern Southeast Asia: A New History, University of Hawaii Press, tr. 115–, ISBN 978-0-8248-2890-5
- ↑ 《爾雅·釋地》:“九夷八狄七戎六蠻,謂之四海”。
- ↑ Alexander Woodside (1971), Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century, Harvard Univ Asia Center, tr. 134–, ISBN 978-0-674-93721-5
- ↑ Nguyen, Thuc-Doan T. (2008), Globalization: A View by Vietnamese Consumers Through Wedding Windows, tr. 34–, ISBN 978-0-549-68091-8
- ↑ "Vietnam's National Dress", angelasancartier.net, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 21 tháng 1 năm 2016, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2019
- ↑ Ashley Nguyen (ngày 14 tháng 3 năm 2010), "#18 Transcultural Tradition of the Vietnamese Ao Dai", Beyond Victoriana, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 23 tháng 3 năm 2010, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2019
- ↑ Marie, Ann (ngày 4 tháng 10 năm 2013), "Ao Dai", Fashion-history.lovetoknow.com, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 4 tháng 2 năm 2016, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2019
- ↑ "The Ao Dai and I: A Personal Essay on Cultural Identity and Steampunk", Tor.com, ngày 20 tháng 10 năm 2010, lưu trữ từ tài liệu gốc ngày 7 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2019
- ↑ Vietnam, Michelin Travel Publications, 2002, tr. 200
- ↑ A. Dirk Moses (ngày 1 tháng 1 năm 2008), Empire, Colony, Genocide: Conquest, Occupation, and Subaltern Resistance in World History, Berghahn Books, tr. 209–, ISBN 978-1-84545-452-4, lưu trữ từ nguyên tác 2008
- ↑ Randall Peerenboom; Carole J. Petersen; Albert H.Y. Chen (ngày 27 tháng 9 năm 2006), Human Rights in Asia: A Comparative Legal Study of Twelve Asian Jurisdictions, France and the USA, Routledge, tr. 474–, ISBN 978-1-134-23881-1
- ↑ Vietnam-Champa Relations and the Malay-Islam Regional Network in the 17th–19th Centuries, lưu trữ từ nguyên tác ngày 17 tháng 6 năm 2004, truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2019
Tài liệu[sửa]
- Kang, David C. (2010). East Asia Before the West: Five Centuries of Trade and Tribute. New York : Columbia University Press. OCLC 562768984
- Shelach, Gideon (1999). Leadership Strategies, Economic Activity, and Interregional Interaction: Social Complexity in Northeast China. Springer.
- von Falkenhausen, Lothar. "The Waning of the Bronze Age: Material Culture and Social Developments, 770–481 B.C." In Michael Loewe and Edward L. Shaughnessy (editors), The Cambridge History of Ancient China: From the Origins of Civilization to 221 B.C., pp. 450–544. Cambridge, England: Cambridge University Press.