Sửa đổi Bảo Đại
Chú ý: Bạn chưa đăng nhập và địa chỉ IP của bạn sẽ hiển thị công khai khi lưu các sửa đổi.
Bạn có thể tham gia như người biên soạn chuyên nghiệp và lâu dài ở Bách khoa Toàn thư Việt Nam, bằng cách đăng ký và đăng nhập - IP của bạn sẽ không bị công khai và có thêm nhiều lợi ích khác.
Các sửa đổi có thể được lùi lại. Xin hãy kiểm tra phần so sánh bên dưới để xác nhận lại những gì bạn muốn làm, sau đó lưu thay đổi ở dưới để hoàn tất việc lùi lại sửa đổi.
Bản hiện tại | Nội dung bạn nhập | ||
Dòng 1: | Dòng 1: | ||
{{mới}} | {{mới}} | ||
− | '''Bảo Đại''' ([[Hán văn]] : | + | '''Bảo Đại''' ([[Hán văn]] : 保大, 1913 - 1997) là [[hoàng đế]] thứ 13 và cuối cùng [[triều Nguyễn]], cũng là [[tông chủ]] chính thức sau cùng trong trường kì [[lịch sử Việt Nam]]<ref>[http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?ItemID=26897 Bách khoa toàn thư Việt Nam : Hoàng đế Bảo Đại]</ref>. |
− | + | [[Hình:BaoDaiSignature.svg|phải|345px]] | |
− | [[Hình:BaoDaiSignature.svg|phải| | ||
==Danh hiệu== | ==Danh hiệu== | ||
* Nguyên danh : '''Nguyễn Phước Thiển''' (阮福晪) | * Nguyên danh : '''Nguyễn Phước Thiển''' (阮福晪) | ||
* Biểu tự : '''Vĩnh Thụy''' (永瑞) | * Biểu tự : '''Vĩnh Thụy''' (永瑞) | ||
− | |||
* Ngụy danh : '''mệ Vững''' | * Ngụy danh : '''mệ Vững''' | ||
* Niên hiệu : '''Bảo Đại''' (保大) | * Niên hiệu : '''Bảo Đại''' (保大) | ||
* Tước hiệu : Đại Nam hoàng đế (大南皇帝, Empereur d'Annam), Việt Nam hoàng đế (越南皇帝), Việt Nam quốc trưởng (越南國長) | * Tước hiệu : Đại Nam hoàng đế (大南皇帝, Empereur d'Annam), Việt Nam hoàng đế (越南皇帝), Việt Nam quốc trưởng (越南國長) | ||
− | * Tôn xưng : Sa majesté, hoàng thượng, ngài hoàng, ngài ngự, đức quốc trưởng, đức ngài | + | * Tôn xưng : Sa majesté, hoàng thượng, ngài hoàng, ngài ngự, đức quốc trưởng, đức ngài |
==Sinh bình== | ==Sinh bình== | ||
Ông hoàng Nguyễn Phước Vĩnh Thụy sinh nhằm ngày 23 tháng 09 [[âm lịch]], tức 22 tháng 10 năm 1913 [[Công lịch]], tại thần kinh [[Huế]]. Theo quy ước chưa được xác nhận trong học giới, thân phụ ông là [[hoàng đế]] [[Nguyễn Hoằng Tôn]], còn thân mẫu là một trong hai vị [[Từ Cung hoàng thái hậu|Nhị giai Huệ phi Hoàng thị]] và [[Hồ Thị Chỉ|Nhất giai Ơn phi Hồ thị]]. | Ông hoàng Nguyễn Phước Vĩnh Thụy sinh nhằm ngày 23 tháng 09 [[âm lịch]], tức 22 tháng 10 năm 1913 [[Công lịch]], tại thần kinh [[Huế]]. Theo quy ước chưa được xác nhận trong học giới, thân phụ ông là [[hoàng đế]] [[Nguyễn Hoằng Tôn]], còn thân mẫu là một trong hai vị [[Từ Cung hoàng thái hậu|Nhị giai Huệ phi Hoàng thị]] và [[Hồ Thị Chỉ|Nhất giai Ơn phi Hồ thị]]. | ||
;;'''Hoàng thái tử''' | ;;'''Hoàng thái tử''' | ||
− | Theo hồi kí ''[[Le dragon d'Annam]]'', suốt tuổi thơ, ông bị an trí ở nhà để học nhằm trau dồi [[Tứ thư ngũ kinh|kinh thư]] dưới sự hướng dẫn của phụ hoàng và các thầy [[An Nam]], thỉnh thoảng còn có các thầy [[Pháp]] ở [[Sài Gòn]] ra dạy làm quen với [[Pháp ngữ]]. Ngày 15 tháng 05 năm 1922, ông thọ phong Đông cung Hoàng thái tử, bắt đầu theo cha lâm chính. Tháng 06 năm 1922, ông sang [[Pháp]] học tại Lycée Condorcet, rồi Institut d'Études Politiques, cùng đi có biểu đệ [[Nguyễn