Sửa đổi Tĩnh Hải quân

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 2: Dòng 2:
 
'''Tĩnh Hải quân''' ([[Hán văn]] : 靜海軍, [[Quảng thoại]] : ''Zing-hoi gwan'', [[Việt ngữ|An Nam trung đại ngữ]] : ''Tịnh-hải quôn''<ref>[[Alexandre de Rhodes]], [...], ''[[Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum]]'', Sacra Congregatio de Propaganda Fide, [[Roma]], 1561.</ref>) là khu vực hành chính [[Trung Hoa]] tồn tại giai đoạn 866 - 968.
 
'''Tĩnh Hải quân''' ([[Hán văn]] : 靜海軍, [[Quảng thoại]] : ''Zing-hoi gwan'', [[Việt ngữ|An Nam trung đại ngữ]] : ''Tịnh-hải quôn''<ref>[[Alexandre de Rhodes]], [...], ''[[Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum]]'', Sacra Congregatio de Propaganda Fide, [[Roma]], 1561.</ref>) là khu vực hành chính [[Trung Hoa]] tồn tại giai đoạn 866 - 968.
 
[[Hình:L.LIANG.jpg|nhỏ|phải|222px|Địa vực Tĩnh Hải quân về cực Nam [[Trung Châu]].]]
 
[[Hình:L.LIANG.jpg|nhỏ|phải|222px|Địa vực Tĩnh Hải quân về cực Nam [[Trung Châu]].]]
==Hành chính==
+
==Cương vực==
===Cương vực===
 
 
Quân (軍) là cấp hành chính địa phương cao nhất thời [[Đường triều|Đường]], thể hiện tính xung yếu và cần được quan phòng mức cao. Nhưng thực tế, thời kì này [[Đường triều]] chỉ đủ khả năng ki mi.
 
Quân (軍) là cấp hành chính địa phương cao nhất thời [[Đường triều|Đường]], thể hiện tính xung yếu và cần được quan phòng mức cao. Nhưng thực tế, thời kì này [[Đường triều]] chỉ đủ khả năng ki mi.
  
Địa giới Tĩnh Hải quân (靜海軍) trải từ mạn Nam [[Ngũ Lĩnh]] tới [[Hoành Sơn quan]] ngày nay, phía Tây tiếp giáp [[Nam Chiếu]] và một phần ngoại vực [[đế quốc Khmer]]. Đương thời, vùng này được hiểu gồm [[Lĩnh Nam]] (嶺南 ; một phần tỉnh [[Quảng Tây]] và [[Vân Nam]], một phần [[Đông Bắc Bộ]] hiện đại) và [[Lĩnh Ngoại]] (嶺外), nhìn chung ở khá xa [[Trung Châu]]. Cũng do vậy, khi có loạn [[Nam Chiếu]], [[triều Đường]] tỏ ra rất bị động ứng phó, rốt cuộc để mất ảnh hưởng ở ngoại biên.
+
Hành chính Tĩnh Hải quân (靜海軍) trải từ mạn Nam [[Ngũ Lĩnh]] tới [[Hoành Sơn quan]] ngày nay, phía Tây tiếp giáp [[Nam Chiếu]] và một phần ngoại vực [[đế quốc Khmer]]. Đương thời, vùng này được hiểu gồm [[Lĩnh Nam]] (嶺南 ; một phần tỉnh [[Quảng Tây]] và [[Vân Nam]], một phần [[Đông Bắc Bộ]] hiện đại) và [[Lĩnh Ngoại]] (嶺外), nhìn chung ở khá xa [[Trung Châu]].
 
 
Châu trị ban đầu tại [[Hà Nội|Đại La]] thành, tới [[Ngô Quyền|Ngô vương]] dời ra [[Cổ Loa]] (cổ âm : ''k'La'', ''kẻ La'' ; Bạch Kê thành).
 
 
[[Hình:Jinghai Ngô circuits.png|nhỏ|phải|333px|Dư đồ Tĩnh Hải quân.]]
 
