Sửa đổi Quan Âm Thị Kính/đang phát triển

Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.

Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.

Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.

Bản hiện tại Nội dung bạn nhập
Dòng 1: Dòng 1:
{{mới}}
+
'''Quan Âm Thị Kính'''<ref>Thông tin chép theo [[Nguyễn Huệ Chi]], ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1473.</ref> (chính văn : 觀音新傳) là tên thông tục một [[sử thi]] [[Hán Nôm]] ba hồi xuất hiện hậu kỳ [[trung đại]], có sức ảnh hưởng nhất định tới nền [[nghệ thuật]] [[sân khấu]] [[Việt Nam]] hiện đại. Đây cũng là tác phẩm có lượng tục bản và chuyển thể chỉ lớn sau ''[[Đoạn trường tân thanh]]''.
{{Infobox play
 
| name      = Quan Âm Thị Kính<br>觀音新傳
 
| image      = VoCheoQuanamThiKinh.jpg
 
| image_size = 292px
 
| caption    = Chèo ''Quan Âm Thị Kính'' do soạn giả [[Vũ Khắc Khoan]] hiệu đính, diễn tại [[Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ]] [[Sài Gòn]] năm 1972.
 
| writer    = Nặc danh
 
| chorus    =
 
| characters =
 
| mute      =
 
| setting    = Thôn trang [[Cao Ly]]
 
| premiere  = Thế kỉ XIX
 
| place      = [[Hình:Personal Flag of Emperor Minh Mang.svg|23px]] [[An Nam]]
 
| orig_lang  = [[Nôm]]
 
| series    =
 
| subject    = Giáo huấn
 
| genre      = [[Phật tích]]
 
| web        =
 
}}
 
'''Quan Âm Thị Kính'''<ref>Theo [[Nguyễn Huệ Chi]], ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1473.</ref> (chính văn : 觀音新傳) là tên thông tục một [[sử thi]] [[Hán Nôm]] ba hồi xuất hiện hậu kỳ [[trung đại]], có sức ảnh hưởng nhất định tới nền [[nghệ thuật]] [[sân khấu]] [[Việt Nam]] hiện đại. Đây cũng là tác phẩm có lượng tục bản và chuyển thể chỉ lớn sau ''[[Đoạn trường tân thanh]]''.
 
 
==Lịch sử==
 
==Lịch sử==
 
===Tác giả===
 
===Tác giả===
 
Từ lâu ''Quan Âm Thị Kính'' được coi là của tác giả "khuyết danh", nhưng hiện có hai giả thuyết :
 