Phước Vĩnh Cẩn]]. Còn theo hồi tưởng của giáo sư [[Hoàng Xuân Hãn]], thời kì ở [[Paris]], hoàng thái tử Vĩnh Thụy thường sang nhà ông nhờ | + | Theo hồi kí ''[[Le dragon d'Annam]]'', suốt tuổi thơ, ông bị an trí ở nhà để học nhằm trau dồi [[Tứ thư ngũ kinh|kinh thư]] dưới sự hướng dẫn của phụ hoàng và các thầy [[An Nam]], thỉnh thoảng còn có các thầy [[Pháp]] ở [[Sài Gòn]] ra dạy làm quen với [[Pháp ngữ]]. Ngày 15 tháng 05 năm 1922, ông thọ phong Đông cung Hoàng thái tử, bắt đầu theo cha lâm chính. Tháng 06 năm 1922, ông sang [[Pháp]] học tại Lycée Condorcet, rồi Institut d'Études Politiques, cùng đi có biểu đệ [[Nguyễn Phước Vĩnh Cẩn]]. Còn theo hồi tưởng của giáo sư [[Hoàng Xuân Hãn]], thời kì ở [[Paris]], hoàng thái tử Vĩnh Thụy thường sang nhà ông nhờ phụ đạo môn toán. Trong mấy năm này, [[hoàng đế]] [[Nguyễn Hoằng Tôn|Hoằng Tôn]] thưởng cử người tới đốc học, thi thoảng ngài cũng ghé để kiểm tra học lực trong mỗi chuyến công du. |
Ngày 06 tháng 01 năm 1925, [[Nguyễn Hoằng Tôn|Hoằng Tôn]] [[hoàng đế]] băng, hoàng thái tử Vĩnh Thụy tạm dừng học để hồi hương thọ tang. Qua đúng một năm chịu tang theo điển chế, ngày 08 tháng 01 năm 1926, trữ quân Vĩnh Thụy thọ lễ tấn tôn [[hoàng đế]] tại [[tử cấm thành]], định niên hiệu Bảo Đại, lấy sinh thần làm tiết Vạn Thọ (萬壽節). Tuy nhiên, việc cầm chính vẫn ủy thác Cơ Mật đại thần, ngài ngự trở lại [[Pháp]] học. | Ngày 06 tháng 01 năm 1925, [[Nguyễn Hoằng Tôn|Hoằng Tôn]] [[hoàng đế]] băng, hoàng thái tử Vĩnh Thụy tạm dừng học để hồi hương thọ tang. Qua đúng một năm chịu tang theo điển chế, ngày 08 tháng 01 năm 1926, trữ quân Vĩnh Thụy thọ lễ tấn tôn [[hoàng đế]] tại [[tử cấm thành]], định niên hiệu Bảo Đại, lấy sinh thần làm tiết Vạn Thọ (萬壽節). Tuy nhiên, việc cầm chính vẫn ủy thác Cơ Mật đại thần, ngài ngự trở lại [[Pháp]] học. | ||
;;'''Hoàng đế''' | ;;'''Hoàng đế''' | ||
Ngày 06 tháng 09 năm 1932, Bảo Đại [[hoàng đế]] hồi loan. Ngày 10 tháng 09 cùng năm, ông bắt đầu chấp chính. Trong bối cảnh xã hội [[An Nam]] và cả [[Đông Dương]] chịu ảnh hưởng [[Đại Tiêu Điều]], ông đề xuất những ý tưởng cải cách thể chế trong quyền hạn của mình và hoàng tộc. Các hành động chính trị của Bảo Đại [[hoàng đế]] nhìn chung chỉ thuận lợi trong giai đoạn 1933-9. | Ngày 06 tháng 09 năm 1932, Bảo Đại [[hoàng đế]] hồi loan. Ngày 10 tháng 09 cùng năm, ông bắt đầu chấp chính. Trong bối cảnh xã hội [[An Nam]] và cả [[Đông Dương]] chịu ảnh hưởng [[Đại Tiêu Điều]], ông đề xuất những ý tưởng cải cách thể chế trong quyền hạn của mình và hoàng tộc. Các hành động chính trị của Bảo Đại [[hoàng đế]] nhìn chung chỉ thuận lợi trong giai đoạn 1933-9. | ||
− | |||
− | |||