[[Hình:Jinghai Ngô circuits.png|nhỏ|phải|333px|Dư đồ Tĩnh Hải quân.]]
;;'''Trực tiếp'''
+
;;'''Trực trị'''
 
{{div col|colwidth=12em}}
 
{{div col|colwidth=12em}}
 
* Giao châu
 
* Giao châu
Dòng 71: Dòng 68:
 
# Thiêm Lăng châu
 
# Thiêm Lăng châu
 
{{div col end}}
 
{{div col end}}
===Quân chủ===
 
<center>
 
{|class=wikitable
 
!Húy!!Tước hiệu!!Thụy hiệu!!Thời gian
 
|-
 
|(Thuộc [[Đường triều]])||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||<center>·</center>||866 - 907
 
|-
 
|[[Khúc Thừa Hạo]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||Khúc tiên chủ||907 - 917
 
|-
 
|[[Khúc Thừa Mĩ]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||Khúc hậu chủ||917 - 923
 
|-
 
|(Thuộc [[Nam Hán]])||(Trực trị)||<center>·</center>||923 - 931
 
|-
 
|[[Dương Diên Nghệ]]||Ái châu thứ sử<br>Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Tự xưng, nhưng được thừa nhận rộng rãi.</ref>||Dương chính công||931 - 937
 
|-
 
|[[Kiểu Công Tiễn]]||Phong châu thứ sử<br>Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Tiếm xưng, không được thừa nhận rộng rãi.</ref>||<center>·</center>||937 - 938
 
|-
 
|(Trống ngôi)||<center>·</center>||<center>·</center>||938 - 939
 
|-
 
|[[Ngô Quyền]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Ngô vương||Tiền Ngô vương<br>Ngô tiên chủ||939 - 944
 
|-
 
|[[Dương Thiệu Hồng]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Không được thừa nhận rộng rãi.</ref><br>Dương Bình vương<br>Trương Dương công||Dương chủ tướng||944 - 950
 
|-
 
|[[Ngô Xương Văn]]<ref>Thực quyền.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Nam Tấn vương||Hậu Ngô vương<br>Ngô hậu chủ||950 - 965
 
|-
 
|[[Ngô Xương Ngập]]<ref>Hư vị.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Thiên Sách vương||<center>·</center>||950 - 954
 
|-
 
|[[Đinh Tiên Hoàng|Đinh bộ lĩnh]]<ref>Khuyết danh.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Tự xưng, không được thừa nhận rộng rãi.</ref><br>Vạn Thắng vương<ref>Được tôn tụng.</ref>||<center>·</center>||965 - 968
 
|}
 
</center>
 
 
==Lịch sử==
 
==Lịch sử==
 
Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), [[hoàng đế]] [[Đường Ý Tông]] thuận thỉnh tấu của quan kinh lược [[Cao Biền]] mà nâng [[An Nam đô hộ phủ]] thành '''Tĩnh Hải quân'''<ref>《舊唐書·高駢傳》:“五年,移駢為安南都護”。</ref>. Nhờ công dẹp loạn [[Nam Chiếu]], đại thần [[Cao Biền]] được trọng nhậm ''tiết độ sứ''<ref>《資治通鑑》:“(咸通七年十一月)置靜海軍於安南,以高駢為節度使”。</ref>, tùy nghi hành sự tại đất [[Lĩnh Nam]]<ref>《新唐書·高駢傳》:“進駢檢校刑部尚書,仍鎮安南,以都護府為靜海軍,授駢節度,兼諸道行營招討使”。</ref>.
 
Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), [[hoàng đế]] [[Đường Ý Tông]] thuận thỉnh tấu của quan kinh lược [[Cao Biền]] mà nâng [[An Nam đô hộ phủ]] thành '''Tĩnh Hải quân'''<ref>《舊唐書·高駢傳》:“五年,移駢為安南都護”。</ref>. Nhờ công dẹp loạn [[Nam Chiếu]], đại thần [[Cao Biền]] được trọng nhậm ''tiết độ sứ''<ref>《資治通鑑》:“(咸通七年十一月)置靜海軍於安南,以高駢為節度使”。</ref>, tùy nghi hành sự tại đất [[Lĩnh Nam]]<ref>《新唐書·高駢傳》:“進駢檢校刑部尚書,仍鎮安南,以都護府為靜海軍,授駢節度,兼諸道行營招討使”。</ref>.
Dòng 132: Dòng 99:
 
Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.
 
Năm 954, Nam Sách vương mất. Năm 965, Nam Tấn vương cũng vong trận. Triều Ngô không người trực hệ kế nghiệp, tới đây [dường như] cáo chung.
  