Từ lâu ''Quan Âm Thị Kính'' được coi là của tác giả "khuyết danh", nhưng hiện có hai giả thuyết :
{{quote box
+
*Theo nghiên cứu của [[Hoàng Thúc Trâm|Hoa Bằng]], thì tác giả của truyện thơ này là Nguyễn Cấp (? - ?), một nhà văn sống vào nửa đầu thế kỷ 19. Ông là người ở thôn Thượng, xã Nguyên Khiết, huyện [[Thọ Xương (huyện)|Thọ Xương]]; nay thuộc Hà Nội. Sau khi đỗ [[Giải nguyên]] năm Quý Dậu (1813), ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến chức Tri phủ [[Thiên Trường]] (1829). Sau vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ [[Nguyễn Công Trứ]] bấy giờ đang làm Tán tương quân vụ ở [[Lạng Giang]] che chở, nên ông đến ẩn tu tại đây. Tác phẩm ''Quan Âm Thị Kính'' được ông sáng tác vào lúc cuối đời, đã thể hiện phần nào tâm sự u uất của ông. Ngoài ra,trong gia phả tại [[chùa Bổ Đà]] ghi, sư cụ Nguyễn Đình Cấp dựa vào phong cảnh trang Tiên Lát (chùa Bổ Đà) để tả ngôi chùa trong cốt truyện Quan Âm Thị Kính.<ref>[http://vanhien.vn/spip.php?article672&lang=vi Cổ kính Bồ đà (Bắc Giang), Thanh Xuân, http://vanhien.vnl]</ref>
|quote    = ''Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai người, Nguyễn Cấp vả Đỗ Trọng Dư đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính [...]<br>Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng Dư là người soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện còn là vào năm [[Tự Đức]] 21 (1868).''
+
*Theo Gia phả họ Đỗ ở [[Bắc Ninh]] do Dương Xuân Thự cung cấp, thì truyện thơ ''Quan Âm Thị Kính'' do Đỗ Trọng Dư (1786 - 1868) sáng tác. Ông là người xã Đại Mão, huyện [[Siêu Loại]], xứ [[Kinh Bắc]]; nay thuộc tỉnh [[Bắc Ninh]]. Đỗ Hương cống năm 1819, ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến chức Tri phủ [[Quốc Oai]]. Ở đây, ông bị kiện là thu tiền của dân không hợp lệ nên bị bãi chức (vì xin một chức vị trong phủ không được, mà một nho sinh đã làm đơn kiện ông), phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông soạn ''Quan Âm Thị Kính'' để tỏ nỗi lòng. Năm 1876, con ông là [[Hương cống|cử nhân]] Đỗ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948, thì tác phẩm (bản bằng chữ Quốc ngữ) được in ra (trên bản in đề rõ là của Đỗ Trọng Dư).
|source  = — [[Giáo sư]] [[Nguyễn Huệ Chi]]<ref>Nguyễn Huệ Chi, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1472.</ref>
+
 
|width    = 30%
+
Vấn đề tác giả, [[giáo sư]] [[Nguyễn Huệ Chi]] nêu quan điểm :
|border  = 1px
+
:''Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai người, Nguyễn Cấp vả Đỗ Trọng Dư đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm Quan Âm Thị Kính... Tuy nhiên có phần chắc Đỗ Trọng Dư là người soạn sau, vì bản in sớm nhất truyện thơ Quan Âm Thị Kính hiện còn là vào năm [[Tự Đức]] 21 (1868) <ref>Nguyễn Huệ Chi, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1472.</ref>.''
|fontsize = 90%
 
}}
 
* Theo nghiên cứu của ông [[Hoàng Thúc Trâm|Hoa Bằng]], thì tác giả sử thi ông Nguyễn Cấp (? - ?), một tác gia đầu thế kỉ XIX. Ông là người ở thôn Thượng, xã Nguyên Khiết, huyện [[Thọ Xương]] ; nay thuộc Hà Nội. Sau khi đỗ [[Giải nguyên]] năm Quý Dậu (1813), ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến tri phủ [[Thiên Trường]] (1829). Sau vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị bắt giam, nhưng trốn được. Nhờ ông [[Nguyễn Công Trứ]] bấy giờ đang làm tán tương quân vụ ở [[Lạng Giang]] che chở, nên ông ẩn tu đây. Tác phẩm ''Quan Âm Thị Kính'' được ông sáng tác vào lúc cuối đời, đã thể hiện phần nào tâm sự u uất của ông. Ngoài ra, trong tài liệu [[chùa Bổ Đà]] nói, sư cụ Nguyễn Đình Cấp dựa vào phong quang trang Tiên Lát (chùa Bổ Đà) để tả ngôi chùa trong cốt truyện Quan Âm Thị Kính.<ref>[http://vanhien.vn/spip.php?article672&lang=vi Cổ kính Bồ đà (Bắc Giang), Thanh Xuân, http://vanhien.vnl]</ref>
 