Kể từ năm 1940, sau khi [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] chuyển quân vào [[Đông Dương]] và buộc [[Đế quốc Thực dân Pháp]] chia quyền, xã hội [[An Nam]] căn bản bước sang thời chiến, mọi hành động chính trị đều dễ gây bất hòa. Bản thân Bảo Đại [[hoàng đế]] cũng nhận áp lực của các lực lượng thân [[Việt Nam quang phục hội|Quang Phục Hội]], vốn chủ trương suy tôn Kì Ngoại hầu [[Nguyễn Phước Cường Để]] thuộc dòng đích hoàng tộc. Tuy nhiên, hai thế lực Nhật và Pháp đều giữ quan điểm trung dung giữa phái bảo hoàng và các lực lượng [[Việt Nam phục quốc đồng minh hội|Đồng Minh Hội]]. | Kể từ năm 1940, sau khi [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] chuyển quân vào [[Đông Dương]] và buộc [[Đế quốc Thực dân Pháp]] chia quyền, xã hội [[An Nam]] căn bản bước sang thời chiến, mọi hành động chính trị đều dễ gây bất hòa. Bản thân Bảo Đại [[hoàng đế]] cũng nhận áp lực của các lực lượng thân [[Việt Nam quang phục hội|Quang Phục Hội]], vốn chủ trương suy tôn Kì Ngoại hầu [[Nguyễn Phước Cường Để]] thuộc dòng đích hoàng tộc. Tuy nhiên, hai thế lực Nhật và Pháp đều giữ quan điểm trung dung giữa phái bảo hoàng và các lực lượng [[Việt Nam phục quốc đồng minh hội|Đồng Minh Hội]]. | ||
{{quote box | {{quote box | ||
− | |quote = ''Cứ theo tình-hình chung trong thiên-hạ, tình-thế riêng cõi Đông-Á, Chính-Phủ Việt-Nam tuyên-bố từ ngày này Hòa-ước Bảo-hộ với nước Pháp bãi-bỏ và nước Nam khôi-phục quyền độc-lập.<br>Nước Việt-Nam sẽ gắng sức tự tiến-triển cho xứng-đáng một quốc-gia độc-lập và theo như lời tuyên-ngôn chung của Đại Đông-Á, đem tài-lực giúp cho cuộc thịnh-vượng chung.<br>Vậy Chính-Phủ Việt-Nam một lòng tin-cậy lòng thành ở Nhật-Bản đế-quốc, quyết chí hợp-tác với nước Nhật, đem hết tài-sản trong nước để cho đạt | + | |quote = ''Cứ theo tình-hình chung trong thiên-hạ, tình-thế riêng cõi Đông-Á, Chính-Phủ Việt-Nam tuyên-bố từ ngày này Hòa-ước Bảo-hộ với nước Pháp bãi-bỏ và nước Nam khôi-phục quyền độc-lập.<br>Nước Việt-Nam sẽ gắng sức tự tiến-triển cho xứng-đáng một quốc-gia độc-lập và theo như lời tuyên-ngôn chung của Đại Đông-Á, đem tài-lực giúp cho cuộc thịnh-vượng chung.<br>Vậy Chính-Phủ Việt-Nam một lòng tin-cậy lòng thành ở Nhật-Bản đế-quốc, quyết chí hợp-tác với nước Nhật, đem hết tài-sản trong nước để cho đạt được mục-đích như trên. Khâm thử !''<br> |
|source = — Ngày 27 tháng 01 năm thứ 20 triều Bảo-Đại<ref>[[Hà Thúc Ký]], ''Sống còn với dân tộc : Hồi ký chính trị'', tr 83, Phương Nghi xuất bản, 2009.</ref> | |source = — Ngày 27 tháng 01 năm thứ 20 triều Bảo-Đại<ref>[[Hà Thúc Ký]], ''Sống còn với dân tộc : Hồi ký chính trị'', tr 83, Phương Nghi xuất bản, 2009.</ref> | ||
|width = 30% | |width = 30% | ||
Dòng 32: | Dòng 28: | ||
Ngày 09 tháng 03 năm 1945, [[Đại Nhật Bản đế quốc lục quân|hoàng quân Nhật Bản]] đảo chính khắp [[Đông Dương]] nhằm loại thế lực [[Pháp]] khỏi kì thế [[Đông Nam Á]]. Sang 11 tháng 03 năm 1945, tại [[Kiến Trung điện]], trước sự chứng kiến của đại sứ Yokoyama Masayuki, tổng lĩnh sự Konagaya Akira và lĩnh sự Watanabe Taizo, cùng sáu vị [[thượng thư]] thuộc [[Cơ Mật viện]], Bảo Đại [[hoàng đế]] đọc đạo dụ ''Tuyên-cáo Việt-nam độc-lập'', nhằm đoạn tuyệt mọi liên đới chính trị [[Việt Nam]] với [[Pháp]], đồng thời căn bản đưa tam kì vào [[Đại Đông Á cộng vinh khuyên]]. Trên danh nghĩa, [[Việt Nam]] tự bấy hoàn toàn độc lập, nhưng thực tế [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản]] vẫn nắm độc quyền chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và ngoại giao, quyền hạn hoàng tộc [[Việt Nam]] chỉ còn ở [[Thừa Thiên]]. Đạo dụ được soạn theo tiêu chí do phía [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản]] đề xuất bằng [[Nhật ngữ]], nhưng khi phiên nghĩa sang [[Việt ngữ]], các thành viên [[Cơ Mật viện]] đã cố ý sửa cho bớt hệ lụy trong trường hợp [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] thất bại trong chiến sự với [[Đồng Minh]]. | Ngày 09 tháng 03 năm 1945, [[Đại Nhật Bản đế quốc lục quân|hoàng quân Nhật Bản]] đảo chính khắp [[Đông Dương]] nhằm loại thế lực [[Pháp]] khỏi kì thế [[Đông Nam Á]]. Sang 11 tháng 03 năm 1945, tại [[Kiến Trung điện]], trước sự chứng kiến của đại sứ Yokoyama Masayuki, tổng lĩnh sự Konagaya Akira và lĩnh sự Watanabe Taizo, cùng sáu vị [[thượng thư]] thuộc [[Cơ Mật viện]], Bảo Đại [[hoàng đế]] đọc đạo dụ ''Tuyên-cáo Việt-nam độc-lập'', nhằm đoạn tuyệt mọi liên đới chính trị [[Việt Nam]] với [[Pháp]], đồng thời căn bản đưa tam kì vào [[Đại Đông Á cộng vinh khuyên]]. Trên danh nghĩa, [[Việt Nam]] tự bấy hoàn toàn độc lập, nhưng thực tế [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản]] vẫn nắm độc quyền chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và ngoại giao, quyền hạn hoàng tộc [[Việt Nam]] chỉ còn ở [[Thừa Thiên]]. Đạo dụ được soạn theo tiêu chí do phía [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản]] đề xuất bằng [[Nhật ngữ]], nhưng khi phiên nghĩa sang [[Việt ngữ]], các thành viên [[Cơ Mật viện]] đã cố ý sửa cho bớt hệ lụy trong trường hợp [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] thất bại trong chiến sự với [[Đồng Minh]]. | ||
− | Thể ý kiến của các vị Cơ Mật đại thần, Bảo Đại [[hoàng đế]] cân nhắc giữa ông cựu [[thượng thư]] [[Ngô Đình Diệm]] | + | Thể ý kiến của các vị Cơ Mật đại thần, Bảo Đại [[hoàng đế]] cân nhắc giữa ông cựu [[thượng thư]] [[Ngô Đình Diệm]] và ông cựu chuyên viên giáo dục [[Trần Trọng Kim]], rồi quyết định mời ông [[Trần Trọng Kim]] ở [[Sài Gòn]] ra nhiệm nội các tổng lý đại thần, tùy nghi lập danh sách tân nội các [[Đế quốc Việt Nam]] - điều chưa hề có trước đó. Từ lúc này, trong các văn kiện chính trị và báo chí đều thay danh xưng ''thần dân'' thành ''quốc dân'' nhằm thể hiện cơ chế lập hiến. Tuy nhiên, trong mấy tháng tiếp theo, sức vận hành của tân chính phủ rất yếu, nhất là khi diễn biến chính trị xã hội ngày càng khốc liệt. |
Ngày 15 tháng 08 năm 1945, [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] tuyên bố đầu hàng [[Đồng Minh]], nội các [[Đế quốc Việt Nam]] lâm nguy. Sang hôm 16, chính phủ phát hiệu triệu toàn thể quốc dân bảo vệ quy chế độc lập theo tinh thần mồng 09 tháng 03. Thông qua ông tổng trưởng Ngoại Giao bộ [[Trần Văn Chương]], Bảo Đại [[hoàng đế]] đề nghị các thành viên [[Đồng Minh]] công nhận 4 chữ ''Việt Nam độc lập'', nhưng không được hồi đáp. | Ngày 15 tháng 08 năm 1945, [[Đại Nhật Bản đế quốc|Nhật Bản đế quốc]] tuyên bố đầu hàng [[Đồng Minh]], nội các [[Đế quốc Việt Nam]] lâm nguy. Sang hôm 16, chính phủ phát hiệu triệu toàn thể quốc dân bảo vệ quy chế độc lập theo tinh thần mồng 09 tháng 03. Thông qua ông tổng trưởng Ngoại Giao bộ [[Trần Văn Chương]], Bảo Đại [[hoàng đế]] đề nghị các thành viên [[Đồng Minh]] công nhận 4 chữ ''Việt Nam độc lập'', nhưng không được hồi đáp. | ||