Tuy nhiên, theo ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục|Cương mục]]'' (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử [[Ngô Xương Xí]]<ref>Có sách chép là Nguyễn Xương Xí, như vậy không phải dòng dõi Ngô vương Quyền.</ref> thuộc đàng ngoại tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]]. Ở thời điểm 965, tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]] đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện [[Trực Ninh]] tỉnh [[Nam Định]]). Cũng năm đó, do thấy vị thế đã kém, ông [[Ngô Xương Xí]] không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]) giữ lộc vị, bỏ hoang kinh kì.
+
Tuy nhiên, theo ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục|Cương mục]]'' (thế kỉ XIX), Nam Sách vương có người đích tử [[Ngô Xương Xí]] thuộc đàng ngoại tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]]. Ở thời điểm 965, tiếm chủ [[Dương Thiệu Hồng]] đã xuôi về mạn Tùng Khê (nay thuộc huyện [[Trực Ninh]] tỉnh [[Nam Định]]). Cũng năm đó, do thấy vị thế đã kém, ông [[Ngô Xương Xí]] không xưng quốc chủ mà lui xuống mạn Bình Kiều (nay thuộc tỉnh [[Thanh Hóa]]) cố thủ, bỏ hoang kinh kì.
 
;;'''Đinh bộ lĩnh'''
 
;;'''Đinh bộ lĩnh'''
 
Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh thị]] lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất [[Hồng Hà bình nguyên|trung thổ]], căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng ''Đại Thắng Minh hoàng đế'', đổi Tĩnh Hải quân thành ''Đại Cồ-việt quốc'', dựng kinh thành [[Tràng An]] ở bản quán [[Hoa Lư]], coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn<ref>[[Trần Trọng Dương]], ''[https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Dinh-Tien-Hoang-duoi-con-mat-cac-su-gia-hien-dai-13981 Đinh Tiên Hoàng dưới con mắt các sử gia hiện đại]'', [[Tạp chí Tia Sáng]], [[Hà Nội]], 18-11-2018.</ref>.
 
Trong 3 năm cuối cùng, sứ quân [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh thị]] lần lượt thu phục các thế lực lớn nhất [[Hồng Hà bình nguyên|trung thổ]], căn bản thống nhất bờ cõi Tĩnh Hải quân. Tới năm 968, ông xưng ''Đại Thắng Minh hoàng đế'', đổi Tĩnh Hải quân thành ''Đại Cồ-việt quốc'', dựng kinh thành [[Tràng An]] ở bản quán [[Hoa Lư]], coi như kết thúc gần thế kỉ tương tàn<ref>[[Trần Trọng Dương]], ''[https://tiasang.com.vn/-doi-moi-sang-tao/Dinh-Tien-Hoang-duoi-con-mat-cac-su-gia-hien-dai-13981 Đinh Tiên Hoàng dưới con mắt các sử gia hiện đại]'', [[Tạp chí Tia Sáng]], [[Hà Nội]], 18-11-2018.</ref>.
Dòng 142: Dòng 109:
 
Hình:Nhat Tao bronze bell, Ngo dynasty, 948, Museum of Vietnamese history.jpg|Đại chung đúc năm 948, phát hiện tại đền Nhật Tảo, xã Lương Tài, huyện Văn Lâm, tỉnh [[Hưng Yên]]</gallery></center>
 
Hình:Nhat Tao bronze bell, Ngo dynasty, 948, Museum of Vietnamese history.jpg|Đại chung đúc năm 948, phát hiện tại đền Nhật Tảo, xã Lương Tài, huyện Văn Lâm, tỉnh [[Hưng Yên]]</gallery></center>
 