* Theo ''Đỗ tộc phả'' ở [[Bắc Ninh]] do ông Dương Xuân Thự cung cấp, thì sử thi ''Quan Âm Thị Kính'' do ông Đỗ Trọng Dư (1786 - 1868) sáng tác. Ông là người xã Đại Mão, huyện [[Siêu Loại]], xứ [[Kinh Bắc]] (nay thuộc tỉnh [[Bắc Ninh]]). Đỗ hương cống năm 1819, ông được bổ chức quan, lần lượt trải đến tri phủ [[Quốc Oai]]. Ở đây, ông bị kiện là thu tiền của dân không hợp lệ nên bị bãi chức (vì xin một chức vị trong phủ không được, mà một nho sinh đã làm đơn kiện ông), phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông soạn ''Quan Âm Thị Kính'' để tỏ lòng. Năm 1876, con ông là [[Hương cống|cử nhân]] Đỗ Trọng Vĩ chép lại, đến năm 1948, thì tác phẩm (bản bằng chữ Quốc ngữ) được in ra (trên bản in đề rõ là của ông Đỗ Trọng Dư).
 
 
===Tác phẩm===
 
===Tác phẩm===
 
Cứ văn bản [[giáo sư]] [[Dương Quảng Hàm]] giới thiệu tại lần ấn hành duy nhất đến nay của Nhà xuất bản Văn Học, [[Hà Nội]] năm 1961, thì truyện gồm 786 câu [[thơ#Lục bát|lục bát]].<ref>[[Nguyễn Huệ Chi]] (tr. 1471) và [[Thanh Lãng]] (tr. 606) đều ghi giống Dương Quảng Hàm, tức truyện có 786 câu. Văn bản bằng chữ Quốc ngữ do nhà văn [[Nguyễn Văn Vĩnh]] ấn hành năm 1911 thì truyện gồm có 788 câu thơ lục bát và một bức thư Kính Tâm gửi cha mẹ.</ref>
 
Cứ văn bản [[giáo sư]] [[Dương Quảng Hàm]] giới thiệu tại lần ấn hành duy nhất đến nay của Nhà xuất bản Văn Học, [[Hà Nội]] năm 1961, thì truyện gồm 786 câu [[thơ#Lục bát|lục bát]].<ref>[[Nguyễn Huệ Chi]] (tr. 1471) và [[Thanh Lãng]] (tr. 606) đều ghi giống Dương Quảng Hàm, tức truyện có 786 câu. Văn bản bằng chữ Quốc ngữ do nhà văn [[Nguyễn Văn Vĩnh]] ấn hành năm 1911 thì truyện gồm có 788 câu thơ lục bát và một bức thư Kính Tâm gửi cha mẹ.</ref>
Dòng 38: Dòng 15:
 
Tổng cộng 9 ấn bản, mấy cuốn mất trang.
 
Tổng cộng 9 ấn bản, mấy cuốn mất trang.
 
==Nội dung==
 
==Nội dung==
Truyện cốt tả đức từ bi nhẫn nhục của bà Thị Kính để giải vì sao bà hóa [[Quan Âm]].
+
Truyện cốt tả đức từ bi nhẫn nhục của bà Thị Kính để giải vì sao bà hóa [[Quan Âm]].
 
* '''Hồi I :''' Thị Kính phải oán lần đầu và đi tu (câu 001→370)
 
* '''Hồi I :''' Thị Kính phải oán lần đầu và đi tu (câu 001→370)
 
Xưa ở xứ [[Cao Ly]] có sư ông đắc đạo sắp thành [[Phật]]. Đức [[Thích Ca]] bèn thử lần chót, mới cho đầu thai làm cô Thị Kính con Mãng ông nghèo hèn nhu nhược nhất làng. Sau Thị Kính được gia đình gả cho anh học trò Thiện Sĩ con họ Sùng khá nhất làng bên. Một hôm, Thiện Sĩ học khuya, mệt quá mà thiếp đi. Thị Kính đang ngồi khâu áo thì thấy cằm chồng có cái râu mọc ngược, vớ dao toan cắt đi. Chồng giật thột tỉnh giấc, sinh bụng ngờ vợ hãm hại mình, bèn tri hô. Sùng ông Sùng bà trong buồng chạy ra, gán ngay cho thị tội sát chồng hòng kiếm nàng dâu con nhà phú quý hơn. Thị Kính bị đánh mắng rồi đuổi về với cha mẹ, phẫn chí mới giả trai xin vào chùa Vân tu hành, được ban [[pháp danh]] Kính Tâm.
 