Dòng 54: | Dòng 50: | ||
Ngày 08 tháng 03 năm 1949, tổng thống [[Pháp]] [[Vincent Auriol]] kí với quốc trưởng Bảo Đại ''Hiệp ước Élysée'', công nhận sự toàn vẹn lĩnh thổ và nền độc lập chính đáng của [[Việt Nam]], nhưng vẫn phải là thành viên [[Liên hiệp Pháp]]. Ngày 22 tháng 05, chính phủ [[Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ]] giải thể không tuyên bố, lĩnh thổ tự gia nhập [[Quốc gia Việt Nam]]. Từ lúc này, [[Cộng hòa Pháp]] chỉ nắm tài chính và quân sự trên lĩnh thổ [[Việt Nam]], đồng thời các lực lượng [[Việt Minh]] bị coi phi pháp. Tuy nhiên, trong các cuộc bố ráp [[Việt Minh]], lực lượng võ trang [[Quốc gia Việt Nam]] chỉ tham chiến dưới hình thức liên quân Pháp-Việt hoặc đôi khi quân lực viễn chinh Pháp để tránh tai tiếng "người Việt đánh người Việt", thông thường lực lượng này chỉ giữ vị trí bảo quốc an dân. | Ngày 08 tháng 03 năm 1949, tổng thống [[Pháp]] [[Vincent Auriol]] kí với quốc trưởng Bảo Đại ''Hiệp ước Élysée'', công nhận sự toàn vẹn lĩnh thổ và nền độc lập chính đáng của [[Việt Nam]], nhưng vẫn phải là thành viên [[Liên hiệp Pháp]]. Ngày 22 tháng 05, chính phủ [[Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ]] giải thể không tuyên bố, lĩnh thổ tự gia nhập [[Quốc gia Việt Nam]]. Từ lúc này, [[Cộng hòa Pháp]] chỉ nắm tài chính và quân sự trên lĩnh thổ [[Việt Nam]], đồng thời các lực lượng [[Việt Minh]] bị coi phi pháp. Tuy nhiên, trong các cuộc bố ráp [[Việt Minh]], lực lượng võ trang [[Quốc gia Việt Nam]] chỉ tham chiến dưới hình thức liên quân Pháp-Việt hoặc đôi khi quân lực viễn chinh Pháp để tránh tai tiếng "người Việt đánh người Việt", thông thường lực lượng này chỉ giữ vị trí bảo quốc an dân. | ||
− | Ngày 24 tháng 04 năm | + | Ngày 24 tháng 04 năm 1939, quốc trưởng Bảo Đại từ [[Pháp]] chính thức hồi loan, tạm kiêm nhiệm quốc trưởng và thủ tưởng để chờ tuyển cử nội các. Ngày 01 tháng 07, [[Chính phủ Trung ương Lâm thời Quốc gia Việt Nam]] chính thức thành lập theo sắc lệnh 01-CP với quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng [[Nguyễn Văn Xuân]]. Ngày 26 tháng 10 cùng năm, tại [[Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh|dinh Gia Long]], quốc trưởng Bảo Đại đọc bản ''Tuyên bố thành lập Quốc gia Việt Nam'' và tái khẳng định sự liên minh quốc phòng chặt chẽ với [[Cộng hòa Pháp]]. |
− | + | ||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
− | |||
Trong giai đoạn 1950-3, nội các [[Quốc gia Việt Nam]] liên tục thay ghế [[thủ tướng]] giữa bối cảnh cán cân chiến sự dần nghiêng về [[Việt Minh]]. Ngoại trừ một lần về [[Huế]] viếng tông miếu, quốc trưởng Bảo Đại đặt ngự dinh tại [[Đà Lạt]], mà theo các cứ liệu đương thời, ông từng ngỏ ý định hẳn quốc đô tại đây. Các cuộc họp nội các và quốc hội vẫn tiến hành tại thủ đô [[Sài Gòn]], nhưng khi xảy ra vấn đề tế nhị và cấp bách, hội đồng bộ trưởng phải tới [[Đà Lạt]] họp với đức quốc trưởng. | Trong giai đoạn 1950-3, nội các [[Quốc gia Việt Nam]] liên tục thay ghế [[thủ tướng]] giữa bối cảnh cán cân chiến sự dần nghiêng về [[Việt Minh]]. Ngoại trừ một lần về [[Huế]] viếng tông miếu, quốc trưởng Bảo Đại đặt ngự dinh tại [[Đà Lạt]], mà theo các cứ liệu đương thời, ông từng ngỏ ý định hẳn quốc đô tại đây. Các cuộc họp nội các và quốc hội vẫn tiến hành tại thủ đô [[Sài Gòn]], nhưng khi xảy ra vấn đề tế nhị và cấp bách, hội đồng bộ trưởng phải tới [[Đà Lạt]] họp với đức quốc trưởng. | ||