{{cquote|''Về dân số, trái với ngày nay, khi vùng lưu vực sông Hồng là nơi dân cư đông đúc, cao hơn vùng Tây Bắc và cả nước Lào rất nhiều, thì 600 năm về trước, dân số toàn An Nam chỉ ngang hoặc ít hơn dân số các tiểu quốc nói tiếng Thái ở phía Tây (Ngưu Hống, Ải Lao, Bồn Man).''<br>''Một thống kê từ sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng, vào cuối thời Bắc thuộc và những buổi đầu tự chủ, cư dân Bắc Bộ ngày nay vô cùng thưa thớt, lại cũng trái với giai đoạn đầu Bắc thuộc, dưới triều Hán, khi Giao Chỉ là trung tâm văn hóa và thương mại miền Nam Trung Châu, thì mật độ dân số cũng cao nhất toàn miền Nam Trung Châu.''<br>''Sự sụt giảm dân số đáng kể ở cuối thời Bắc thuộc có thể một phần do Giao Chỉ mất đi vị trí quan trọng trong lĩnh vực hải thương (từ thế kỉ VIII trở đi, Quảng Đông vươn dậy thành thương cảng quan trọng nhất miền Nam Trung Châu) và một phần do cuộc xâm lăng tàn khốc của người Nam Chiếu đã khiến rất nhiều cư dân lưu vực sông Hồng hoặc bị sát hại hoặc phải rời đi. Sử Trung Hoa có ghi lại việc này. Cuộc tiến công của quân Nam Chiếu trong thời Đường mạt là cú đấm mạnh nhất vào trạng thái ổn định của xứ An Nam suốt mấy thế kỉ, nhiều lớp cư dân đã tháo chạy khỏi đây hoặc vào sống trong hang động, bao nhiêu tướng lĩnh võ biền của nhà Đường đánh chống không nổi, rốt cuộc triều đình phải sai một văn thần là Cao Biền xuống, may lắm mới dẹp được loạn Nam Chiếu.''<br>''Cũng chính vì cư dân thưa thớt, dẫn đến việc thiếu nhân lực mà sau này nhà Lý phải thường xuyên mua nô lệ từ Quảng Tây (có được nhắc đến trong sách '[[Ngàn năm áo mũ]]') và luôn luôn phái quân chinh phạt Chiêm Thành, không phải lấn đất mà chỉ để đoạt người (vả chăng, dân số ít ỏi thì khó bề quản lĩnh được). Những thời điểm nhà Lý tiến công Chiêm Thành hăng hái nhất cũng là lúc cung tẩm đình chùa được thi công nhiều nhất, cho thấy hai việc này ắt có liên hệ.''|||Quỳnh Sương, FLSVN, 21 tháng 12 năm 2015}}
 
{{cquote|''Về dân số, trái với ngày nay, khi vùng lưu vực sông Hồng là nơi dân cư đông đúc, cao hơn vùng Tây Bắc và cả nước Lào rất nhiều, thì 600 năm về trước, dân số toàn An Nam chỉ ngang hoặc ít hơn dân số các tiểu quốc nói tiếng Thái ở phía Tây (Ngưu Hống, Ải Lao, Bồn Man).''<br>''Một thống kê từ sử liệu Trung Hoa cũng cho thấy rằng, vào cuối thời Bắc thuộc và những buổi đầu tự chủ, cư dân Bắc Bộ ngày nay vô cùng thưa thớt, lại cũng trái với giai đoạn đầu Bắc thuộc, dưới triều Hán, khi Giao Chỉ là trung tâm văn hóa và thương mại miền Nam Trung Châu, thì mật độ dân số cũng cao nhất toàn miền Nam Trung Châu.''<br>''Sự sụt giảm dân số đáng kể ở cuối thời Bắc thuộc có thể một phần do Giao Chỉ mất đi vị trí quan trọng trong lĩnh vực hải thương (từ thế kỉ VIII trở đi, Quảng Đông vươn dậy thành thương cảng quan trọng nhất miền Nam Trung Châu) và một phần do cuộc xâm lăng tàn khốc của người Nam Chiếu đã khiến rất nhiều cư dân lưu vực sông Hồng hoặc bị sát hại hoặc phải rời đi. Sử Trung Hoa có ghi lại việc này. Cuộc tiến công của quân Nam Chiếu trong thời Đường mạt là cú đấm mạnh nhất vào trạng thái ổn định của xứ An Nam suốt mấy thế kỉ, nhiều lớp cư dân đã tháo chạy khỏi đây hoặc vào sống trong hang động, bao nhiêu tướng lĩnh võ biền của nhà Đường đánh chống không nổi, rốt cuộc triều đình phải sai một văn thần là Cao Biền xuống, may lắm mới dẹp được loạn Nam Chiếu.''<br>''Cũng chính vì cư dân thưa thớt, dẫn đến việc thiếu nhân lực mà sau này nhà Lý phải thường xuyên mua nô lệ từ Quảng Tây (có được nhắc đến trong sách '[[Ngàn năm áo mũ]]') và luôn luôn phái quân chinh phạt Chiêm Thành, không phải lấn đất mà chỉ để đoạt người (vả chăng, dân số ít ỏi thì khó bề quản lĩnh được). Những thời điểm nhà Lý tiến công Chiêm Thành hăng hái nhất cũng là lúc cung tẩm đình chùa được thi công nhiều nhất, cho thấy hai việc này ắt có liên hệ.''|||Quỳnh Sương, FLSVN, 21 tháng 12 năm 2015}}
 +
==Lịch đại quân chủ==
 +
<center>
 +
{|class=wikitable
 +
!Húy!!Tước hiệu!!Thụy hiệu!!Thời gian
 +
|-
 +
|(Thuộc [[Đường triều]])||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||<center>·</center>||866 - 907
 +
|-
 +
|[[Khúc Thừa Hạo]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||<center>·</center>||907 - 917
 +
|-
 +
|[[Khúc Thừa Mĩ]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||<center>·</center>||917 - 923
 +
|-
 +
|(Thuộc [[Nam Hán]])||(Trực trị)||<center>·</center>||923 - 931
 +
|-
 +
|[[Dương Diên Nghệ]]||Ái châu thứ sử<br>Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||Dương Chính công||931 - 937
 +
|-
 +
|[[Kiểu Công Tiễn]]||Phong châu thứ sử<br>Tĩnh Hải quân tiết độ sứ||<center>·</center>||937 - 938
 +
|-
 +
|(Trống ngôi)||<center>·</center>||<center>·</center>||938 - 939
 +
|-
 +
|[[Ngô Quyền]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Ngô vương||Tiền Ngô vương<br>Ngô tiên chủ||939 - 944
 +
|-
 +
|[[Dương Thiệu Hồng]]||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Không được thừa nhận rộng rãi.</ref><br>Dương Bình vương<br>Trương Dương công||Dương chủ tướng||944 - 950
 +
|-
 +
|[[Ngô Xương Văn]]<ref>Thực quyền.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Nam Tấn vương||Hậu Ngô vương<br>Ngô hậu chủ||950 - 965
 +
|-
 +
|[[Ngô Xương Ngập]]<ref>Hư vị.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<br>Thiên Sách vương||<center>·</center>||950 - 954
 +
|-
 +
|[[Đinh Tiên Hoàng|Đinh bộ lĩnh]]<ref>Khuyết danh.</ref>||Tĩnh Hải quân tiết độ sứ<ref>Tự xưng, không được thừa nhận rộng rãi.</ref><br>Vạn Thắng vương<ref>Được tôn tụng.</ref>||<center>·</center>||965 - 968
 +
|}
 +
</center>
 