Xưa ở xứ [[Cao Ly]] có sư ông đắc đạo sắp thành [[Phật]]. Đức [[Thích Ca]] bèn thử lần chót, mới cho đầu thai làm cô Thị Kính con Mãng ông nghèo hèn nhu nhược nhất làng. Sau Thị Kính được gia đình gả cho anh học trò Thiện Sĩ con họ Sùng khá nhất làng bên. Một hôm, Thiện Sĩ học khuya, mệt quá mà thiếp đi. Thị Kính đang ngồi khâu áo thì thấy cằm chồng có cái râu mọc ngược, vớ dao toan cắt đi. Chồng giật thột tỉnh giấc, sinh bụng ngờ vợ hãm hại mình, bèn tri hô. Sùng ông Sùng bà trong buồng chạy ra, gán ngay cho thị tội sát chồng hòng kiếm nàng dâu con nhà phú quý hơn. Thị Kính bị đánh mắng rồi đuổi về với cha mẹ, phẫn chí mới giả trai xin vào chùa Vân tu hành, được ban [[pháp danh]] Kính Tâm.
{{div col|colwidth=18em}}
 
 
#Phật tổ
 
#Phật tổ
 
#Thị Kính
 
#Thị Kính
Dòng 48: Dòng 24:
 
#Sùng ông
 
#Sùng ông
 
#Sùng bà
 
#Sùng bà
{{div col end}}
 
 
* '''Hồi II :''' Thị Kính phải oán lần hai và hoàn tục (câu 371→692)
 
* '''Hồi II :''' Thị Kính phải oán lần hai và hoàn tục (câu 371→692)
 
Vùng ấy có ả Thị Mầu con phú ông sẵn tính lẳng lơ. Một hôm đội oản lên chùa, Mầu nom tiểu Kính Tâm rồi thốt mê, nhưng dầu ả ra sức ghẹo mà sư vẫn làm ngơ. Vì đưa tình không được, ả sinh quẫn, mới mắc tội hủ hóa với thằng nô. Việc đến tai hào lý, làng bèn điệu Mầu ra đình tra khảo, cũng để lấy cái phần bắt vạ ăn khoán. Nhân đấy, ả đổ riệt cho tiểu Kính Tâm. Kính Tâm bị chức dịch phạt đòn, ép phải nuôi lấy đứa con rơi. Sư cụ vì sợ điều tiếng mà đuổi Kính Tâm khỏi tam quan.
 
Vùng ấy có ả Thị Mầu con phú ông sẵn tính lẳng lơ. Một hôm đội oản lên chùa, Mầu nom tiểu Kính Tâm rồi thốt mê, nhưng dầu ả ra sức ghẹo mà sư vẫn làm ngơ. Vì đưa tình không được, ả sinh quẫn, mới mắc tội hủ hóa với thằng nô. Việc đến tai hào lý, làng bèn điệu Mầu ra đình tra khảo, cũng để lấy cái phần bắt vạ ăn khoán. Nhân đấy, ả đổ riệt cho tiểu Kính Tâm. Kính Tâm bị chức dịch phạt đòn, ép phải nuôi lấy đứa con rơi. Sư cụ vì sợ điều tiếng mà đuổi Kính Tâm khỏi tam quan.
{{div col|colwidth=18em}}
 
 
#Tiểu Kính Tâm
 
#Tiểu Kính Tâm
 
#Thị Mầu
 
#Thị Mầu
Dòng 62: Dòng 36:
 