Ngày 07 tháng 05 năm 1954, [[chiến dịch Điện Biên Phủ]] kết thúc đầy chấn động. Phe [[Việt Minh]] tuyên bố toàn thắng, tập đoàn quân [[Pháp]] tại phân khu Tây Bắc và cả Bắc Bộ phá sản. Do tình thế đã rất ngặt, ngày 04 tháng 06 năm 1954, thủ tướng [[Pháp]] [[Joseph Laniel]] phải kí với thủ tướng [[Quốc gia Việt Nam]] [[Nguyễn Phước Bửu Lộc]] ''Hiệp ước Matignon'', hoàn toàn công nhận [[Việt Nam]] độc lập và qua đó giải thể vĩnh viễn quy chế [[Liên bang Đông Dương]]. Từ thời điểm này, [[Quốc gia Việt Nam]] hoàn toàn tự quyết trên lĩnh thổ [[Việt Nam]]. Mặc dù quân lực [[Pháp]] còn hiện diện nhưng chính thể [[Quốc gia Việt Nam]] vẫn ra sức tránh đối kháng quân sự trực tiếp với phe [[Việt Minh]]. | Ngày 07 tháng 05 năm 1954, [[chiến dịch Điện Biên Phủ]] kết thúc đầy chấn động. Phe [[Việt Minh]] tuyên bố toàn thắng, tập đoàn quân [[Pháp]] tại phân khu Tây Bắc và cả Bắc Bộ phá sản. Do tình thế đã rất ngặt, ngày 04 tháng 06 năm 1954, thủ tướng [[Pháp]] [[Joseph Laniel]] phải kí với thủ tướng [[Quốc gia Việt Nam]] [[Nguyễn Phước Bửu Lộc]] ''Hiệp ước Matignon'', hoàn toàn công nhận [[Việt Nam]] độc lập và qua đó giải thể vĩnh viễn quy chế [[Liên bang Đông Dương]]. Từ thời điểm này, [[Quốc gia Việt Nam]] hoàn toàn tự quyết trên lĩnh thổ [[Việt Nam]]. Mặc dù quân lực [[Pháp]] còn hiện diện nhưng chính thể [[Quốc gia Việt Nam]] vẫn ra sức tránh đối kháng quân sự trực tiếp với phe [[Việt Minh]]. | ||
− | Ngày 16 tháng 06 năm 1954, ông [[Nguyễn Phước Bửu Lộc|Bửu Lộc]] đệ đơn từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại | + | Ngày 16 tháng 06 năm 1954, ông [[Nguyễn Phước Bửu Lộc|Bửu Lộc]] đệ đơn từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại bèn mời cựu thượng thư [[Ngô Đình Diệm]] từ hải ngoại về chấp chính với tư cách chí sĩ. Ngày 06 tháng 07 cùng năm, thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] lập tân nội các. |
Theo [[Hiệp định Genève]] ngày 20 tháng 07 năm 1954, lĩnh thổ [[Việt Nam]] từ [[vĩ tuyến 17]] trở ra Bắc (lấy sông [[Bến Hải]] làm mốc) giao cho lực lượng chính trị [[Việt Minh]], lĩnh thổ [[Quốc gia Việt Nam]] lui về phía Nam [[vĩ tuyến]]. Lực lượng võ trang [[Pháp]] và [[Quốc gia Việt Nam]] đều phải dời xuống phương Nam, các lực lượng bài [[Việt Minh]] nếu muốn cũng được triệt thoái theo. | Theo [[Hiệp định Genève]] ngày 20 tháng 07 năm 1954, lĩnh thổ [[Việt Nam]] từ [[vĩ tuyến 17]] trở ra Bắc (lấy sông [[Bến Hải]] làm mốc) giao cho lực lượng chính trị [[Việt Minh]], lĩnh thổ [[Quốc gia Việt Nam]] lui về phía Nam [[vĩ tuyến]]. Lực lượng võ trang [[Pháp]] và [[Quốc gia Việt Nam]] đều phải dời xuống phương Nam, các lực lượng bài [[Việt Minh]] nếu muốn cũng được triệt thoái theo. | ||
Dòng 76: | Dòng 66: | ||