==Văn hóa==
 
==Văn hóa==
 
Thực tế từ thời điểm kết thúc loạn sứ quân, khu vực [[Lĩnh Nam]] không chịu sự kiểm soát trực tiếp của các triều đình [[Trung Châu]] nữa, căn bản tiến tới tự chủ hoàn toàn ở thế kỉ XI<ref>[[Trần Quang Đức]], ''[https://dep.com.vn/tran-quang-duc-lich-su-khong-chi-la-cac-cuoc-chien/ Lịch sử không phải chỉ là các cuộc chiến]'' (phỏng vấn), [[Hà Nội]], 2013</ref>. Tuy vậy, cho tới gần hết [[Tống triều]], [[quân vương]] [[An Nam]] khi dâng biểu cầu phong đều được [[hoàng đế]] [[Tống triều|Tống]] ban tước '''Tĩnh Hải quân tiết độ sứ'''. Năm 1262 cải «'''Tĩnh Hải quân tiết độ quan sát xử trí sứ''', Kiểm hiệu thái úy kiêm Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc, An Nam quốc vương hiệu trung thuận hóa công thần».
 
Thực tế từ thời điểm kết thúc loạn sứ quân, khu vực [[Lĩnh Nam]] không chịu sự kiểm soát trực tiếp của các triều đình [[Trung Châu]] nữa, căn bản tiến tới tự chủ hoàn toàn ở thế kỉ XI<ref>[[Trần Quang Đức]], ''[https://dep.com.vn/tran-quang-duc-lich-su-khong-chi-la-cac-cuoc-chien/ Lịch sử không phải chỉ là các cuộc chiến]'' (phỏng vấn), [[Hà Nội]], 2013</ref>. Tuy vậy, cho tới gần hết [[Tống triều]], [[quân vương]] [[An Nam]] khi dâng biểu cầu phong đều được [[hoàng đế]] [[Tống triều|Tống]] ban tước '''Tĩnh Hải quân tiết độ sứ'''. Năm 1262 cải «'''Tĩnh Hải quân tiết độ quan sát xử trí sứ''', Kiểm hiệu thái úy kiêm Ngự sử đại phu, Thượng trụ quốc, An Nam quốc vương hiệu trung thuận hóa công thần».
  