#Hương câm
 
#Hương câm
 
#Sư cụ
 
#Sư cụ
{{div col end}}
 
 
* '''Hồi III :''' Thị Kính tẩy oán và hóa kiếp (câu 693→786)
 
* '''Hồi III :''' Thị Kính tẩy oán và hóa kiếp (câu 693→786)
 
Đẻ được đứa con trai xong, Thị Mầu đem vứt trước cổng chùa. Tiểu Kính Tâm nhận về nuôi, hàng ngày đi xin sữa cho nó ăn. Được ba năm khi đứa trẻ chập chững, Kính Tâm lao lực quá mà mất, lúc hấp hối còn kịp để một bức thư cho cha mẹ. Xem thư, người nhà mới hay những oan khiên, bèn xin chùa lập đàn chay cầu đảo. Lúc liệm thi hài, tăng ni mới vỡ lẽ Kính Tâm là phận gái. Đức [[Thích Ca]] xét Kính Tâm đã tu thành chính quả, bèn cho siêu thăng làm Quan Âm, tục gọi ''Quan-âm Thị-Kính''.
 
Đẻ được đứa con trai xong, Thị Mầu đem vứt trước cổng chùa. Tiểu Kính Tâm nhận về nuôi, hàng ngày đi xin sữa cho nó ăn. Được ba năm khi đứa trẻ chập chững, Kính Tâm lao lực quá mà mất, lúc hấp hối còn kịp để một bức thư cho cha mẹ. Xem thư, người nhà mới hay những oan khiên, bèn xin chùa lập đàn chay cầu đảo. Lúc liệm thi hài, tăng ni mới vỡ lẽ Kính Tâm là phận gái. Đức [[Thích Ca]] xét Kính Tâm đã tu thành chính quả, bèn cho siêu thăng làm Quan Âm, tục gọi ''Quan-âm Thị-Kính''.
{{div col|colwidth=18em}}
 
 
#Tiểu Kính Tâm
 
#Tiểu Kính Tâm
 
#Thị Mầu
 
#Thị Mầu
Dòng 72: Dòng 44:
 
#Phật tổ
 
#Phật tổ
 
#Đứa bé
 
#Đứa bé
{{div col end}}
 
 
==Ảnh hưởng==
 
==Ảnh hưởng==
 
===Tục bản===
 
===Tục bản===
 +
[[Hình:VoCheoQuanamThiKinh.jpg|nhỏ|trái|222px|Chèo ''Quan Âm Thị Kính'' do soạn giả [[Vũ Khắc Khoan]] hiệu đính, diễn tại [[Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ]] [[Sài Gòn]] năm 1972.]]
 
''Quan Âm Thị Kính'' vốn thuộc nhóm tác phẩm được soạn cho mục đích biểu diễn [[sân khấu]], nhưng do điều kiện xã hội [[Việt Nam]] từ [[Pháp thuộc]] về trước chưa có điều kiện dàn dựng [[sân khấu]] quy mô lớn, nên các nhà trò thường chỉ chọn diễn vài phân cảnh hoặc thuần túy là màn độc thoại của nhân vật nào<ref>Trong quá trình lưu hành, ở một số vùng, người ta tự ý sửa lại truyện Quan Âm Thị Kính. Ngày nay còn có thể tìm thấy một số dị bản, thậm chí có bản viết mới lại hoàn toàn như ''Truyện Thị Kính'' ở [[Nghệ An|Nghệ]]-[[Hà Tĩnh|Tĩnh]], và tiêu biểu hơn cả là vở chèo cổ ''Quan Âm Thị Kính''...</ref>. Mãi đến [[thập niên 1950]], trong bối cảnh [[nghệ thuật]] [[sân khấu]] được đặt lên hàng ưu tiên phát triển [[văn hóa]] cấp quốc gia, mới có các đoàn [[nghệ thuật]] tại địa phận [[Việt Nam Cộng hòa]] dựng nguyên tuồng, ghép thêm lời nhạc và giai điệu cách tân. Đặc biệt, vở [[chèo]] ''Oan bà Thị Kính'' của ban Phụng Minh được [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|chính phủ]] thâu [[băng từ|băng]] phát cho các đại sứ quán hải ngoại làm quà đãi khách quốc tế và quảng bá [[văn hóa]] cổ truyền. Tại [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], [[thập niên 1960]], lão [[nghệ sĩ]] [[Trùm Thịnh]] đã gia công chắp các tích trò và câu ca phổ biến nhất thành vở [[chèo]] ''Quan Âm Thị Kính'' hoàn chỉnh. Ngay sau đó, [[Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội|trường Ca kịch Dân tộc]] đưa vở này cùng vở ''[[Tấm Cám]]'' vào giáo trình, buộc mọi sinh viên ban [[chèo]] phải biết diễn xuất trước khi thành nghề.
 
