Sửa đổi Biển Aral
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 2: | Dòng 2: | ||
[[File:AralSea1989 2014.jpg|thumb|Biển Aral năm 1989 (trái) và 2014 (phải)]] | [[File:AralSea1989 2014.jpg|thumb|Biển Aral năm 1989 (trái) và 2014 (phải)]] | ||
[[File:Aral_Sea.gif|thumb|Quá trình thu hẹp của biển Aral từ năm 1960]] | [[File:Aral_Sea.gif|thumb|Quá trình thu hẹp của biển Aral từ năm 1960]] | ||
− | '''Biển Aral''' là một hồ nước mặn nằm ở biên giới giữa [[Uzbekistan]] và [[Kazakhstan]].<ref name="Izhitskiy">{{cite journal | last1 = Izhitskiy | first1 = A. S. | last2 = Zavialov | first2 = P. O. | last3 = Sapozhnikov | first3 = P. V. | last4 = Kirillin | first4 = G. B. | last5 = Grossart | first5 = H. P. | last6 = Kalinina | first6 = O. Y. | last7 = Zalota | first7 = A. K. | last8 = Goncharenko | first8 = I. V. | last9 = Kurbaniyazov | first9 = A. K. | title = Present state of the Aral Sea: diverging physical and biological characteristics of the residual basins | journal = Scientific Reports | date = April 2016 | volume = 6 | issue = 1 | doi = 10.1038/srep23906 | pmid = 27032513 | pmc = 4817148 | s2cid = 19049595 | doi-access = free}}</ref> Vào trước những năm 1960, biển này có diện tích 68.000 km<sup>2</sup>, là | + | '''Biển Aral''' là một hồ nước mặn nằm ở biên giới giữa [[Uzbekistan]] và [[Kazakhstan]].<ref name="Izhitskiy">{{cite journal | last1 = Izhitskiy | first1 = A. S. | last2 = Zavialov | first2 = P. O. | last3 = Sapozhnikov | first3 = P. V. | last4 = Kirillin | first4 = G. B. | last5 = Grossart | first5 = H. P. | last6 = Kalinina | first6 = O. Y. | last7 = Zalota | first7 = A. K. | last8 = Goncharenko | first8 = I. V. | last9 = Kurbaniyazov | first9 = A. K. | title = Present state of the Aral Sea: diverging physical and biological characteristics of the residual basins | journal = Scientific Reports | date = April 2016 | volume = 6 | issue = 1 | doi = 10.1038/srep23906 | pmid = 27032513 | pmc = 4817148 | s2cid = 19049595 | doi-access = free}}</ref> Vào trước những năm 1960, biển này có diện tích 68.000 km<sup>2</sup>, là khối nước nội địa lớn thứ tư trên thế giới.<ref name="Izhitskiy"/><ref name="Gaybullaev">{{cite journal | last1 = Gaybullaev | first1 = Behzod | last2 = Chen | first2 = Su-Chin | last3 = Gaybullaev | first3 = Dilmurod | title = Changes in water volume of the Aral Sea after 1960 | journal = Applied Water Science | date = 17 June 2012 | volume = 2 | issue = 4 | pages = 285–291 | doi = 10.1007/s13201-012-0048-z | s2cid = 129498432 | bibcode = 2012ApWS....2..285G | doi-access = free}}</ref> Tên gọi ''Aral'' trong [[tiếng Kazakh]] có nghĩa là "đảo".<ref name="Kumar">{{cite journal | last1 = Kumar | first1 = Rama Sampath | date = 14 September 1992 | title = Aral Sea: Environmental Tragedy in Central Asia | journal = Economic and Political Weekly | volume = 37 | issue = 37 | pages = 3797–3802 | jstor = 4412601}}</ref> Mặc dù gọi là ''biển'' nhưng đây thực chất là hồ tận cùng được cấp nước bởi hai con sông Syr Darya ở phía bắc và Amu Darya ở phía nam.<ref name="Kumar"/> Từ giữa thế kỷ 17 cho đến thập niên 1960, lượng nước của biển Aral được duy trì ổn định với dao động mực nước không quá 4,5 m.<ref name="Micklin">{{cite journal | last1 = Micklin | first1 = Philip | title = The past, present, and future Aral Sea | journal = Lakes & Reservoirs: Science, Policy and Management for Sustainable Use | date = September 2010 | volume = 15 | issue = 3 | pages = 193–213 | doi = 10.1111/j.1440-1770.2010.00437.x | s2cid = 83530420}}</ref> |