Do đặc thù [[xã hội]] [[An Nam]] thế kỉ IX sang giữa thế kỉ X thường động loạn nên sử liệu không nhiều và lắm tồn nghi. Cho nên, trong quá trình phát triển [[văn bản học]] và [[khảo cổ học]] ở hậu kì hiện đại đã phát sinh một số nghi vấn về thời kì này.
+
Do đặc thù [[xã hội]] [[An Nam]] thế kỉ IX sang giữa thế kỉ X thường động loạn nên sử liệu không nhiều và lắm tồn nghi. Do đó, trong quá trình phát triển [[văn bản học]] và [[khảo cổ học]] ở hậu kì hiện đại đã phát sinh một số nghi vấn về thời kì này.
<center><gallery>Hình:杨廷艺.jpg|Ngẫu tượng [[Dương Diên Nghệ|Dương chính công]] ở Dương Xá ([[Thanh Hóa]])
 
Hình:Tượng Ngô Quyền.jpg|Ngẫu tượng [[Ngô Quyền|Ngô tiên chủ]] thời [[Triều Lê trung hưng|Lê]]
 
Hình:Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.jpg|Họa phẩm ''Ngô vương Quyền'' ở làng nghề [[Đông Hồ]], tả chiến kiện Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938)
 
Hình:Le roi Dinh Tien Hoang (Hoa Lu) (4365680475).jpg|Ngẫu tượng [[Đinh Tiên Hoàng]] thời [[Triều Lê trung hưng|Lê]]</gallery></center>
 
 
;;'''Hư thực nhân vật Khúc Thừa Dụ'''
 
;;'''Hư thực nhân vật Khúc Thừa Dụ'''
 
Cứ liệu sớm nhất nhắc đến nhân vật Khúc Thừa Dụ (曲承裕) là ''[[Tục tư trị thông giám]]'' của tác giả [[Tất Nguyên]] triều [[Thanh Thế Tông|Càn Long]] (giữa thế kỉ XVIII), sau được Nguyễn triều Quốc Sử quán ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]'' chép nguyên văn : "''Năm Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu thứ 4, Lương Thái Tổ hiệu Khai Bình thứ 1). Khúc Thừa Dụ mất, con là Hạo giữ Giao châu, tự xưng tiết độ sứ. Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La thành, cũng xưng tiết độ sứ. [Ông] chia lộ phủ châu xã các xứ ; đặt chính lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch ; lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi. Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui. Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong tước Nam Bình vương. Lưu Ẩn giữ thành Phiên Ngung. Khúc Hạo giữ Giao châu, [cũng] tự xưng tiết độ sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau. Lời chua : Khúc Hạo - Theo sách An Nam Kỉ Yếu, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay Độc Cô Tổn, đổi các hương ở huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Nay xét việc chép trong An Nam Kỉ Yếu có hơi khác với lời sử cũ, xin ghi cả hai để tham khảo''".
 
Cứ liệu sớm nhất nhắc đến nhân vật Khúc Thừa Dụ (曲承裕) là ''[[Tục tư trị thông giám]]'' của tác giả [[Tất Nguyên]] triều [[Thanh Thế Tông|Càn Long]] (giữa thế kỉ XVIII), sau được Nguyễn triều Quốc Sử quán ''[[Khâm định Việt sử thông giám cương mục]]'' chép nguyên văn : "''Năm Đinh Mão [907], (Đường Thiên Hựu thứ 4, Lương Thái Tổ hiệu Khai Bình thứ 1). Khúc Thừa Dụ mất, con là Hạo giữ Giao châu, tự xưng tiết độ sứ. Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ, giữ lấy La thành, cũng xưng tiết độ sứ. [Ông] chia lộ phủ châu xã các xứ ; đặt chính lệnh trưởng và tá lệnh trưởng, bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch ; lập sổ khai hộ khẩu, kê rõ họ tên quê quán, giao cho giáp trưởng trông coi. Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được yên vui. Khi đó, nhà Lương dùng tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Ẩn kiêm lĩnh chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ và phong tước Nam Bình vương. Lưu Ẩn giữ thành Phiên Ngung. Khúc Hạo giữ Giao châu, [cũng] tự xưng tiết độ sứ, hai bên chực thôn tính lẫn nhau. Lời chua : Khúc Hạo - Theo sách An Nam Kỉ Yếu, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay Độc Cô Tổn, đổi các hương ở huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất. Nay xét việc chép trong An Nam Kỉ Yếu có hơi khác với lời sử cũ, xin ghi cả hai để tham khảo''".

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)