''Quan Âm Thị Kính'' vốn thuộc nhóm tác phẩm được soạn cho mục đích biểu diễn [[sân khấu]], nhưng do điều kiện xã hội [[Việt Nam]] từ [[Pháp thuộc]] về trước chưa có điều kiện dàn dựng [[sân khấu]] quy mô lớn, nên các nhà trò thường chỉ chọn diễn vài phân cảnh hoặc thuần túy là màn độc thoại của nhân vật nào<ref>Trong quá trình lưu hành, ở một số vùng, người ta tự ý sửa lại truyện Quan Âm Thị Kính. Ngày nay còn có thể tìm thấy một số dị bản, thậm chí có bản viết mới lại hoàn toàn như ''Truyện Thị Kính'' ở [[Nghệ An|Nghệ]]-[[Hà Tĩnh|Tĩnh]], và tiêu biểu hơn cả là vở chèo cổ ''Quan Âm Thị Kính''...</ref>. Mãi đến [[thập niên 1950]], trong bối cảnh [[nghệ thuật]] [[sân khấu]] được đặt lên hàng ưu tiên phát triển [[văn hóa]] cấp quốc gia, mới có các đoàn [[nghệ thuật]] tại địa phận [[Việt Nam Cộng hòa]] dựng nguyên tuồng, ghép thêm lời nhạc và giai điệu cách tân. Đặc biệt, vở [[chèo]] ''Oan bà Thị Kính'' của ban Phụng Minh được [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|chính phủ]] thâu [[băng từ|băng]] phát cho các đại sứ quán hải ngoại làm quà đãi khách quốc tế và quảng bá [[văn hóa]] cổ truyền. Tại [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], [[thập niên 1960]], lão [[nghệ sĩ]] [[Trùm Thịnh]] đã gia công chắp các tích trò và câu ca phổ biến nhất thành vở [[chèo]] ''Quan Âm Thị Kính'' hoàn chỉnh. Ngay sau đó, [[Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội|trường Ca kịch Dân tộc]] đưa vở này cùng vở ''[[Tấm Cám]]'' vào giáo trình, buộc mọi sinh viên ban [[chèo]] phải biết diễn xuất trước khi thành nghề.
  
Dòng 90: Dòng 62:
 
*GS. [[Nguyễn Huệ Chi]] :
 
*GS. [[Nguyễn Huệ Chi]] :
 
:Nhân vật Thị Kính từ lâu đã trở thành một điển hình sắc sảo cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, nơi tập trung chồng chất mọi nỗi bất công, oan nghiệt. Và thông qua cuộc đời Thị Kính, bức tranh ngang trái đầy mâu thuẫn của xã hội phong kiến thời tác giả sống, hiện lên thật rõ nét...
 