Các [[thập niên]] sau, cựu hoàng Bảo Đại nhận quốc tịch [[Cộng hòa Pháp]] dưới danh Nguyễn Phước Vĩnh Thụy. Theo tài liệu cũ, đầu [[thập niên 1960]], chính phủ [[Pháp]] từng có ý định mời cựu hoàng tái chấp chính nhằm đưa thế lực [[Pháp]] can thiệp [[Việt Nam Cộng hòa]] sau sự kiện [[Cách mạng 01 tháng 11]]. Vào [[thập niên 1970]], phía [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] nhiều lần cử đại diện tới thuyết phục cựu hoàng tham gia chính phủ liên hiệp nhằm hấp dẫn những người bảo hoàng quốc nội, để tiến tới thống nhất hoàn toàn hai miền. Tuy nhiên, cựu hoàng tuyên bố lánh xa mọi vị thế chính trị. | Các [[thập niên]] sau, cựu hoàng Bảo Đại nhận quốc tịch [[Cộng hòa Pháp]] dưới danh Nguyễn Phước Vĩnh Thụy. Theo tài liệu cũ, đầu [[thập niên 1960]], chính phủ [[Pháp]] từng có ý định mời cựu hoàng tái chấp chính nhằm đưa thế lực [[Pháp]] can thiệp [[Việt Nam Cộng hòa]] sau sự kiện [[Cách mạng 01 tháng 11]]. Vào [[thập niên 1970]], phía [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] nhiều lần cử đại diện tới thuyết phục cựu hoàng tham gia chính phủ liên hiệp nhằm hấp dẫn những người bảo hoàng quốc nội, để tiến tới thống nhất hoàn toàn hai miền. Tuy nhiên, cựu hoàng tuyên bố lánh xa mọi vị thế chính trị. | ||
− | Sau khi [[Nam Phương hoàng hậu]] mất, ông kết giao rồi tái hôn nữ y tá [[Monique Baudot]]. Năm 1988, ông rửa tội theo [[Công giáo]] nhận thánh danh '''Jean Robert'''. Những năm cuối đời, ông thường được mời sang [[Mĩ]] hội ngộ bà con thân tộc. Đồng thời, một số chính đảng bảo hoàng hải ngoại lại mời ông đăng đàn họp báo để hi vọng can thiệp tình hình quốc nội. Tuy vậy, ông chỉ tuyên bố ủng hộ về mặt tinh thần. | + | Sau khi [[Nam Phương hoàng hậu]] mất, ông kết giao rồi tái hôn nữ y tá [[Monique Baudot]]. Năm 1988, ông rửa tội theo [[Công giáo]] nhận thánh danh '''Jean-Robert'''. Những năm cuối đời, ông thường được mời sang [[Mĩ]] hội ngộ bà con thân tộc. Đồng thời, một số chính đảng bảo hoàng hải ngoại lại mời ông đăng đàn họp báo để hi vọng can thiệp tình hình quốc nội. Tuy vậy, ông chỉ tuyên bố ủng hộ về mặt tinh thần. |
− | Cựu hoàng Bảo Đại tạ thế hồi 05 giờ ngày 31 tháng 07 năm 1997 tại quân y viện Val-de-Grâce ([[Paris]]). Tang lễ cử hành hồi 11 giờ ngày 06 tháng 08 năm 1997 tại thánh đường Saint-Pierre de Chaillot, số 35 đại lộ Marceau quận 16 ([[Paris]]), linh cữu quàn tại nghĩa địa Passy trên đồi [[Trocadéro]]. Ông là hoàng đế [[Việt Nam]] duy nhất không được truy [[miếu hiệu]] do triều đại đã cáo chung từ sinh thời. Ở hậu kì hiện đại, trong | + | Cựu hoàng Bảo Đại tạ thế hồi 05 giờ ngày 31 tháng 07 năm 1997 tại quân y viện Val-de-Grâce ([[Paris]]). Tang lễ cử hành hồi 11 giờ ngày 06 tháng 08 năm 1997 tại thánh đường Saint-Pierre de Chaillot, số 35 đại lộ Marceau quận 16 ([[Paris]]), linh cữu quàn tại nghĩa địa Passy trên đồi [[Trocadéro]]. Ông là hoàng đế [[Việt Nam]] duy nhất không được truy [[miếu hiệu]] do triều đại đã cáo chung từ sinh thời. Ở hậu kì hiện đại, trong tông thất Nguyễn có nhiều đề nghị truy hiệu cho ông là Xuất Đế hoặc Phế Đế để hoàn thiện thế phả. |
− | |||