Biển Aral hình thành muộn nhất vào khoảng 17.600 năm trước trong [[Pleistocen Muộn]].<ref name="Burr">{{cite journal | last1 = Burr | first1 = G.S. | last2 = Kuzmin | first2 = Y.V. | last3 = Krivonogov | first3 = S.K. | last4 = Gusskov | first4 = S.A. | last5 = Cruz | first5 = R.J. | title = A history of the modern Aral Sea (Central Asia) since the Late Pleistocene | journal = Quaternary Science Reviews | date = February 2019 | volume = 206 | pages = 141–149 | doi = 10.1016/j.quascirev.2019.01.006 | s2cid = 134904948}}</ref> Thời điểm 11.700 năm trước đã diễn ra sự trình đổi dòng của [[sông Amu Darya]] từ [[biển Caspi]] sang biển Aral. Từ đó, hai dòng sông này đã duy trì mực nước ổn định cho biển Aral đến những năm 1960. Biển Aral có khí hậu lục địa sa mạc, với biên độ nhiệt ban ngày lớn, mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 100 mm, xảy ra chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu. Gió tây bắc chiếm ưu thế vào mùa thu và mùa đông. Gió tây và tây nam thống trị trong mùa xuân và mùa hè. | Biển Aral hình thành muộn nhất vào khoảng 17.600 năm trước trong [[Pleistocen Muộn]].<ref name="Burr">{{cite journal | last1 = Burr | first1 = G.S. | last2 = Kuzmin | first2 = Y.V. | last3 = Krivonogov | first3 = S.K. | last4 = Gusskov | first4 = S.A. | last5 = Cruz | first5 = R.J. | title = A history of the modern Aral Sea (Central Asia) since the Late Pleistocene | journal = Quaternary Science Reviews | date = February 2019 | volume = 206 | pages = 141–149 | doi = 10.1016/j.quascirev.2019.01.006 | s2cid = 134904948}}</ref> Thời điểm 11.700 năm trước đã diễn ra sự trình đổi dòng của [[sông Amu Darya]] từ [[biển Caspi]] sang biển Aral. Từ đó, hai dòng sông này đã duy trì mực nước ổn định cho biển Aral đến những năm 1960. Biển Aral có khí hậu lục địa sa mạc, với biên độ nhiệt ban ngày lớn, mùa đông lạnh và mùa hè nóng. Lượng mưa trung bình năm chỉ khoảng 100 mm, xảy ra chủ yếu vào mùa xuân và mùa thu. Gió tây bắc chiếm ưu thế vào mùa thu và mùa đông. Gió tây và tây nam thống trị trong mùa xuân và mùa hè. | ||
Dòng 12: | Dòng 12: | ||
Vào cuối thế kỷ 20, biển Aral đã rút xuống và hình thành ba hồ riêng biệt, biển Aral Lớn chia thành một hồ dài và hẹp ở phía tây cùng một hồ rộng hơn ở phía đông; và phần còn lại của biển Aral Nhỏ ở phía bắc. Mực nước đã giảm xuống còn 36 m so với mực nước biển. Lượng nước biển đã giảm đi 3/4 so với mức năm 1960. Biển Aral hầu như không nhận được lượng nước nào từ sông Amu Darya và sông Syr Darya. Vào đầu thế kỷ 21, phần phía đông của biển Aral đã bị suy giảm nghiêm trọng và rất nhanh chóng. Phần biển này đã bị giảm đi 4/5 diện tích chỉ trong vòng 3 năm (2006–2009). Trước tình hình đó, [[Ngân hàng Thế giới]] đã tài trợ cho việc xây dựng đập Kok-Aral (hoàn thành vào năm 2005) và các dự án trên sông Syr Darya để bảo tồn phần phía bắc của biển. Tuy nhiên, phần phía nam của cả khu vực phía đông và phía tây, đặc biệt là khu vực phía đông vẫn tiếp tục co lại, mặc dù được cấp một lượng nước từ phía bắc. Cuối cùng, khu vực phía đông của biển Aral đã bị khô hạn hoàn toàn sau năm 2010. | Vào cuối thế kỷ 20, biển Aral đã rút xuống và hình thành ba hồ riêng biệt, biển Aral Lớn chia thành một hồ dài và hẹp ở phía tây cùng một hồ rộng hơn ở phía đông; và phần còn lại của biển Aral Nhỏ ở phía bắc. Mực nước đã giảm xuống còn 36 m so với mực nước biển. Lượng nước biển đã giảm đi 3/4 so với mức năm 1960. Biển Aral hầu như không nhận được lượng nước nào từ sông Amu Darya và sông Syr Darya. Vào đầu thế kỷ 21, phần phía đông của biển Aral đã bị suy giảm nghiêm trọng và rất nhanh chóng. Phần biển này đã bị giảm đi 4/5 diện tích chỉ trong vòng 3 năm (2006–2009). Trước tình hình đó, [[Ngân hàng Thế giới]] đã tài trợ cho việc xây dựng đập Kok-Aral (hoàn thành vào năm 2005) và các dự án trên sông Syr Darya để bảo tồn phần phía bắc của biển. Tuy nhiên, phần phía nam của cả khu vực phía đông và phía tây, đặc biệt là khu vực phía đông vẫn tiếp tục co lại, mặc dù được cấp một lượng nước từ phía bắc. Cuối cùng, khu vực phía đông của biển Aral đã bị khô hạn hoàn toàn sau năm 2010. | ||