:Nhân vật Thị Kính từ lâu đã trở thành một điển hình sắc sảo cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, nơi tập trung chồng chất mọi nỗi bất công, oan nghiệt. Và thông qua cuộc đời Thị Kính, bức tranh ngang trái đầy mâu thuẫn của xã hội phong kiến thời tác giả sống, hiện lên thật rõ nét...
:Thêm vào đó, bút pháp viết truyện của tác giả thật già dặn, lời thơ nhiều chỗ điêu luyện, chải chuốt (châm biếm hóm hỉnh, như khi nói về Thị Mầu ; dồi dào cảm xúc như khi nói về cái chết của Thị Kính) nên càng tăng sức phổ biến của tác phẩm (câu thành ngữ "Oan như Thị Kính" quen thuộc của người Việt đã chứng tỏ sức sống của câu chuyện)...Tuy nhiên, triết lý "nhẫn nhục" cũng đã làm cho truyện thiếu đi một sức phản kháng cần thiết.<ref>Lược theo Nguyễn Huệ Chi, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1473.</ref>
+
:Thêm vào đó, bút pháp viết truyện của tác giả thật già dặn, lời thơ nhiều chỗ điêu luyện, chải chuốt (châm biếm hóm hỉnh, như khi nói về Thị Mầu; dồi dào cảm xúc như khi nói về cái chết của Thị Kính) nên càng tăng sức phổ biến của tác phẩm (câu thành ngữ "Oan như Thị Kính" quen thuộc của người Việt đã chứng tỏ sức sống của câu chuyện)...Tuy nhiên, triết lý "nhẫn nhục" cũng đã làm cho truyện thiếu đi một sức phản kháng cần thiết.<ref>Lược theo Nguyễn Huệ Chi, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 1473.</ref>
 
*GS. [[Thanh Lãng]] :
 
*GS. [[Thanh Lãng]] :
 
:Tư tưởng trong ''Quan Âm Thị Kính'' là tư tưởng [[Phật giáo]]. Đời là một bể khổ mà mỗi người là một con thuyền vô trạo, một cánh bèo trôi giạt ở bến mê. Đời Thị Kính là một thí dụ. Đời buồn là thế, chúng sinh muốn hết khổ thì phải tìm đến con đường tu hành. Do vậy, luân lý của truyện có thể tóm lại ở câu :
 
:Tư tưởng trong ''Quan Âm Thị Kính'' là tư tưởng [[Phật giáo]]. Đời là một bể khổ mà mỗi người là một con thuyền vô trạo, một cánh bèo trôi giạt ở bến mê. Đời Thị Kính là một thí dụ. Đời buồn là thế, chúng sinh muốn hết khổ thì phải tìm đến con đường tu hành. Do vậy, luân lý của truyện có thể tóm lại ở câu :
Dòng 102: Dòng 74:
 
:Ngoài ra ở truyện, ta cũng có thể nhận ra cái thuyết "tài sắc phong trần". Thị Kính bị oan ức, bị quấy rầy, chẳng qua vì nàng có tài sắc hơn người :
 
:Ngoài ra ở truyện, ta cũng có thể nhận ra cái thuyết "tài sắc phong trần". Thị Kính bị oan ức, bị quấy rầy, chẳng qua vì nàng có tài sắc hơn người :
 
:''Trời sinh tài sắc làm chi,
 
:''Trời sinh tài sắc làm chi,
:''Hoa thơm bướm cũng có khi bận lòng.
+
:''Hoa thơm bướm cũng có khi bận lòng...
 
:Về hình thức, tình tiết truyện có chỗ gò ép, như việc hiểu lầm của Thiện Sĩ, đã gây ra cái oan thứ nhất. Cái oan thứ hai với Thị Mầu được xây dựng khéo hơn... Văn của truyện thường mộc mạc, giản dị, chịu ảnh hưởng của văn [[Truyện Kiều|Kiều]].<ref>Lược theo [[Phạm Thế Ngũ]], ''Việt Nam văn học sử giản ước tân biên'' (Quyển Trung), tr. 315-316.</ref>
 