==Gia quyến== | ==Gia quyến== | ||
[[Hình:(Recueil Portraits des princes d'Annam (...) btv1b8538710d 1.jpg|nhỏ|phải|200px|Bà Nam Phương hoàng hậu cùng thái tử Bảo Long và công chúa Phương Liên.]] | [[Hình:(Recueil Portraits des princes d'Annam (...) btv1b8538710d 1.jpg|nhỏ|phải|200px|Bà Nam Phương hoàng hậu cùng thái tử Bảo Long và công chúa Phương Liên.]] | ||
Dòng 85: | Dòng 74: | ||
===Tổ tiên=== | ===Tổ tiên=== | ||
* Nội tổ phụ : Cảnh Tôn Thuần hoàng đế | * Nội tổ phụ : Cảnh Tôn Thuần hoàng đế | ||
− | * Nội tổ mẫu : Hựu Thiên Thuần thái hoàng | + | * Nội tổ mẫu : Hựu Thiên Thuần thái hoàng hậu |
− | * Hoàng khảo : Hoằng Tôn Tuyên hoàng đế | + | * Hoàng khảo : Hoằng Tôn Tuyên hoàng đế |
− | * Hoàng mẫu : Đoan Huy hoàng thái hậu | + | * Hoàng mẫu : Đoan Huy hoàng thái hậu |
===Nội thất=== | ===Nội thất=== | ||
* Chính phi : Nam Phương hoàng hậu, húy Jeanne Mariette Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan | * Chính phi : Nam Phương hoàng hậu, húy Jeanne Mariette Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan | ||
− | * Chính thất : Thái Phương hoàng hậu | + | * Chính thất : Thái Phương hoàng hậu, húy Monique Marie Eugene Baudot |
* Thiếp (không hôn thú) : Thứ phi Bùi Mộng Điệp, Thứ phi Lê Thị Phi Ánh | * Thiếp (không hôn thú) : Thứ phi Bùi Mộng Điệp, Thứ phi Lê Thị Phi Ánh | ||
===Tình nhân=== | ===Tình nhân=== | ||
Dòng 98: | Dòng 87: | ||
* Bà Clément | * Bà Clément | ||
===Tử tức=== | ===Tử tức=== | ||
− | * Đông cung Hoàng thái tử Nguyễn Phước Bảo Long | + | * Đông cung Hoàng thái tử Nguyễn Phước Bảo Long, con bà Nam Phương hoàng hậu |
* Trưởng công chúa Nguyễn Phước Phương Mai, con bà Nam Phương hoàng hậu | * Trưởng công chúa Nguyễn Phước Phương Mai, con bà Nam Phương hoàng hậu | ||
* Công chúa Nguyễn Phước Phương Liên, con bà Nam Phương hoàng hậu | * Công chúa Nguyễn Phước Phương Liên, con bà Nam Phương hoàng hậu | ||
Dòng 105: | Dòng 94: | ||
* Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Thảo, con bà Thứ phi Mộng Điệp | * Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Thảo, con bà Thứ phi Mộng Điệp | ||
* Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Minh, con bà Thứ phi Phi Ánh | * Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Minh, con bà Thứ phi Phi Ánh | ||
− | * Hoàng nam Nguyễn Phước Bảo Ân | + | * Hoàng nam Nguyễn Phước Bảo Ân, con bà Thứ phi Phi Ánh |
* Hoàng nam Nguyễn Phước Bảo Hoàng, con bà Thứ phi Mộng Điệp | * Hoàng nam Nguyễn Phước Bảo Hoàng, con bà Thứ phi Mộng Điệp | ||
* Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Từ, con bà Vicky | * Hoàng nữ Nguyễn Phước Phương Từ, con bà Vicky | ||
Dòng 136: | Dòng 125: | ||
===Tài liệu=== | ===Tài liệu=== | ||
;;'''Quốc văn''' | ;;'''Quốc văn''' | ||
− | |||
* Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng, ''Các triều đại Việt Nam'', Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, [[Hà Nội]], 1993. | * Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng, ''Các triều đại Việt Nam'', Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, [[Hà Nội]], 1993. | ||
;;'''Ngoại văn''' | ;;'''Ngoại văn''' |