− | Sự thu hẹp nhanh chóng của biển Aral dẫn đến những hậu quả nghiệm trọng về môi trường sinh thái. Hàm lượng muối và khoáng chất tăng mạnh đến mức có thể giết chết nguồn lợi thủy sản và không còn thích hợp cho sinh hoạt. Một diện tích đáng kể của vùng đáy biển đã biến thành đầm lầy rồi sau thành sa mạc. Nghề cá ở biển Aral gần như đã bị phá sản. Các cảng ở phía đông bắc và phía nam ngày càng lùi xa vùng bờ. Khí hậu địa phương trở nên khắc nghiệt hơn. Chi phí y tế của người dân sống trong khu vực tăng mạnh, nhất là đối với cư dân ở phần phía nam. Những cơn gió thổi qua đáy biển lộ ra đã khiến cho khu vực này bị bụi độc hại, nhiễm muối, phân bón và thuốc trừ sâu. Hậu quả là dân cư tại khu vực này bị mắc bệnh ung thư vòm họng, bệnh thiếu máu và bệnh thận với tỷ lệ cao bất thường. | + | Sự thu hẹp nhanh chóng của biển Aral dẫn đến những hậu quả nghiệm trọng về môi trường sinh thái. Đến cuối thập kỷ 1980, lượng nước của biển đã giảm hơn một nửa so với mức năm 1960. Hàm lượng muối và khoáng chất tăng mạnh đến mức có thể giết chết nguồn lợi thủy sản và không còn thích hợp cho sinh hoạt. Một diện tích đáng kể của vùng đáy biển đã biến thành đầm lầy rồi sau thành sa mạc. Nghề cá ở biển Aral gần như đã bị phá sản. Các cảng ở phía đông bắc và phía nam ngày càng lùi xa vùng bờ. Khí hậu địa phương trở nên khắc nghiệt hơn. Chi phí y tế của người dân sống trong khu vực tăng mạnh, nhất là đối với cư dân ở phần phía nam. Những cơn gió thổi qua đáy biển lộ ra đã khiến cho khu vực này bị bụi độc hại, nhiễm muối, phân bón và thuốc trừ sâu. Hậu quả là dân cư tại khu vực này bị mắc bệnh ung thư vòm họng, bệnh thiếu máu và bệnh thận với tỷ lệ cao bất thường. |
Tình cảnh của biển Aral có lẽ là thảm họa môi trường tiêu biểu nhất có nguyên nhân từ phát triển không bền vững.<ref name="Hannan">{{cite journal | last1 = Hannan | first1 = T. | title = A Solution to the Aral Sea Crisis? Sustainable Water Use in Central Asia | journal = Water and Environment Journal | date = June 2000 | volume = 14 | issue = 3 | pages = 213–218 | doi = 10.1111/j.1747-6593.2000.tb00252.x | s2cid = 110151147}}</ref> Cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc [[Ban Ki-moon]] từng phát biểu rằng "đây rõ ràng là một trong những thảm họa môi trường tồi tệ nhất trên hành tinh".<ref>{{cite web | url = https://news.un.org/en/story/2010/04/334402 | title = Shrinking Aral Sea underscores need for urgent action on environment – Ban | date = 4 April 2010 | website = news.un.org | publisher = United Nations | access-date = 15 July 2022 | archive-url = https://web.archive.org/web/20220121034951/https://news.un.org/en/story/2010/04/334402 | archive-date = 21 January 2022 | url-status = live}}</ref> | Tình cảnh của biển Aral có lẽ là thảm họa môi trường tiêu biểu nhất có nguyên nhân từ phát triển không bền vững.<ref name="Hannan">{{cite journal | last1 = Hannan | first1 = T. | title = A Solution to the Aral Sea Crisis? Sustainable Water Use in Central Asia | journal = Water and Environment Journal | date = June 2000 | volume = 14 | issue = 3 | pages = 213–218 | doi = 10.1111/j.1747-6593.2000.tb00252.x | s2cid = 110151147}}</ref> Cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc [[Ban Ki-moon]] từng phát biểu rằng "đây rõ ràng là một trong những thảm họa môi trường tồi tệ nhất trên hành tinh".<ref>{{cite web | url = https://news.un.org/en/story/2010/04/334402 | title = Shrinking Aral Sea underscores need for urgent action on environment – Ban | date = 4 April 2010 | website = news.un.org | publisher = United Nations | access-date = 15 July 2022 | archive-url = https://web.archive.org/web/20220121034951/https://news.un.org/en/story/2010/04/334402 | archive-date = 21 January 2022 | url-status = live}}</ref> |