:Về hình thức, tình tiết truyện có chỗ gò ép, như việc hiểu lầm của Thiện Sĩ, đã gây ra cái oan thứ nhất. Cái oan thứ hai với Thị Mầu được xây dựng khéo hơn... Văn của truyện thường mộc mạc, giản dị, chịu ảnh hưởng của văn [[Truyện Kiều|Kiều]].<ref>Lược theo [[Phạm Thế Ngũ]], ''Việt Nam văn học sử giản ước tân biên'' (Quyển Trung), tr. 315-316.</ref>
==Tham khảo==
+
==Xem thêm==
 
* [[Tắt lửa lòng]]
 
* [[Tắt lửa lòng]]
 
* [[Đoạn trường tân thanh]]
 
* [[Đoạn trường tân thanh]]
==Liên kết==
+
==Tham khảo==
{{reflist|4}}
+
<references/>
 
===Tài liệu===
 
===Tài liệu===
* [[Dương Quảng Hàm]], ''Việt Nam thi văn hợp tuyển'' (mục "Quan Âm Thị Kính"). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968.
+
*[[Dương Quảng Hàm]], ''Việt Nam thi văn hợp tuyển'' (mục "Quan Âm Thị Kính"). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968.
* [[Nguyễn Huệ Chi]], mục từ "Quan Âm tân truyện" trong ''Từ điển văn học'' (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
+
*[[Nguyễn Huệ Chi]], mục từ "Quan Âm tân truyện" trong ''Từ điển văn học'' (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
* [[Thanh Lãng]], ''Bảng lược đồ văn học Việt Nam'' (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
+
*[[Thanh Lãng]], ''Bảng lược đồ văn học Việt Nam'' (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
* [[Phạm Thế Ngũ]], ''Việt Nam văn học sử giản ước tân biên'' (Quyển Trung, đề mục "Truyện Quan Âm Thị Kính"), Quốc học tùng thư, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
+
*[[Phạm Thế Ngũ]], ''Việt Nam văn học sử giản ước tân biên'' (Quyển Trung, đề mục "Truyện Quan Âm Thị Kính"), Quốc học tùng thư, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
* [[Trịnh Vân Thanh]], ''Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển'' (Quyển Hạ), mục từ "Thị Kính". Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1967.
+
*Trịnh Vân Thanh, ''Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển'' (Quyển Hạ), mục từ "Thị Kính". Nhà xuất bản Hồn thiêng, Sài Gòn, 1967.
 
===Tư liệu===
 
===Tư liệu===
 
* [https://www.chuahoangphap.com.vn/tin-tuc/chi-tiet-quan-am-thi-kinh-475/ Tư vấn tác phẩm Quan Âm Thị Kính]
 
* [https://www.chuahoangphap.com.vn/tin-tuc/chi-tiet-quan-am-thi-kinh-475/ Tư vấn tác phẩm Quan Âm Thị Kính]
Dòng 120: Dòng 92:
 
[[Thể loại:Sử thi Việt Nam]]
 
[[Thể loại:Sử thi Việt Nam]]
 
[[Thể loại:Soạn phẩm sân khấu Việt Nam]]
 
[[Thể loại:Soạn phẩm sân khấu Việt Nam]]
[[Thể loại:Văn học trung đại]]
 
[[Thể loại:Phật tích]]
 

Lưu ý rằng tất cả các đóng góp của bạn tại Bách khoa Toàn thư Việt Nam sẽ được phát hành theo giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự (xem thêm Bản quyền). Nếu bạn không muốn những gì mình viết ra sẽ có thể được bình duyệt và có thể bị sửa đổi, và không sẵn lòng cho phép phát hành lại, xin đừng nhấn nút “Lưu trang”. Đảm bảo rằng chính bạn là tác giả của những gì mình viết ra, hoặc chép nó từ một nguồn thuộc phạm vi công cộng hoặc tự do tương đương. ĐỪNG ĐĂNG NỘI DUNG CÓ BẢN QUYỀN MÀ CHƯA XIN PHÉP!

Hủy bỏ Trợ giúp sửa đổi (mở cửa sổ mới)